Những chàng trai tháng 12 - Chương 13 - 14 - 15 - 16
13
Những ngày sau đó, người bạn đồng hành
thân cận nhất của tôi chính là cái khung ảnh cũ.
Đầu tôi trở nên mụ mị bởi ám ảnh rằng
Spark, Maps, Misty hoặc Fido sẽ là sự lựa chọn số một của cô Teresa. Chỉ có cái
khung ảnh mới giúp tôi trút bỏ được gánh nặng đó, mỗi lần tôi biến nó thành
khung cửa sổ và đôi tai của mình. Bức tranh về bầu trời xanh thẳm không gợn
bóng mây trong đó khiến tôi liên tưởng tới đôi mắt của chú Foley. Có lần, tôi lại
bắt được đôi mắt màu vàng lục của cô Teresa ở gần đường chân trời. Vào cuối
ngày, khi Mặt Trời bắt đầu xuống núi, thu gọn vào bốn góc của cái khung là hình
ảnh mà tôi vẫn thường nhìn thấy trong các bức họa nổi tiếng của Italia ở St.
Roderick. Những cánh hoa giọt sương rực rỡ trong ánh nắng ban mai là thế để rồi
thu mình lặng yên khi ánh nắng chiều vụt tắt. Cái mùi mằn mặn của biển cũng như
ngấm vào từng thớ gỗ của cái khung ảnh đang được đặt cao trên cồn cát. Bỗng từ
đâu xen vào giữa khung hình là hình ảnh một chiếc xuồng chở khách du lịch, có
tiếng người hướng dẫn đang kể lịch sử của vịnh Captain’s Folly. Du khách đổ dồn
về một bên mạn thuyền để chiêm ngưỡng cái xác tàu chìm gần đó làm cho cái xuồng
tròng tranh nghiêng hẳn sang một bên. Lại có tiếng người hướng dẫn gào ầm lên
yêu cầu hành khách trở lại vị trí nếu không muốn cái xuồng bị lật. Điều đáng
nói là ở chỗ, nghe thấy tiếng là vậy nhưng sao trong bức tranh của tôi không hề
có bóng dáng của người hướng dẫn viên du lịch đó, chỉ có hình ảnh của chiếc xuồng
còn lưu lại trong khung. Có lẽ đó chính là sức mạnh của cái khung hình, có thể
làm biến đổi cả hiện thực.
Cơ hội của tôi so với những đứa còn lại
là bao nhiêu?
Cô Teresa chưa một lần chú ý đặc biệt gì
đến tôi, trừ một lần hỏi tại sao các bạn lại gọi tôi là Choker, tức là đứa bị
nghẹn. Spark giải thích đó là vì ở St. Roderick, cứ mỗi lần bị gọi đứng dậy trả
lời câu hỏi là tôi lại vô cớ không nói nên lời. Và cô ấy đã mỉm cười hiền từ với
tôi kèm theo một tiếng thở dài đầy cảm thông. Từ sau lần thoa kem chống nắng
ngoài biển đó, cô gọi tôi là Choker như thể đó là tên thật của tôi vậy. Cũng
không khó để nhận thấy cô đã thoa kem cho Fido và Misty nhẹ nhàng đến thế nào.
Fido bởi vóc người nhỏ bé của cậu ấy chăng? Hay Misty bởi cậu ta chỉ có một mắt
tốt? Không lẽ tôi sẽ phải tự hành xác để trở nên gầy gò như Fido hoặc tự làm
cho mình lác xệch đi để cạnh tranh với Misty sao? Theo phân tích ban đầu của
tôi, Maps không phải là dạng mà cô Teresa sẽ để mắt tới. Chỉ có Spark là mối đe
dọa lớn nhất. Trong số năm thằng chúng tôi thì cậu ta là đứa có khả năng làm
cho các sơ ở St. Roderick mỉm cười. Cái miệng nhanh nhảu cùng các phiên đấu giá
ngộ nghĩnh của Spark luôn khiến cho họ thích thú, kể cả những vị khó tính nhất.
Do đó tôi trở nên nhạy cảm hơn bao giờ hết
với từng lời ăn tiếng nói, từng ánh mắt cử chỉ của cô Teresa khi cô ở bên chúng
tôi. Tôi đã nghĩ ra đủ trò để chứng tỏ sự yếu đuối, bất lực của mình. Tôi nắm
giữ trong tay một thứ vũ khí bí mật nhưng lại không làm sao để sử dụng nó có lợi
cho mình. Ví dụ, nếu tôi cắt một nhùm tóc của mình, gửi tới cửa tiệm của cô
Teresa kèm theo một bó hoa tươi thắm, ngay lập tức tôi sẽ bị bốn đứa còn lại
lôi ra chất vấn, hoạnh họe, và chắc chắn bọn nó sẽ bắt bằng được tôi phải khai
ra bí mật kinh khủng đó.
Thế còn chú Foley quý đứa nào nhất trong
đám tụi tôi?
Một tuần sau cái đêm cuối năm định mệnh
đó, tôi bí mật theo dõi dò ý của chú. Cái tuần đó thật là ồn ã, bởi tiếng quai
búa, tiếng máy khoan phát ra từ xưởng đóng tàu của ông Porter Bụng Phệ. Ông đã
gần tiến tới công đoạn sơn tàu rồi, nên có lẽ nó sẽ kịp hạ thủy trong thời gian
chúng tôi còn ở đây. Bốn đứa kia tỏ ra rất háo hức về điều đó, trong khi tôi đường
như đã mất mọi cảm giác.
Cái khung ảnh này giúp tôi theo dõi Fido
đang hì hục kéo xuống nước cái xuồng bằng thiếc mà cậu ta moi được từ bãi rác
hôm trước. Đó là các mảnh thiếc được dính vào nhau ở hai đầu bằng đinh và gỗ,
được quết một lớp nhựa đường để chống thấm. Một thanh gỗ được bắc ngang để giữ
cân bằng. Spark, Maps và Misty lăng xăng giúp Fido đưa con xuồng ra xa tới nơi
có các con sóng dập dềnh. Với cả bốn đứa cùng leo lên một lúc, nước biển mấp mé
như muốn ào vào trong xuồng. Chỉ cần một cơn sóng to cũng đủ nuốt gọn con xuồng
cùng bốn đứa đang ngồi trên đó, và tôi sẽ là đứa duy nhất còn sót lại. Đó là một
ý nghĩ cực kỳ tội lỗi và tôi cảm thấy ghê sợ chính bản thân mình khi dám nghĩ
ra một điều kinh khủng như vậy. Tuy nhiên, cái ý muốn bốn đứa còn lại biến mất
khỏi cõi đời này cứ lặp đi lặp lại mỗi lần tôi nhìn ngắm nhìn thế giới qua cái
khung tranh đã bạc màu của mình.
14
“Xin Cha hãy tha thứ cho con, vì con đã
có tội…”
Và đó chính là câu đầu tiên trong buổi lễ
xưng tội của tôi.
Lại thêm một tuần nữa trôi qua, và buổi
sáng Chủ nhật hôm đó, ông bà McAnsh đưa chúng tôi tới nhà thờ Serenity để xưng
tội với Cha Scully trước khi buổi lễ bắt đầu. Cũng tại đây tôi đã được nhận được
lời khuyên nên chia sẻ bí mật kia với bốn người bạn còn lại của mình.
Trong suốt buổi lễ sau đó, tôi không
nghĩ được điều gì khác ngoài chuyện có nên làm theo lời khuyên bảo của Cha
Scully hay không. Buổi lễ đã gần kết thúc, và tôi vẫn chưa tìm ra được kế sách
nào cho vẹn toàn.
Ông bà McAnsh bỏ mặc chúng tôi lại cho tự
đi về vịnh Captain’s Folly. Họ lấy lý do cần phải đi gặp bạn nhưng từ chỗ chúng
tôi đứng có thể dễ dàng thấy hai người đang dắt díu nhau vào cổng sau của quán
rượu Dog’s Hind Leg, gần cái quán nơi khi xưa bà McAnsh đã nhận được lời cầu
hôn của ông Bandy. Tôi có cảm giác như bước chân của mình ngày một hằn sâu trên
cát bởi sức nặng của cái bí mật không – thể - nói – ra đang đè lên hai vai,
trong khi Spark đang vui vẻ hát vang bài ca đấu giá của mình. Đến chiều thì tim
tôi như có tảng đá đè nặng không gì chống đỡ nổi. Và khi bóng đêm bao trùm lấy
căn phòng nhỏ của chúng tôi, khi đã yên ổn bên trên cái ga trải giường và bên
dưới mấy cái chăn mang hình tín hiệu xấu, tôi có cảm giác rằng đến những kẻ phạm
tội giết người cướp của cũng không thể ăn năn hối lỗi được bằng tôi.
Ánh trăng giờ đã chiếu sáng cả căn buồng,
nhưng vẫn chưa có đứa nào ngủ được. “Tớ có thể ngửi thấy mùi sơn mới trên con
tàu của ông Bụng Phệ” – một đứa mào đầu, và tiếp sau đó là những câu chuyện bàn
luận rôm rả về chiếc tàu. Đây cũng là một thứ tự do xa xỉ mà chúng tôi không
bao giờ có được khi còn St. Roderick, sau khi đèn đã tắt. Không hiểu ông Bụng
Phệ sẽ làm thế nào để đưa con tàu khổng lồ đó xuống nước? Không đứa nào đưa ra
được câu trả lời cho câu hỏi hóc búa đó. Bỗng nhiên Spark đặt ra một câu hỏi
không hề liên quan, một câu hỏi khiến tôi phải quay trở về đối mặt với hiện tại
đột ngột đến nỗi tôi tưởng như vừa bị ăn một quả đấm vào mạng sườn.
“À này, Choker, sao hôm nay cậu ở chỗ
xưng tội lâu thế?”
“Ừ, đúng rồi. Siêu lâu ấy chứ!”
“Cậu đã xưng tội gì thế?”
Tất cả những câu đó đều nhắm vào tôi.
Những tấm ga giường và chăn sặc sỡ nhiều
màu sắc là thế bỗng trở nên chỉ còn hai màu xám và đen trong mắt tôi. Mấy cái
chăn cái tay ngọ nguậy không ngừng bên dưới lớp chăn bỗng trở nên cứng đờ khi
nghe lời xưng tội thứ hai trong ngày của tôi. Tôi kể cho bốn đứa còn lại về những
gì tôi đã nghe lỏm được tại câu lạc bộ lướt sóng ngày hôm đó. Tất cả đều hiểu rất
rõ tại sao tôi quyết định tiết lộ thông tin này với mọi người. Việc giữ kín bí
mật ấy trong lòng sẽ chỉ khiến cho tội lỗi của tôi trở nên trầm trọng hơn.
Không một ai nói tiếng nào, tất cả lặng lẽ quay lưng vào nhau và vào góc tường.
Có lẽ, cũng như tôi, cả bọn đang hồi tưởng lại quãng thời gian vừa qua cùng với
cô Teresa, từng ánh mắt, nụ cười, từng lời ăn tiếng nói của cô dành cho mình, để
rồi đánh giá xem cơ hội của mình là bao nhiêu. Tôi đã trải qua tâm trạng đó suốt
hơn mười ngày nay vì thế tôi hiểu rất rõ những gì đang diễn ra trong đầu bọn họ.
Không một lời nào được thốt ra, sau khi
tôi kết thúc bài xưng tội của mình, ngoài tiếng kèo kẹt của mấy cái lò xo khi
có ai đó trở mình. Một sự im lặng đáng sợ bao trùm toàn bộ căn phòng, chỉ còn lại
tiếng sóng biển rì rầm ngoài kia.
Tất cả đám chúng tôi đều bị bỏ rơi và được
đưa về St. Roderick nuôi dưỡng. Thỉnh thoảng ở trong viện St. Roderick cũng có
đứa may mắn được nhận nuôi và bắt đầu cuộc sống mới bên ngoài. Nhưng đã nhiều
năm trôi qua và năm đứa chúng tôi vẫn chưa một lần được ai để mắt tới, vậy mà
bây giờ mỗi đứa đều nắm trong tay một cơ hội để đổi đời.
Các sơ vẫn luôn trấn an tụi tôi rằng đến
một lúc nào đó, mỗi đứa chúng tôi sẽ tìm được bố mẹ cho riêng mình. Và tôi biết,
tất cả chúng tôi đứa nào cũng có hình mẫu bố mẹ lý tưởng riêng. Bởi tôi cũng vậy.
Nhưng cho dù những ông bố bà mẹ tưởng tượng ấy có tuyệt vời đến thế nào đi
chăng nữa thì chắc chắn vẫn không ai hoàn hảo và đáng mến hơn cô Teresa và chú
Foley. Do đó, sự lựa chọn của cô Teresa vẫn là ước vọng lớn nhất đời của năm đứa
bọn tôi.
15
Với việc ngày nào cũng chơi đánh trận giả
ngoài bãi biển, làn da cớm nắng xanh bợt của chúng tôi chẳng mấy chốc đã chuyển
sang màu nâu sẫm. Bộ đồ bơi đen xì trước đây cũng chuyển hẳn sang mày xám cũ
rích của bọt biển, làm cho cái nhãn hiệu trên quần càng nổi rõ mồn một: hình
con gà trống béo ị đang cất tiếng gáy bên cạnh dòng chữ Bột mì Mãi Vươn Cao.
Các thớ vải dãn ra đến nỗi chúng tôi đã phải thắt vài cái nút trên quai áo để
giữ cho đũng quần khỏi bị tụt xuống dưới đầu gối.
Không ai hỏi han hay bàn luận thêm gì về
câu chuyện mà tôi nghe lỏm được giữa chú Foley và ông O’Leary. Có lẽ bởi đứa
nào cũng đinh ninh rằng chú Foley đã có quyết định của riêng mình. Khi chú cho
tụi tôi xem những bức ảnh sống động về cuộc sống trước kia của mình, chẳng phải
chú ấy đã hỏi tại sao chưa có ai nhận nuôi tụi tôi đó sao. Sau đó cháu gái của
cô Teresa tới chơi và ở lại một đêm, một cô bạn có cái giọng léo nhéo, tầm tuổi
tụi tôi, tóc vàng, chân tay khẳng khiu, mặc quần sóoc trắng, áo màu da cam.
“Chú Doley nói muốn nhận mình làm con
nuôi” – cô bé tự hào nói.
“Thật sao?”
“Các cậu nghĩ là bó mẹ mình sẽ chịu chắc?”
– cái giọng chanh chua bật lại.
Nếu tôi mà là bố mẹ cô ta thì tôi lại chẳng
mừng quá đi ấy chứ, nhưng tôi đồ rằng chú Foley sẽ không chịu nổi cô ta quá ba
ngày. Đó là một đứa con gái hống hách và tự phụ, đủ tiêu chuẩn được khoác áo nữ
tu ở St. Roderick.
Tại bàn ăn buổi sáng ngày hôm sau, chúng
tôi nhìn nhau đầy thận trọng. Sau khi hoàn thành các công việc mà ông bà McAnsh
phân công, chúng tôi lại được tự do ra ngoài chơi. Misty ra ngồi một mình ngoài
cồn cát, trong khi bốn đứa còn lại tha thẩn dạo quanh ghềnh đá quan sát hai người
đánh cá cần mẫn nhất vịnh: Ông O’Leary và chú ngựa già Socrates. Ông lão đang
hoan hỉ thả cái mồi câu cũ kỹ xuống nước, trong khi con Socrates đứng bên cạnh
đang dùng chân khuấy nước ầm ĩ, để rồi nghiêng đầu đớp lấy những váng nước bắn
vọt lên không trung một cách điệu nghệ.
Trước nay tụi tôi chẳng bao giờ nghĩ đến
chuyện đi đếm đầu người xem đứa nào có mặt đứa nào không, bởi lúc nào mà năm đứa
chúng tôi chẳng dính chặt lấy nhau. Do đó, phải mất một lúc lâu, cả đám mới phát
hiện ra sự vắng mặt của Misty.
Thì ra cậu ta đang lượn lờ trong khu vườn
trước cửa nhà cô Terasa.
Giờ thì dù ông lão O’Leary có bắt được
con Henry khổng lồ đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không đời nào chịu nán lại để
chứng kiến thời khắc lịch sử ấy. Cả bốn đứa xô nhau chạy như bay qua ghềnh đá,
lao về phía cồn cát trắng nhà cô Teresa, bỏ lại đằng sau tám vết chân còn mới
nguyên trên cát.
Chạy được một quãng thì Maps dừng lại đi
bộ thong dong, để mặc cho ba thằng tụi tôi tiếp tục chạy thục mạng về khu vườn
nơi Misty Hayward đang lom khom cần mẫn nhặt cỏ.
Cậu ta đang tính toán điều gì? Định bắt
chước ông già Bandy McAnsh tự nhận mình là thợ làm vườn chăng?
Misty luôn có cách rất lạ để bày tỏ thái
độ rằng mình đang phớt lờ những người xung quanh. Cậu ta sẽ nhắm tịt con mắt
bình thường của mình lại và nhìn mọi thứ qua con mắt mờ kia. Và cậu ta đang làm
như vậy với ba đứa tụi tôi. Sau đó lại lúi húi cúi xuống nhặt cỏ tiếp, như thể
không nhìn thấy bọn tôi đang đứng sờ sờ trước mặt.
“Cậu đang làm cái quái gì thế?” – một đứa
cau có gắt lên.
Misty vẫn vờ như không nghe thấy gì, tiếp
tục công việc của mình một cách cần mẫn. Từ bên trong nhà phát ra một bản nhạc
du dương và tiếng cô Teresa đang khe khẽ hát theo.
“Cô ấy thuê cậu đấy à?”
“Bao nhiêu tiền?”
“Cẩn thận không cậu xới tung cả mấy bông
hoa lên bây giờ.”
Misty hành động như thể đôi tai của cậu
ta giờ cũng trở nên kém hiệu quả như con mắt phải của mình. Có tiếng chân cô
Teresa đi về phía cửa ra vào và ba đứa bọn tôi nhanh chóng trốn ra sau bờ giậu.
Đứa nào cũng nhíu mày khó chịu khi thấy cô mỉm cười âu yếm với thằng Misty. Sau
khi cô quay vào trong nhà, cả đám lại trồi lên ngó nghiêng qua hàng rào.
“Biến đi!” – Misty rít lên.
Cậu ta với tay lấy một nắm đất và định
ném về phía tụi tôi. Tất nhiên là tụi tôi sẽ né kịp.
“Biến đi!” – cậu ấy lại gắt lên.
“Nói cho tụi này biết đi. Cậu kiếm được
bao nhiêu tiền trong vụ này?”
“Chẳng đồng nào cả” – Misty cộc lốc nói.
“Vậy thì tự dưng sao cậu lại đi làm việc
đó?”
“Biến đi!”
Và một cục đất bay vèo về phía tụi tôi
đang đứng nhưng cả ba thằng núp xuống kịp.
“Tớ biết chuyện gì đang xảy ra rồi” –
Spark nói – “Chẳng có ai thuê ai cả, mà chính cậu đã đề nghị được nhổ cỏ hộ cô
Teresa”.
Đúng vậy, tôi nhớ có lần cô Teresa than
phiền là chưa có thời gian làm cỏ cho khu vườn trước nhà. Mặt Misty đột nhiên
tái nhợt đi, và tụi tôi hiểu Spark đã đoán đúng.
“Nghe này, tất cả hãy biến khỏi đây
ngay! Biến ngay đi!” – nói rồi cậu ta vung tay ném tiếp cục đất thứ hai, lần
này là nhắm thẳng vào Spark. Tất nhiên là Spark thụp đầu né kịp, sau đó ngóc
lên nói với theo: “Tớ nghĩ là tớ cần phải giúp cậu một tay mới được”.
Những nắm đất tiếp tục được ném vèo vèo
qua hàng rào, kèm theo những lời đe dọa của Misty nhưng ngần ấy sao cản nổi ba
đứa tụi tôi. Spark, Fido và tôi lần lượt xắn tay nhập cuộc, nhổ tất cả những gì
có màu xanh mà trông giống cỏ dại. Tiếng cãi cọ, tranh giành của chúng tôi làm
át cả tiếng nhạc trong nhà, vọng tới tai cô Teresa. Từ trong nhà chạy ra, mặt
cô lộ rõ vẻ ngạc nhiên khi thấy có thêm ba đứa tụi tôi trong vườn.
“Chuyện gì thế này? Mấy đứa tính mở hội
Hướng đạo sinh đấy hả?”
“Nhổ cỏ lên! Nhổ cỏ lên! Xong!” – Spark
tay làm thoăn thoắt, miệng nghêu ngao hát.
Misty hoàn toàn có thể kể cho cô Teresa
biết sự thật của câu chuyện, nhưng làm sao cậu ta dám mở lời chứ? Bởi đó sẽ là
một nước cờ sai trầm trọng. Việc tỏ ra thù địch với ba đứa bọn tôi – nhất là
khi chúng tôi tình nguyện giúp cậu ta – sẽ chỉ làm cho hình ảnh cậu ta trong mắt
cô Teresa xấu đi mà thôi.
“Hôm nay quả là một ngày may mắn của cô.
Nếu các cháu muốn giúp cô đến vậy thì đương nhiên là cô sẵn lòng rồi” – cô
Teresa cười rạng rỡ.
Kết quả là, Spark: chịu trách nhiệm cắt
cỏ, Fido: chịu trách nhiệm lau chùi và đnáh bóng các gạt tàn thuốc lá, các hộp
đĩa hát bằng đồng thau mà chú Foley cất công mang từ Châu Âu về hồi cuối Thế chiến
lần thứ nhất. Tôi: cũng là lau chùi và cọ rửa các bậc cầu thang và cửa sổ trước.
Còn Maps thì sao? Sau một hồi im lặng và
chậm rãi một cách khó hiểu, cậu ta từ từ tiến lại phía mấy cô cháu tụi tôi.
Không để cho cô Teresa kịp nghĩ ra việc giao cho mình, cậu ấy nói rất nhanh:
“Cô ơi, cô có thời gian dạy cháu không?”
“Dạy cháu ư? Nói cô nghe xem cô có thể dạy
cháu điều gì nào?”
Maps dùng tay xoay tròn một vòng rồi
nói: “Cô dạy cháu làm sao để nhào lộn giỏi như cô đi”.
Thật là đồ mưu mô xảo quyệt, đồ phản bội
đáng khinh! Bốn đứa chúng tôi đứng sững như trời trồng, sốc không nói nên lời.
Đến cô Teresa cũng há miệng ngạc nhiên khi nghe thấy lời đề nghị táo bạo đó. Chẳng
nhẽ cô ấy chịu lãng phí thời gian dạy cho con cáo già hai – chân xảo quyệt đó
cách lộn nhào trên không sao? Thật không ngờ, cô Teresa có vẻ như đang cân nhắc
làm chuyện đó thật. Cô nhìn xuống bộ đồ đang mặc trên người, một chiếc ao thun
cộc tay và một cái quần sooc, rồi vui vẻ nói: “Tại sao lại không nhỉ? Dù sao
cũng cần có một khởi đầu mới”.
Vấn đề là, cái khởi-đầu-mới-mẻ đó thuộc
về ai?
Không đứa nào có cơ hội hỏi cô Teresa
câu đó bởi cô đã cùng Maps chạy vù ra phía nền cát cứng. Tôi tìm mọi cách để giữ
cho đầu óc mình không bị ảnh hưởng bởi cú đánh lén hèn hạ vừa rồi của cậu ta, bằng
cách tập trung vào công việc của mình, nhưng hình ảnh hai cô cháu nô đùa trên
bãi biển hiện rõ mồn một trước mắt tôi qua khung cửa sổ. Tôi giận dữ lấy nước hắt
lên cửa kính nhằm xóa nhòa cái hình ảnh đó đi, nhưng cũng vô ích, thậm chí nó lại
càng hiện rõ hơn.
Và khi những tràng cười giòn giã của
Maps vọng tới tai chúng tôi, cả đám quyết định liên minh với nhau chống lại cậu
ta. Đây là sự bắt đầu của những lần luân phiên liên kết: bốn chống một, ba chống
hai, năm chống năm, nhưng cũng có lúc cả năm đứa lại cùng liên minh với nhau để
chống lại mối đe dọa chung.
Vậy chẳng lẽ đây là kết quả của việc ăn
năn sám hối theo lời khuyên của Đức Cha Scully hay sao?
16
Cái khung ảnh mà tôi lượm lên từ bãi rác
giờ đã trở thành ống kính theo dõi để tôi quan sát những đứa khác.
Chưa bao giờ tụi tôi lại chăm kiểm tra
sĩ số như lúc này. Chỉ cần một đứa biến mất thôi là bốn đứa còn lại nhao nhao
đi tìm kiếm. Hai tuần trước, khi vừa chân ướt chân ráo tới vịnh Captain’s Folly
này, cả đám vẫn còn ríu rít cùng nhau khám phá khắp nơi, chạy nhảy, nô đùa một
cách vô tư, không chút suy tính. Nhưng nay quãng thời gian đẹp đẽ ấy đã kết
thúc, thay vào đó là những gương mặt ủ rũ, những cái nhìn lén lút, đầy nghi kị,
những đôi chân chỉ tìm cơ hội để giẫm đạp lên nhau. Lời khuyên của Cha Scully –
“Hãy chia sẻ bí mật với họ, con trai của ta. Niềm vui và những nỗi lo trong cuộc
sống đều sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu chúng được chia sẻ” – cứ khiến tôi suy nghĩ
mãi. Phải chăng Cha, cũng như vị thuyền trưởng kia, hay cũng như bất kỳ con người
nào, cũng đã từng nuôi một ý nghĩ tội lỗi nào đó?
Cuối cùng thì tôi cũng đã hiểu đôi chút
về cái tấm biển “công lý” ở khu vườn bên cạnh. Trước giờ tụi tôi vẫn chưa có cơ
hội giáp mặt với chủ nhân của tấm biển này, ngoài vài lần thấp thoáng thấy bóng
ông đi chợ hoặc đi lấy thư, hay biến mấy một cách bí ẩn giữa rừng thông ở trong
lòng thung lũng, để rồi lúc sau đi ra trong bộ dạng ủ rũ, đầu cúi gằm, hai tay
chắp sau lưng, như thể ông vừa trải qua một việc gì đó không vui.
Lý do đằng sau những chuyến ghé thăm rừng
thông bí ẩn ấy ngày càng khiến chúng tôi tò mò hơn. Bà khi Maps định mò lên đó
để thám thính, thì cậu ta đã không có cơ hội làm chuyện đó một mình.
Chúng tôi đã phục kích nhiều ngày nay
nhưng ông ấy không hề bước chân ra khỏi nhà. Không khí nơi đây khác hẳn những
nơi khác trong vịnh. Tiếng gió thổi qua các kẽ lá lúc tăng lên lúc hạ xuống,
như thể sóng biển đã vươn cánh tay khổng lồ của mình trùm lên các ngọn thông.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng chờ được tới
lúc người đàn ông đó ra khỏi nhà và đi tới rừng thông này. Ông ấy tên là Martin
Martin. Chúng tôi tình cờ phát hiện ra điều đó khi nhòm trộm được cái phong bì
thư của ông tại cửa tiệm của cô Teresa. Chẳng trách mọi người vẫn gọi ông là
Hai Martin. Trong mắt chúng tôi, trên đời chỉ có hai loại người: người già và
người trẻ. Và ông Hai Martin này thuộc vào hàng siêu già và yêu đuối. Ông loạng
choạng gần như sắp ngã, lúc đi từ ánh sáng ban ngày vào chỗ bóng râm của rừng
thông. Chúng tôi núp ra đằng sau mấy cái thân cây, ngó xuống. Đỉnh đầu ông
trông giống như cái tượng bán thân bằng thạch cao dựng ngoài đại sản ở St.
Roderick, chỉ khác là ông Martin có thêm mái tóc trắng được rẽ ngay ngắn sang
hai bên. Cặp kính không gọng được đeo trễ nải trên sống mũi, cái dây kính màu
đen được gắn vào một bên cúc áo khoác mùa hè. Mặc dù bây giờ đang là mùa hè,
nhưng chân ông vẫn đôi dép đi trong nhà bằng nhung dày cộp kẻ ca rô đỏ và xanh.
Ông khó nhọc lê từng bước cho tới khi bám được vào mấy cành cây và tiến sâu vào
bên trong. Kế đó ông lại tiếp tục chắp hai bàn tay đang run lẩy bẩy đó ra sau
lưng, lò dò từng bước. Cứ cái đà này không hiểu đến bao giờ ông mới đi được tới
nơi cần đến nữa. Đột nhiên tôi có cảm giác tụi tôi rồi sẽ phải trả giá cho sự
tò mò này bằng việc phải chứng kiến một điều gì đó khiến cả đám phải khiếp sợ
hoặc sửng sốt, nhưng không phải vì nó quá kinh khủng, mà vì nó quá buồn. Bên dưới
chúng tôi là một ông lão già nua và chậm chạp, công khai tuyên bố với toàn thế
giới rằng trên đời này hoàn toàn không hề có cái gọi là công lý.
Đột nhiên ông dừng lại hắng giọng. Tôi
co rúm lại, vòng tay ôm lấy cái thân cây thật chặt.
“Thưa quý ông quý bà” – ông ngửa mặt lên
trời, giang rộng hai tay ra và nói. Khi đó chúng tôi cứ đinh ninh rằng ông lão
đã phát hiện ra có người đang theo dõi mình từ trên cao. Nhưng chúng tôi đã nhầm,
thì ra ông đang nói chuyện với mấy cây thông. Tôi nghĩ ông già này đã loạn trí,
cứ tưởng rằng rừng thông này chính là cái sân khấu của riếng mình, còn mấy thân
cây kia là khán giả.
Có lẽ khi xưa ông từng là thị trưởng hay
một chức gì đó đại loại như vậy, bởi giờ đây ông đang say sưa với bài phát biểu
đã được soạn trước và học thuộc lòng, tuy rằng thỉnh thoảng cũng có bị hụt hơi
đôi chỗ. Chúng tôi không dám nhận mình là chuyên gia trong việc đánh gia người
diễn thuyết trước công chúng, nhưng hồi ở St. Roderick chúng tôi vẫn thường
xuyên phải chịu hàng giờ giảng đạo của các nhà truyền giáo và các sơ. Từ trên
cao, chúng tôi chăm chú theo dõi ông Martin qua các cành cây và kẽ lá. Trong
khoảng khắc, năm đứa chúng tôi như xích lại gần nhau hơn bởi có cùng chung một
sở thích, mặc dù vẫn đang trong thời gian cạnh tranh giành giật tình cảm của cô
Teresa.
Ông ấy nói liên tục trong khoảng mười
phút, sau đó đứng yên một chỗ, hai tay buông thõng. Ông từ từ quay đầu nhìn
xung quanh, tìm kiếm một lời động viên từ phía các khán giả của mình. Tất nhiên
là không có một lời nào được thốt ra từ phía mấy cái thân cây xù xì đó. Kế đó,
ông khó nhọc lê đôi dép nhung quay trở về căn nhà nhỏ của mình, nơi ánh sáng Mặt
Trời vẫn đang chiếu rực rỡ, nơi tiếng sóng biển vọng lại càng lúc càng to.
Chúng tôi thôi không nấp đằng sau mấy
cái thân cây, dùng cành cây làm vật ngụy trang. Giờ thì tất cả chúng tôi lại
đang nắm giữ thêm một bí mật kỳ lạ nửa của cái vịnh Captain’s Foley này.

