Những chàng trai tháng 12 - Chương 01 - 02 - 03

1

“Con còn lời nào muốn xưng tội nữa
không, con trai?”

Một giọng thì thầm khàn đục cất lên,
phía bên kia tấm lưới sắt là cái bóng của vị linh mục.

Có chứ, tôi vẫn còn muốn xưng tội tiếp
nhưng không biết phải mở lời như thế nào.

Từ trước tới nay mọi tội lỗi của tôi chỉ
xoay quanh mấy chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, không có gì là đặc biệt: lỡ miệng nói
bậy, gọi tên Người, bật cười trong nhà thờ, nói dối về việc rửa chân mỗi tối, bỏ
qua các buổi cầu nguyện sáng và đêm. Tuy nhiên tôi luôn cảm thấy mình có lý do
để bỏ qua mấy buổi cầu nguyện đó, bởi lâu nay tôi vốn đã không chăm chú lắm vào
điều được coi là Thiên đường của mọi người – các tín đồ Công giáo, Tin Lành…

“Hãy nói ta nghe, con trai.”

Biết phải giải thích thế nào đây? Tôi
tình cờ nghe được thông tin đó thì đâu phải là lỗi của tôi. Nó đè nén trong tôi
suốt quãng thời gian qua, như một thứ trái cấm mà tôi không có sự lựa chọn nào
khác ngoài mong muốn được nếm thử một lần xem sao.

“Con có một bí mật.” – Cuối cùng tôi
cũng cất lời.

“Một bí mật sao, con trai?”

“Vâng, thưa Cha.”

“Và nó khiến con phải lo lắng?”

“Vâng, thưa Cha.”

“Có lẽ con đã bị cám dỗ bởi những suy
nghĩ tội lỗi?”

Mọi việc có thể không phải bắt đầu theo
cái cách mà Cha nghĩ, nhưng rõ ràng là những suy nghĩ tội lỗi của tôi thì có thật.
Sự thật là mấy tuần gần đây trong đầu tôi luôn tràn ngập cái ý nghĩ tội lỗi ấy.
Thông tin mà tôi nghe lỏm được thật quý giá, và tôi đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải
làm sao để ngăn không cho thông tin ấy lọt vào tai của bốn đứa bạn thân.

“Một bí mật cũng có thể là tội lỗi, con
trai ạ.”

Đó chính là điều mà tôi đã luôn lo sợ.

“Hãy bày tỏ nỗi lòng của con và rồi tâm
hồn con sẽ được thanh thản.”

Và thế là tôi kể cho Cha nghe. Về việc
tôi đã nghe lỏm được, một cách vô tình, cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông
có tên Foley Can Đảm và O’Leary Lão Làng về một phụ nữ tên Teresa.

Có lẽ Cha hiếm khi phải nghe lời xưng tội
từ một con chiên mới 12 tuổi như tôi. Cha ngồi trầm ngâm suy tư bên trong căn
buồng buông rèm tối đó, nơi những suy nghĩ vẩn đục được các con chiên tự do thổ
lộ và chế ngự. Phía bên kia tấm lưới sắt là tôi, đang quỳ gối xưng tội. Toàn bộ
căn phòng được bao trùm bởi một sự yên lặng như tờ, đâu đó thỉnh thoảng vang vọng
những tiếng thì thầm xưng tội của những con chiên đang ngồi trên các băng ghế
dài phía bên ngoài.

“Con trai của ta,” – Cha khẽ nói – “bằng
việc muốn giữ riêng thông tin này cho bản thân, liệu con đã công bằng với những
người khác chưa? Nếu con vẫn tiếp tục giữ im lặng, thì có nghĩa là con đang ích
kỷ và trong mắt của Chúa, đó là một tội lỗi. Do đó, để tìm lại sự thanh thản
cho mình, có lẽ tốt nhất là con nên chia sẻ thông tin mà con nghe được với những
người bạn của mình. Hãy chia sẻ bí mật với họ, con trai của ta. Niềm vui và những
nỗi lo trong cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu chúng ta được chia sẻ”.

Tiếp đó Cha nói lời xá tội cho tôi bằng
tiếng Latinh. Ngày nay phương thức sám hối có vẻ cũng thay đổi, từ việc đọc ba lời
cầu nguyện của kinh Kính Mừng hằng đêm đến việc đọc kinh Mân Côi trong 10 ngày
liên tục, phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ và độ thường xuyên của tội lỗi mà người
đó mắc phải. Tôi đã được Cha miễn cho không phải sám hối nhưng vốn kiến thức ít
ỏi về tín ngưỡng vẫn đủ để tôi hiểu được rằng tội lỗi của tôi sẽ chỉ được gột rửa
hoàn toàn khi tôi chịu làm theo lời khuyên của Cha và tiết lộ với tám cái tai
thính kia của tụi bạn về cái điều sẽ khiến chúng phải ồ lên vì kinh ngạc.

“Hãy cầu nguyện cho ta, con trai” – vừa
nói Cha vừa kéo tấm gỗ nhỏ đằng sau tấm sắt và quay qua tiếp tục nghe lời cầu
nguyện ở phía bên kia của căn phòng.

Cầu nguyện cho Cha nữa ư? Với “nhiệm vụ”
mà Cha vừa giao, chắc chắn tôi sẽ vô cùng bận rộn cầu nguyện cho bản thân mình ấy
chứ.

2

Vừa mới hai tuần trước thôi, chúng tôi
đã tới một nơi gọi là vịnh Captain’s Folly và lần đầu tiên trong đời cả bọn được
nhìn thấy biển (và hình ảnh về cái tội lỗi vô thức của riêng tôi).

Chứng kiến sự kiện trọng đại buổi sáng
hôm đó là chín con mắt, vẫn còn tinh ranh và rạng ngời như những hạt thủy ngân:
hai mắt của Spark, Maps, Fido và tôi, con mắt thứ chín thuộc về Misty. Bên mắt
phải của cậu ấy không được tốt cho lắm, thường được che bằng một miếng kính
tròn đục.

Cho đến giờ thì bề mặt Trái Đất vẫn như
những mẩu bánh nướng mang hình các châu lục và hòn đảo, bao bọc xung quanh bởi
nước. Không phải là nước bình thường. Là nước với một sức mạnh siêu phàm: sức mạnh
truyền cảm hứng cho các ngư dân cất cao giai điệu hò kéo thuyền: sức mạnh cuốn
phăng những con tàu dạt ra ngoài đảo cọ hoang trong khi phải mất hàng năm để
đưa những chiếc chai đựng tin tức của họ về với thế giới văn minh. Thật phi thường
làm sao! Đại dương quá rộng lớn! Bầu trời cũng như hòa chung vào cùng đại
dương. Buổi sáng thứ Sáu hôm đó, cả lũ chúng tôi leo lên ngọn đồi vàng rực bởi
ánh nắng ban mai của mùa hè, mấy ngón chân trần không tất đang ngọ nguậy bên
trong những đôi giày chỉ dành riêng cho ngày Chủ Nhật.

“Các chàng trai, xin giới thiệu với các
cháu,” – BàMcAnsh giang rộng cánh tay ra nói – “Thái Bình Dương”.

“Đúng vậy, Trái Bình Phương” – chồng bà
McAnsh đứng bên cạnh lẩm bẩm.

Trước ngày hôm đó, khái niệm của chúng
tôi về biển cả vẫn luôn là cái gì đó rất… nhân tạo. Trong phòng khách của trại
trẻ mồ côi St. Roderick có treo một bức tranh sơn dầu cảnh biển đầy u ám, thỉnh
thoảng cứ có dịp là tụi tôi lại dán mắt vào đó trầm trồ thán phục. Còn các cặp
vợ chồng hiếm muộn cứ đến rồi đi, mà chẳng buồn để mắt đến một đứa nào trong lũ
chúng tôi. Và giờ đây, trước mắt chúng tôi là một vùng biển rộng lớn, xanh ngắt,
với những cơnsóng bạc đẹp đến không ngờ. Đứa nào cũng bị choáng ngợp, không thốt
nên lời.

Chưa một ai trong số chúng tôi được chuẩn
bị trước về cảnh đẹp hùng vĩ này. Càng không thể so sánh với cái hồ nước nhỏ
trong bức tranh về Đức Mẹ treo trong nhà thờ ở St. Roderick. Sự so sánh ấy quả
là khập khiễng! Những tấm áp phích quảng cáo du lịch dán đầy trong các ga tàu
cũng chẳng là gì so với những gì đang diễn ra trước mắt chúng tôi đây.

Fido, đứa nhỏ tuổi nhất trong nhóm năm đứa
tụi tôi, nó gầy đến nỗi xương sườn của nó chắc chỉ bằng mấy sợi dây hàng rào
thép gai, không kìm nén nổi đã hét lên đầy sửng sốt:

“Nhìn kìa, các cậu! Chắc dưới đó có lửa!”

“L-ử-a?” – bà McAnsh, người phụ nữ già
nua, gầy gò chịu trách nhiệm trông nom tụi tôi, tròn mắt hỏi lại – “Dưới đó?”

“Cô ơi, cô ơi, nhìn kìa!” – Fido lại rối
rít gào lên, tay chỉ thẳng ra biển – “Nó đang sôi kìa! Sôi sùng sục! Chắc chắn ở
dưới đó có lửa!”

Tôi cũng cho rằng Fido đã nói đúng. Cái
gọi là “biển” trước mắt tụi tôi có khỉ chỉ là một tấm gương khổng lồ đang được
nấu chảy sủi bọt trắng xóa. Mà công nhận là đứng ở trên đỉnh đồi này thì thấy
nóng thật. Có lẽ vì dưới đó có lửa thật!

Đúng lúc đó ông McAnsh lên tiếng: “Lạy
Chúa tôi, Cynthia, xem ra lần này chúng ta nhận được khá nhiều tín hiệu xấu về
sự bảo trợ của mình.”

Tín hiệu xấu! Tụi này ư? Ông ấy nói vậy
là sao nhỉ? Người già thật khó hiểu.

Ông McAnsh mặc một chiếc quần rộng thùng
thình, nhàu nhĩ, chân đi đôi giày nâu lem luốc. Ria mép không được tỉa tót thường
xuyên nên trông càng luộm thuộm. Còncái mũ trên đầu ông ấy thì cũ nát khỏi phải
bàn. Có lẽ nó đã bị lê la trên hàng trăm dặm đường sa mạc, sau đó bị cuốn xa ra
ngoài khơi, chịu sự bào mòn của nước muối biển, để rồi sau đó bị đánh dạt vào bờ,
trước khi chịu sự giằng xé và cào cấu bởi nanh vuốt của một chú chó lang thang
nào đó đang đi dạo trên biển.

Lại thêm một tín hiệu xấu nữa vừa lóe
lên. Lần này là Misty.

“Đó là cơn Đại Hồng Thủy!” – Misty đột
nhiên gào ầm lên – “Một cơn Đại Hồng Thủy!” – Giọng điệu sặc mùi mấy tay buôn
bán tàu ở gần trại trẻ St. Roderick – “Đây sẽ là cơn Đại Hồng Thủy đáng nguyền
rủa và lớn nhất từ trước tới nay cho mà xem.”

“Ôi, lạy Chúa tôi!” – ông McAnsh nhăn mặt
lầm bầm.

“Cẩn thận cái mồm! Cẩn thận cái mồm!” –
bà McAnsh nạt nộ - tụi tôi, tất nhiên rồi.

Ông McAnsh dùng tay áo lau miệng chai rượu
vang, rồi đưa cho vợ. Sau khi tu một hơi dài, bà McAnsh vẫy tay xua tụi tôi:
“Đi nào, mấy đứa! Đi xuống thôi.”

“Lên xuống” – ông McAnsh càu nhàu.

Hai chân bà McAnsh rung lên bần bật khó
nhọc bước đi trên con đường mấp mô đầy đá và sỏi. Có lẽ một trong hai cái mắt
cá chân của bà ấy cần phải được lắp cho chặt lại. Cả lũ lục đục bám theo, ông
McAnsh nhét chai rượu vào trong túi áo khoác. Miệng chai thò ra ngoài túi, lúc
la lúc lắc như muốn trêu ngươi chúng tôi.

3

Spark bỗng trở nên lắm mồm hơn thường
ngày, ngay khi cảm đám xuống tới chân đồi.

Có lẽ cái mùi mằn mặn của biển đã truyền
cảm hứng cho Spark, khiến cậu ta liên tưởng tới cái mùi gia súc nồng nặc thường
vương lại trong các phòng học và phòng ngủ ở trại mồ côi vào những ngày có
phiên chợ. Cứ mỗi tuần một lần, người ta lại họp chợ bán cừu và gia súc, đôi
khi còn có cả ngựa hoang và dê núi. Những tiếng nói oang oang, những tiếng mặc
cả như chợ vỡ luôn khiến Spark tò mò và thích thú. Ước mơ của cậu ấy là một
ngày nào đó được đứng chung hàng ngũ cùng đám người buôn bán đó. Trong đám tụi
tôi mới chỉ mình Spark biết bản thân muốn gì. Cậu ấy thường tự tưởng tưởng đứng
trên bục đấu giá, rồi trả giá cho những món-đồ-tưởng-tượng. Thậm chí còn không
quên luyện giọng để khởi động trước các phiên đấu giá giả vờ cứ như thật. Tụi
tôi cũng tin là cậu ấy sẽ đạt được ước mơ đó.

Dọc đường đi xuống triền đồi, Spark
không ngừng hô vang: “Hurrum! Hoo! Hee! Haw-hah! Haw-hah! Bong! Bong! Bong!
Booong.” Theo ngôn ngữ của Spark thì tụi tôi sẽ phải tự hiểu câu đó có nghĩa
là: “Một trăm! Hai! Ba! Bốn! Bốn rưỡi! Bốn rưỡi! Bốn rưỡi! Bán!”

Spark có mái tóc vàng như nghệ, mặt đầy
tàn nhang và một đôi mắt xanh buồn. Trong một lần vị giám mục tới thăm trại St.
Roderick, khi được hỏi thường làm gì trước khi đi ngủ mỗi tối, Spark đã nói
ngay không cần suy nghĩ: “Con cầu nguyện cho đức Giáo hoàng”. Vị giám mục cười
vang và khen ngợi cậu là một đứa bé thông minh và nhanh trí. Cũng từ hôm đó cái
tên Spark – có nghĩa là ánh sáng lóe lên, hoặc sự thông minh – được ra đời.

Đám chúng tôi xách theo mấy cái vali rẻ
tiền của mình và đi theo hai vợ chồng nhà McAnsh tiến sâu vào trong lòng thung
lũng nằm kề sát với biển. Nó như một bức tượng bán thân, không đầu, hai cánh
tay rời ra, cổ tay là những vách đá nhô thẳng ra biển, còn lòng bàn tay chìm
sâu dưới lòng đại dương. Dưới chân đồi là hai ngôi nhà tranh, một cái sơn màu
xanh nhạt, trong vườn tràn ngập những cây hoa mang hình giọt băng thường chỉ nở
vào ban ngày, điểm xuyết cùng rất nhiều cây mao lương hoa vàng, cây hoa cải
hương sắc đỏ rực rỡ. Đứng từ trên? nhìn
xuống, vườn hoa này thật chẳng khác nào một tấm thảm hoa nhiều màu sắc đang trải
dài dưới ánh Mặt Trời. Ngôi nhà còn lại có màu trắng, dọc lối vào trải toàn đá
trắng như vôi, trước vừa có tấm bảng để chữ:

Không

Công

Chân đồi phía bên kia đưa chúng tôi đi
thẳng ra biển: những cồn cát trắng mịn cùng thảm cỏ xanh rì trải dài. Đây đó là
những dấu chân in đậm trên cát, chạy dài ra tận mép nước.

Không ai bảo ai, cả đám đồng loạt đưa mắt
dõi theo vệt dấu chân đó, dọc theo triền cát trắng, nhìn thẳng ra ngoài biển.
Có cái gì đó màu đỏ đang nhấp nhô giữa làn nước. Một quả bóng bị bỏ quên chăng?
Không phải, là ai đó đang đùa nghịch với những con sóng. Cuối cùng trí tò mò của
chúng tôi cũng được giải đáp khi một người mặc đồ bơi màu xanh thẫm từ dưới biển
trồi lên và đi vào bờ.

Dù ở khoảng cách xa thế nào đi chăng nữa
thì chúng ta cũng sẽ nhận ra được đối phương có phải là người-trong-hội hay
không. Ví dụ, lũ trẻ con tập tễnh mới biết đi sẽ dễ dàng tìm thấy “đồng bọn” của
mình giữa một rừng người, trong khi những đứa bé lớn hơn một chút sẽ chỉ tìm đến
với hội trẻ con đồng trang lứa, hay nói một cách khó nghe hơn thì chó sẽ chỉ
chơi với chó. Chúng tôi ngay lập tức nhìn ra cái người vừa từ dưới biển đi lên
là một phụ nữ trưởng thành. Cô ấy dùng cả hai tay hất nước lên ngực và hông để
cho trôi hết cát còn vương lại, kế đó cởi cái mũ bơi màu đỏ trên đầu ra, để lộ
mái tóc màu nâu nhạt dài đến chấm vai. Cô vo tròn cái mũ lại rồi ném thẳng lên
bờ. Ngay sau đó cô bất ngờ sải chân chạy vài bước, nhún nhẹ chân rồi lộn một
vòng trên cát. Đó là cú nhào lộn hoàn hảo và đẹp mắt nhất mà tôi từng được xem.
Hai tay chống thẳng trên cát, mái tóc lòa xòa chấm đất rồi đột nhiên cả người
cô hất ngược ra đằng sau, hai chân chạm đất, mái tóc buông dài trên vai. Tất cả
những động tác ấy chỉ xảy ra trong chớp mắt nhưng có lẽ chính khoảng cách xa đã
khiến chúng như một thước phim quay chậm, lôi cuốn đến lạ thường. Quả là một
màn trình diễn đã đời cho chín con mắt của tụi tôi. Trong tâm trí của tôi, màn
nhào lộn trên biển ấy mãi luôn tươi mới như bông hoa được bảo quản giữa những
trang sách của ký ức.

Đó là ấn tượng đầu tiên của chúng tôi về
cô Teresa.

Cô ấy đi về phía cái mũ bơi màu đỏ, cúi
xuống nhặt nó lên. Ngay khi đặt chân lên triền cát mịn, đột nhiên cô thay đổi hẳn
phong thái đi lại. Mấy thằng con trai tụi tôi ngơ ngác nhìn nhau không hiểu tại
sao cô Teresa tự nhiên đi kiểu duyệt binh như vậy, nhưng chỉ một lát sau cả đám
đã ồ lên gật gù ra chiều hiểu biết, bởi đi bộ trên cát khô không hề đơn giản
chút nào. Nếu nhìn thoáng quan, cô Teresa trông như một phụ nữ trưởng thành,
nhưng sau cú nhào lộn ngoạn mục vừa rồi thì tất cả đều nhất trí rằng ở mức độ
nào đó, cô ấy vẫn thuộc về thế giới trẻ con của chúng tôi.

Hai vợ chồng ông bà McAnsh vẫn lầm lũi
đi xuống đồi, khiến cả đám tụi tôi phải hộc tốc chạy theo cho kịp. Phía bên dưới,
vườn hoa giọt băng lộng lẫy như những tấm băng-rôn trắng muốt, tiếng sóng biển
rì rầm mời gọi. Trước mắt chúng tôi là hai tháng tự do tung hoành ngang dọc –
hai tháng để lên kế hoạch cho một cuộc đào tẩu – và chúng tôi sẽ phải tận dụng
cho tốt cơ hội ngàn-năm-có-một này.

Báo cáo nội dung xấu