Những chàng trai tháng 12 - Chương 25 - 26

25

Lại
một tuần nữa trôi qua với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa năm thằng nhóc
tháng 12 chúng tôi trong công cuộc tìm kiếm và giành giật sự chú ý của vợ chồng
cô chú Foley. Cuối tuần đó, chúng tôi lại kéo nhau tới túp lều trên cao của ông
Lão Làng và nghe ông kể chuyện cười. Chỉ có điều, chuyện của ông chỉ có mình
ông hiểu. Và mặc dù không thông được một từ nào trong những câu chuyện đó nhưng
chúng tôi vẫn phá lên cười hưởng ứng. Đây chính là dịp để chúng tôi xả ra những
tràng cười đầy thâm độc nhằm vào nhau, thứ cảm xúc mà lâu nay chúng tôi vẫn ngấm
ngầm giấu trong lòng.

Tuy
nhiên những tràng cười đó của chúng tôi khiến cho tiếng cười (và câu chuyện) của
ông Lão Làng ngưng bặt. Ông nhìn chằm chằm vào mặt từng đứa, khó chịu nói:
“Thôi đi! Chuyện của ta không hay đến mức đó đâu!”

Chúng
tôi đã để lộ ra khoảng tối trong trái tim mình. Tràng cười giả tạo và khiên cưỡng
ấy mang đầy những ý nghĩ đen tối muốn hại người khác. Trong đầu đứa nào cũng có
một kế hoạch là hại đứa khác, nhưng tất nhiên những thứ đó mới chỉ là trong tư
tưởng. Và giờ thì chúng tôi nhận ra rằng: bất cứ lúc nào mình cũng sẽ có thể bị
đánh lén sau lung, chỉ cần một đứa trong nhóm có cơ hội.

Ngày
hôm đó, năm đứa chúng tôi kéo nhau ra mũi đất phía Bắc của vịnh. Dọc bãi biển,
hai mũi đất nối tiếp nhau chập chùng. Cả đám băng qua các hang động vẫn còn rõ
vết tích của thời kỳ khủng hoảng. Ở bên dưới, sóng biển tràn vào các vũng nước
cạn, làm cho những viên sỏi va vào nhau lách cách nghe rất vui tai.

Cả
hai mũi đất này đều không đáng tin cậy chút nào. Chẳng phải trước đây nó đã từng
lừa được một vị thuyền trưởng đâm sầm cả con thuyền vào đó đấy sao? Cây cối
trên đó đan xen, quấn chặt vào nhau, len lỏi vào các vách đá và hang động. Theo
lời ông lão làng thì mấy cái hang động này là kết quả của việc những khối núi lửa
đang tan chảy gặp phải nước biển lạnh giá.

Từ
hang động này lại có lối thông sang hang động khác, như thể chúng được tạo ra bởi
một nhà thổi thủy tinh bậc thầy từ thời tiền sử chuyên làm việc chung với đám
nham thạch đen đúa. Tiếng sóng biển rì rầm len lỏi qua các lỗ thông, vang vọng
khắp hang.


mũi đất phía Bắc có một lối thông dẫn chúng tôi tiến thẳng tới cái hố đen ngòm
sâu hun hút. Đứng từ trên này nhìn xuống thì thấy rõ ràng ở dưới đáy hố có cái
gì đó là lạ nhưng chúng tôi không xác định được đó là cái gì. Ánh Mặt Trời le
lói rọi vào trong hang, để lộ ra cái nền đá phủ đầy những bức vẽ và bức viết bằng
tay.

“Là
thư tình”. “Là một cuốn sách nhảm nhí”, “Là giấy vệ sinh” – cả đám nhao nhao
bàn tán.

Ngay
lúc đó, Spark nhận được một lời thách đấu mới.

“Thách
cậu dám xuống dưới đó đấy.” – Maps nói.

“Đừng
có thách” – Spark vênh mặt lên nói – “Nếu có chỗ xuống thì tớ xuống ngay.”

Khi
mới tới vịnh Captain’s Folly này, những lời thách đấu giữa bọn tôi chỉ là thể
hiện lòng ham muốn khám phá những điều mới lạ và sự tận hưởng cảm giác tự do.
Còn bây giờ, đằng sau mỗi lời thách đố lại là hy vọng sẽ làm cho đối phương phải
mất mặt và xấu hổ.

“Tốt!”
– Maps hớn hở thấy rõ.

Spark
giật thót mình đầy cảnh giác.

“Tớ
sẽ kiếm cho cậu một cuộn dây.” – Maps nói.

“Dây
nào? Ở đâu?”

“Ngay
đằng kia.”

Maps
vừa nói vừa đi về phía một cái cây đang mọc rễ tua tủa vươn ra từ giữa các vách
đá dựng đứng. Trên đó là một sợi dây thừng được buộc hờ hững vào thân cây. Có lẽ
trước đây người ta vẫn dùng nó trèo xuống rìa đá để ngồi câu cá. Những chiếc lá
non xanh mơn mởn khẽ đung đưa trong gió.

Maps
dùng dao nhíp cắt phăng sợi dây ra, sau đó kéo nó về phía một cái cây ở gần miệng
hố, cuốn vài vòng quanh thân cây rồi thả đầu dây còn lại xuống hố. Cậu ấy làm mọi
việc thành thục tới nỗi tôi phải tự hỏi không biết đây có phải là cơ hội mà
Maps chờ đợi từ lau hay tất cả mọi thứ chỉ là tình cờ và cậu ta chỉ ứng biến
nhanh ngay tại chỗ mà thôi.

“Xong,
của cậu đây!” – Maps nói, chìa tay chỉ về phía cái dây.

Đối
với một đứa không biết sợ là gì như Spark thì đây chẳng có gì đáng gọi là thách
thức cả. Cậu ta thản nhiên bám dây tụt xuống từng chút, từng chút một. Tiếng lá
khô sột soạt vang lên ngay khi chân Spark vừa chạm xuống đáy hố.

“Eo!
Dưới này hôi quá!” – Spark kêu lên, hai tay vẫy vẫy một tờ giấy ra hiệu cho tụi
tôi.

“Cái
gì thế?” – Maps quỳ xuống, thò đầu hỏi.

“Chữ
viết.”

“Ai
chẳng biết! Nhưng viết về cái gì?”

“Các
cậu tự xuống mà xem” – Spark đứng ra chỗ có ánh sáng và nhìn lên, giọng đầy mỉa
mai.

Maps
ngay lập tức nắm dây tụt xuống. Tiếp tới là tôi và Fido. Mấy cái việc kiểu này
có lẽ hơi khó cho một đứa mắt kém như Misty. Nhưng không ngờ chỉ vài giây sau
đã thấy chàng ta lò dò xuống theo. Và thế là năm đứa chúng tôi lom khom bới
tung đống giấy dưới sàn lên, mồm hắt hơi liên tục vì mùi ẩm mốc.

Ai
đó cho rằng mấy tờ giấy đó là thư tình. Nghe cũng có lý, bởi chúng tôi tìm thấy
hàng chồng thư, một số được viết bằng tiếng nước ngoài, cùng hàng xấp bản nhạc
in và viết bằng tay. Người ta đã từng đốt lửa ở đây nhưng lửa không bén được tới
lớp cuối cùng. Bỗng nhiên tôi nhớ tới lần chúng tôi bám theo ông Hai Martin vào
rừng thông, nơi chúng tôi đã khám phá ra bí mật về cuộc đời đáng thương của
ông.


giờ thì chúng tôi đang nhòm ngó vào quá khứ của ông Galore Bàn Tay Vàng. Rất
nhiều lá thư được gửi cho Seralius Hoffman – tên thật của ông. Một vài bức là lời
mời tham gia biểu diễn, một vài bức khác là lời từ chối các bản sáng tác của
ông. Chúng tôi đọc to từng bức thư lên, bỏ qua những bức bằng tiếng nước ngoài,
cho tới khi cả đám nhận ra rằng mình đang tò mò về đời tư của người khác. Có vẻ
như ông Garole đã vứt toàn bộ đống giấy tờ cũ của mình xuống dưới này cùng một
mồi lửa, mà không ngờ rằng lửa đã bị tắt ngúm giữa chừng.

Bỗng
Maps đi về phía sợi dây thừng và nói rất tự nhiên: “Mình lên trên hít ít khí trời
đây.”

Chẳng
ai ngăn cậu ta lại. Cũng chẳng ai nghi ngờ cậu ta.

Cậu
ta càng lên cao, ánh sáng rọi xuống hố càng bị giảm bớt đi. Và khi cậu ấy lên tới
miệng hố thì dưới hố, bọn tôi không còn tí ánh sáng nào. Bất thình lình, sợi
dây thừng cũng được rút lên cùng với Maps.

Ban
đầu, tụi tôi tưởng Maps chỉ đang đùa, nên chẳng đứa nào buồn bận tâm đòi cậu ta
thả lại sợi dây. Chỉ tới khi nghe thấy những tiếng rầm rầm phía trên đầu vọng
xuống, chúng tôi mới giật mình sợ hãi. Tiếng động càng lúc càng to, tiếp tới là
một tảng đá lăn – loại đá tròn xoe tụi tôi thường thấy ở ngoài biển – lăn tới
chặn ngay trên miệng hố, lấp đi nốt số ánh sáng ít ỏi còn lại của chúng tôi. Bụi
và đá vụn rơi tới tấp xuống đầu bốn đứa, bắn tung tóe trên nền giấy vụn.

Tôi
chợt nhớ tới những lần tự tưởng tượng ra cách trừ khử bốn đứa còn lại, và chỉ tới
khi đó, tôi mới dám tin rằng Maps thực sự đã lên kế hoạch bỏ rơi chúng tôi tại
đây từ trước đó. Những tiếng gào thét, những lời đe dọa của chúng tôi chỉ rơi
tõm vào khoảng không, không lời đáp lại. Chẳng có gì đảm bảo là giờ Maps không
đang chạy về nhà McAnsh để nói với mọi người rằng chúng tôi đã bị sóng cuốn
trôi ra ngoài biển. Trong bóng tối mịt mùng đó, tôi chợt nhớ về cái đám tang tưởng
tượng của Spark, Maps, Fido và Misty mà tôi là đạo diễn. Một nỗi ân hận ùa về
trong tôi. Chỉ mong rằng sau khi tìm thấy tôi dưới đây, họ sẽ tổ chức cho tôi một
đám tang ra hồn và có người chịu nhỏ nước mắt vì tôi. Tất nhiên là tôi không hy
vọng điều đó từ Maps, kẻ đã đang tâm bỏ rơi chúng tôi lại đây. Cậu ấy sẽ trở
thành sự lựa chọn duy nhất của cô Teresa, thành đệ tử ruột của chú Foley can đảm,
trong khi bốn đứa chúng tôi mục rữa dưới cái hố hôi hám bẩn thỉu này cùng những
vật chứng còn sót lại về cuộc đời thất bại của ông Garole Bàn Tay Vàng.

Chúng
tôi thay phiên nhau thử trèo tường lên nhưng tất cả đều thất bại. Có tiếng đứa
nào đó bắt đầu sụt sịt.

“Ai
đang khóc thế?” – Spark thích thú hỏi, nhưng không có vẻ gì là khinh thường.

Tất
nhiên là không đứa nào chịu nhận rồi. Ở dưới này chúng tôi có thể nghe rất rõ
tiếng các cơn sóng đập thình thịch vào thành hang động. Bất ngờ, Misty trút cơn
giận dữ lên ba đứa chúng tôi: “Các cậu điên hết rồi! Tại sao các cậu không hỏi
thẳng chú Foley xem cô chú muốn nhận đứa nào và ngừng ngay mấy chuyện cạnh
tranh vớ vẩn này đi?”

Chính
Misty là đứa đầu tiên muốn chơi trội khi lén đi nhổ cỏ giúp cô Teresa một mình.
Và giờ thì cậu ta cũng là đứa đầu tiên rút lui khỏi cuộc cạnh tranh này. Hay
nói một cách hàn lâm hơn thì Misty đã chính thức từ bỏ tham vọng chính trị của
mình – chỉ có điều, đã quá muộn. Maps đã chôn sống tụi tôi. Chẳng bao lâu nữa,
chúng tôi sẽ trở thành quá khứ. Càng lúc, tiếng sóng biển đập vào thành hang
càng to.

Khu
xung quanh bạn không có gì ngoài bóng tối, bạn dần mất cảm giác về thời gian.
Có lẽ chúng tôi đã bị bỏ lại hơn mười lăm phút dưới cái hố đó. Cuối cùng thì chợt
có tiếng lạo xạo ở phía trên đầu chúng tôi. Tảng đá dần được dịch chuyển, một
chùm ánh sáng yếu ớt rọi xuống hố, mỗi lúc một lớn hơn.

Sợi
dây thừng được thả xuống lại, nhưng không thấy có bàn tay nào trên đó. Cả bốn đứa
ùa tới tóm lấy sợi dây. Chúng tôi chen lấn, xô đẩy lẫn nhau – như cách bọn mèo
hoang vẫn làm để tranh giành quanh con cá của Socrates – giành quyền leo lên
trước. Cho tới khi Spark hét ầm lên rằng sợ dây sẽ đứt nếu cả bốn đứa leo lên một
lúc, chúng tôi lập tức nới lỏng tay ra, nhường cho cậu ta leo đầu tiên. Ngay
khi Spark vừa leo lên tới nơi, Fido đã hối hả bám lấy sợi dây.

“Để
tớ lên trước nhé!” - Misty thì thào.

Mặc
dù vẫn lo sợ sẽ bị bỏ rơi lại nhưng tôi không thể từ chối cậu ta. Khi Spark hét
lên gọi Maps, chúng tôi không nghe thấy có tiếng trả lời nào. Tranh thủ lúc ba
người khi đang đổ xô đi tìm Maps, tôi leo vội lên khỏi cái huyệt sâu trong lòng
vịnh Captain’s Folly này.

Maps
hẳn đã chuồn rất nhanh ra phía bờ đá đằng sau vịnh. Mặc dù đang rất cáu nhưng
chúng tôi vẫn thận trọng tìm kiếm từng ngóc ngách để moi ra bằng được kẻ phản bội
kia. Maps cần phải trả giá cho những gì cậu ta đã làm với chúng tôi. Chúng tôi
gọi cậu ta bằng tất cả những cái tên tồi tệ nhất, từ con cáo già hai mặt (do
Misty đặt) đến con chuột cống hai chân… Bất ngờ, cả đám nhìn thấy cánh đồng hoa
Lupin rung rinh như thể có một con cá đang quậy nước. Chúng tôi tìm ra cậu ta ở
đó. Maps mặt tỉnh bơ, không chút hoảng hốt hay ăn năn, khi bốn đứa bu vào kết tội
cậu ta có âm mưu trừ khử bọn tôi.

“Ôi
giời, sợ à? Tớ chỉ định dọa các cậu một chút. Có vậy thôi!” – Maps thản nhiên
nói.

Cánh
hoa lupin màu vàng và màu hoa cà rơi đầy trên tóc cậu ta, nhưng cho dù cậu ta
có biện hộ thế nào đi nữa thì chúng tôi cũng không bao giờ tin vào lời của Maps
Prior nữa. Và trong khi nhận ra một con người khác ở Maps, chúng tôi cũng đồng
thời phát hiện ra một sự thật vô cùng đáng sợ về bản thân mình.

26

Sau
sự cố xảy ra dưới hầm lần đó, Misty không còn nhiệt tình tranh đấu như trước nữa,
nhưng Fido thì vẫn tiếp tục theo đuổi sự nghiệp câu cá ngoài vịnh của mình.

Thủy
triều và thời tiết xấu đã gây không ít khó khăn cho cậu ấy trong cuộc cạnh
tranh với ông Lão Làng để giành cái phần thưởng lớn vẫn đang lởn vởn đâu đó dưới
kia. Chúng tôi dám chắc việc Henry mắc mồi câu của Fido chỉ còn là chuyện một sớm
một chiều. Nó hiển nhiên như chuyện Spark chắc chắn sẽ trở thành một chuyên gia
bán đấu giá vậy.

Trong
số các cơn bão đã cản trở công cuộc săn lùng Henry của Fido, có một cơn bão rất
to, đập liên hồi vào cửa sổ phòng ngủ của tụi tôi suốt cả đêm. Cả đám chui tịt
xuống dưới lớp chăn hình tín hiệu xấu, một phần là vì lạnh, nhưng cái chính vẫn
là sợ cơn bão sẽ thổi tung mái nhà lên và cuốn bay chúng tôi đi ra biển. Mọi thứ
trở lại bình thường vào buổi sáng hôm sau. Tuy nhiên, khi chúng tôi bước ra
ngoài, bãi biển đã thay đổi hoàn toàn.

“Các
cậu ơi! Có tuyết này!” Fido hét ầm lên.

Xen
lẫn giữa các cồn cát là những ụ tuyết trắng to sụ, mặc dù chúng tôi chưa được
nhìn thấy tuyết bao giờ. Bởi chỉ cần nghe thấy có chuyện tuyết rơi ở gần St.
Roderick, ngay lập tức, các sơ sẽ suy ra đó là dấu hiệu cảnh báo rằng: ngày tận
thế đã gần kề. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng Fido đã đoán đúng. Lâu nay, cứ khi
mùa Giáng sinh tới, các sơ lại bắt chúng tôi ngồi trang trí thiệp Noel để bán
trong các buổi từ thiện của nhà thờ - trên đó luôn có hình ảnh các con đường ở
Anh phủ đầy tuyết trắng, giống như những gì đang hiện ra trước mắt chúng tôi đây.

Tuy
nhiên, cái đống màu trăng trắng mà chúng tôi cứ tưởng là tuyết ấy hóa ra chỉ là
đám bọt biển bị cơn bão thổi dạt vào bờ mà thôi. Chúng nhẹ như không và có màu
hơi đùng đục.

Sau
trận bão hôm đó ít lâu, một buổi sáng nọ, chúng tôi phát hiện ra con Socrates
đang đứng trầm ngâm trước một vật gì đó vừa được sóng đánh dạt vào bờ.


long diên hương chăng?

Nếu
quả thực đúng là như vậy thì chúng tôi đang phát hiện ra cả một núi long diên
hương.

Đêm
trước đó, Fido đã một mình lang thang ra ngoài vịnh với đầy đủ đồ nghề câu. Cậu
ấy hẳn là câu được một cái gì đó rất lớn bởi nghe nói nó đã lại khiến ông Lão
Làng nhảy tưng tưng lên và đập kẻng liên hồi, khua chân múa tay gọi ông Garole,
nhờ cảnh báo cho con mồi yêu quý của mình. Để kéo được con mồi đó lên, Fido đã
phải quấn dây câu vài vòng vào cái mũi xuồng, làm cho cái xuồng gần như bị lật
úp. Sau đó, cậu ta hoan hỉ chèo xuồng vào bờ. Lần này không phải là tảo biển.
Theo lời Fido thì đó là một con cá cực lớn. Nhưng tất nhiên chẳng đứa nào tin
đó là con cá mú Henry, cho tới khi chính mắt tụi tôi nhìn thấy cái đống lù lù nằm
bên cạnh chân con Socrates. Cả đám phóng như bay về phía Socrates. Chưa bao giờ
chúng tôi được thấy con cá nào to đến như vậy, nhất là cái đầu và cái mồm của
nó, với dây câu vẫn đang lùng bùng quanh mấy cái răng mọc tua tủa.

“Mình
bắt được nó rồi! Cuối cùng thì cũng bắt được nó rồi!” – Fido sung sướng gào
lên, nhảy nhót loạn xạ quanh chiến lợi phẩm của mình, trông chẳng khác gì một
con rối. Đến như Socrates cũng phải hơi lùi ra xa, không dám lại gần. Bập phải
một con cá cỡ này dám mất cả hàm răng như chơi.

“Làm
sao cậu biết đó là con cá mú?” – Maps khó chịu hỏi.

“Với
cái mồm to như thế kia.” – Fido tự hào nói – “tất nhiên không nó thì là ai.”

“Nhưng
nó không phải là Henry.”

“Là
nó chứ ai!” – Fido vẫn tiếp tục nhảy múa tưng bừng.

“Nó
không đủ to.”

“Không
có con cá nào to đến như vậy ở dưới biển đâu. Cậu phải biết là như thế.”

“Coi
chừng đấy!” – Misty hét lên và lùi ra thật xa, khi thấy Fido quỳ gối xuống nhìn
vào hai mắt đờ đẫn của con cá – “Nhỡ nó vẫn còn sống!”

“Điên
à! Nó chết đơ ra rồi!” – Fido cười phá lên, giật mạnh cái dây câu. Cả đám rú
lên và tản vội ra xa khi thấy con cá rung rinh – “Thấy chưa! Tớ đã nói rồi mà.
Nó chết rồi.”

Đây
có phải là thằng Fido nhút nhát mà chúng tôi vẫn biết ở St. Roderick nữa hay
không? Đứa mà chỉ cần nghe thấy một lời quở trách của sơ thôi cũng đủ tái xanh
tái xám mặt mày, chân tay cứng đờ không làm được gì? Sự thay đổi khủng khiếp
này quả là đáng sợ. Cậu ta thậm chí còn dám quỳ xuống vuốt ve con quỷ gớm ghiếc
đó nữa chứ.

“Không
sao, không sao! Tao bắt được mày rồi!”

Chưa
bao giờ tôi thấy Fido tự tin đến như vậy trong cuộc chiến tranh giành sự ưu ái
của cố Teresa. Cậu ấy từ từ gỡ hết mấy cái móc câu trong miệng con cá mú đó ra.
Trong mắt tôi thì việc làm đó là một điều sỉ nhục với loài cá khổng lồ này. Nói
gì thì nói, theo những chuẩn mực được đặt ra trong thế giới loài cá, đây quả là
một con cá đặc biệt khác thường.

Tiếng
hò hét ầm ĩ của Fido giữa buổi sáng sớm đã khiến cô Teresa phải ngó mặt ra khỏi
nhà xem chuyện gì đang xảy ra. Cô đi về phía cồn cát trước nhà, đúng lúc Fido
đang hì hục lật ngửa con cá lại.

Thành
công thực sự đã làm thay đổi cả con người cậu ta. Nếu cậu ta có cái đầu to hơn
một chút, chúng tôi ước rằng nó sẽ có kích thước khủng như con cá này, và mang
hình thù ấn tượng như thế.

Chú
Foley cũng vừa từ trong nhà đi ra, cả hai cùng nhau đi xuống bãi biển.

“Cháu
bắt được nó rồi! Cuối cùng cháu cũng bắt được nó rồi!” – Fido nhảy cẫng lên
khoe với họ.

Chú
Foley mặc một chiếc áo choàng nhẹ mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ: lụa đen,
điểm thêm màu da cam, và dòng chữ Foley
Can Đảm
màu da cam nổi bật ở đằng sau lung. Nó có từ thời chú ấy vẫn còn biểu
diễn đua xe. Ý nghĩ rằng một ngày nào đó Fido sẽ được khoác chiếc áo này trên
mình khiến ruột gan tôi sôi sục. Rõ ràng đây không phải là hình ảnh mà tôi tưởng
tượng ra qua khung ảnh của mình.

Chú
Foley cười rất tươi với cả đám. Trông chú có vẻ mệt mỏi, mái tóc lấm tấm mấy sợi
màu xam xám. Lông mày chú nhướn cao khi nhìn thấy nạn nhân của Fido đang nằm
trên cát.

“Để
xem chúng ta có gì đây nào?” – Chú vừa nói vừa quỳ xuống bên cạnh con cá.

“Con
cá mú Henry ạ!” - Tôi nhanh nhảu nói, Fido có lẽ sẽ được quyền mời thêm một đứa
bạn đến ở cùng nhà Foley trong các kỳ nghỉ. Và tôi hy vọng cậu ấy sẽ nhớ đến
tôi, sau câu nịnh nọt bợ đỡ này.

“Cái
đầu, cái miệng này không lẫn vào đâu được.” – Chú Foley quả quyết. Chú thụi một
quả vào bụng con cá, rồi quay sang nháy mắt với Fido: “Cháu đã làm nên lịch sử!”

“Cháu
đã đoán ra nó là Henry ngay khi nó vừa đớp mồi!” – Fido tự hào nói, tay chỉ ra
chỗ rìa đá ở bờ vịnh phía Nam – “Cháu đã lên đó nhiều ngày nay. Chỉ để quan
sát. Cháu đã phát hiện ra khi nào thì nó ra khỏi hang và các thói quen của nó.
Và cháu đã bắt được nó!”

“Em
nghĩ sao?” Chú Foley quay sang hỏi cô Teresa, về Fido, dĩ nhiên rồi.

“Thằng
bé là một tay câu cá bẩm sinh.”

“Vâng,
cháu cũng nghĩ như vậy.” – Fido khẳng khái thừa nhận. Rõ ràng lòng khiêm tốn và
sự nổi tiếng không bao giờ đi cùng nhau.

Một
vài người trong câu lạc bộ lướt sóng cũng chạy tới để chiêm ngưỡng chiến lợi phẩm
của Fido. Chú Foley lúi húi nghiên cứu mấy cái móc câu cũ mèm: “Nó đã từng suýt
mắc câu vài lần nhưng không ai có khả năng được như cháu, Fido ạ.”

“Đúng
vậy, họ không khéo được như cháu, đúng không ạ?”

Fido
ưỡn ngực tự mãn, vênh vang như một con công trống trước những lời khen ngợi của
mọi người.

Đột
nhiên cô Teresa vỗ nhẹ vào vai chú Foley, ghé tai thì thầm câu gì đó làm chú ấy
quay phắt đầu ra sau. Chúng tôi cũng kịp nhìn ra người mà cô Teresa vừa cảnh
báo với chú Foley: ông Lão Làng đang lạch bạch chạy về phía tụi tôi trong chiếc
quần soóc ngắn nhàu nát, bàn chân trần bạnh ra như chân bồ câu. Mọi người dạt vội
sang hai bên để ông nhìn thấy vật đang nằm trên cát. Ông dừng lại ở cách đó vài
mét, mắt mở trừng trừng như không tin vào thị lực của mình. Kế đó, ông rón rén
nhích dần từng bước lại gần con vật to lớn kia.

Chiến
thắng của Fido chính là nỗi bi kịch của ông Lão Làng. Tôi thực tâm không muốn
chứng kiến cái cảnh đau lòng này. Sóng biển tràn vào các vết chân trũng trên nền
cát ướt của chúng tôi. So với vết chân của chú Foley mới thấy chúng tôi thật nhỏ
bé làm sao.

“Thề
có chúa, đây không thể là nó. Không thể là Henry!” – Ông thì thào, nói không ra
hơi.

“Tất
nhiên là không phải rồi!” – Maps chỉ chờ có thế, gào ầm lên hưởng ứng – “Nó làm
sao to được bằng Henry.”

“Đúng
vậy.” – Ông Lão Làng lẩm bẩm – “Có lẽ thế.” Ông nhìn đăm đăm ra ngoài biển, hy
vọng rằng nếu Henry vẫn còn sống, nó sẽ nhày lên giống như bọn cá heo vẫn làm.
Tuy nhiên, mặt biển vẫn im lìm không chút gợn sóng. Ông lại quay mặt nhìn về
phía con cá mú trên cát: “Không, chắc chắn là nó đây rồi. Linh cảm mách bảo cho
ta biết như vậy.”

Nói
rồi ông quỳ sụp xuống bên cạnh con cá, hai mắt liếc thật nhanh về phía Fido.

“Henry
ơi, mày đây rồi. Sau ngần ấy năm săn đuổi, cuối cùng chúng ta cũng gặp nhau, mặt
đối mặt.” – Chưa bao giờ giọng ông Lão Làng lại dịu dàng đến như vậy. Hai môi
ông mấp máy đầy vẻ thương cảm – “Chúa ơi, cái gì thế này?”. Ông chỉ vào mấy cái
lưỡi câu gỉ sét hằn sâu trong miệng Henry.

“Có
vẻ như trước đó cũng có người đã suýt bắt được nó.” – Chú Foley nói.

“À,
đúng rồi.” – Ông Lão Làng gật gù, chỉ vào một cái lưỡi câu – “Ta biết rất rõ
cái lưỡi câu này. Ta được nghe kể lại rằng Henry đã từng cắn câu của ai đó
trong lần ta lên thành phố lĩnh lương hưu. Và Henry đã trốn thoát. Có lẽ cái lưỡi
câu đó đã bị mắc lại ở đây. Nó đã mang theo mình suốt năm năm trời. Nhưng cái
lưỡi câu này…”

Ông
chỉ vào cái lưỡi câu thứ hai: “Nó được thiết kế đặc biệt bằng đồng, là đồ nhập
khẩu. Chỉ duy nhất có một người ở Vịnh Folly này có. Tên đó rất quỷ quyệt và
mưu mô. Hắn vẫn thường lên lớp ta về việc không nên phí hoài công sức và thời
gian theo đuổi một thứ mà cả đời ta sẽ không bao giờ có được. Trong khi hằng
đêm hắn vẫn lẻn ra đây một mình để săn Henry! Và đây là tất cả những gì hắn có
thể làm được.” – Vừa nói ông vừa khinh bỉ rút cái lưỡi câu bằng đồng đã hoen gỉ
ra khỏi miệng Henry.

Giọng
ông nhẹ nhàng trở lại khi lấy tay vuốt ve lên cái vây cá vằn vện như mai rùa:
“Có lẽ mày đã khó chịu lắm với mấy cái lưỡi câu này móc trong miệng, cho nên mới
quẫy đạp mạnh như vậy dưới nước.” Kế đó, ông đứng dậy quay ra nói với toàn thể
những người đang có mặt trên bãi biển lúc đó: “Henry là một con cá tuyệt vời!
Con cá tuyệt vời nhất mà tôi từng biết.”

Sóng
biển nhô cao đánh dạt vào bờ. Đàn chim biển bay lượn vòng vòng trên đầu tụi
tôi, đầy thèm muốn.

“Nó
không phải là con cái mú duy nhất ở đây.” Cô Teresa nhẹ nhàng an ủi ông Lão
Làng, chú Foley gật gù bên cạnh hưởng ứng.

“Đúng
vậy, nhưng nó là con Henry duy nhất dưới lòng đại dương.”

Khi
đó tôi mới chợt nhận ra rằng chúng tôi đã đánh giá sai về ông Lão Làng. Ông
không phải là lão già gàn dở lắm điều như chúng tôi vẫn nghĩ.

“Không
ai phản đối tôi làm một lễ an táng tử tế cho Henry chứ?” – Ông thẽ thọt đề nghị.

“Có
lẽ nên chôn nó ở trên kia.” – Chú Foley hất đầu về phía rừng thông gợi ý –
“Chúng cháu sẽ đi lấy xe đẩy trong nhà kho và chở nó đi bất cứ nơi nào bác muốn.”

“Cám
ơn cậu.” – Ông Lão Làng nói, giọng trầm đục hẳn – “Giờ thì nó đã đi rồi, ta biết
làm gì một mình vào các buổi tối và ban ngày bây giờ?”

Fido
bật khóc thút thít, quay lưng bỏ chạy thục mạng về phía triền đồi, mặc cho cô
Teresa và chú Foley ra sức gọi đằng sau.

Báo cáo nội dung xấu