Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 58 - 59 - 60
Chương năm mươi tám
Saint-Germain là
một ngôi sao nhạc rock, nổi tiếng khắp châu Âu, nên viên cảnh sát trẻ này nhận
ra ông ngay. Anh ta bước tới, giơ tay chào và rồi cởi chiếc găng bằng da ra khi
bá tước đưa tay bắt. Đằng sau tấm kính mờ như hun khói trong chiếc xe, hai người
phụ nữ - Thế hệ Kế tiếp và người bất tử - chăm chú quan sát Francis bắt tay người
đàn ông và rồi khéo léo lái xoay người anh ta để anh ta day mặt khỏi con đường.
“Đi thôi.” Joan
bình thản mở cánh cửa xe và trườn vào bầu không khí ấm áp buổi xế trưa. Một
tích tắc sau, Scathach theo cùng, nhẹ nhàng đóng cánh cửa sau lưng mình. Bên
nhau hai người phụ nữ trông rất trẻ đi tản bộ về phía ngôi thánh đường. Hai người
đi sát qua Francis và người hiến binh đủ để nghe một phần của câu chuyện.
“... một điều hổ
thẹn, một bi kịch quốc qua. Tôi nghĩ nên tổ chức một buổi hòa nhạc để quyên góp
tiền giúp cho việc sửa chữa ngôi thánh đường này...”
“Tôi sẽ đến
xem,” người hiến binh nói ngay.
“Đương nhiên rồi,
nhất định là tôi sẽ miễn phí vé vào cửa cho những nhân viên cảnh sát, cứu
thương, cứu hỏa can đảm của chúng ta chứ.”
Joan và Scathach
cúi lòn người dưới dải băng của cảnh sát giăng đang bay phần phật và bắt đầu bước
qua những đống đá. Nhiều miếng gạch đá vụn đã nát bấy thành bụi đất, nhưng một
số những mảnh vỡ lớn hơn vẫn lưu giữ hình ảnh ma quái về dáng vóc trước đây của
chúng khi cặp song sinh chưa phóng ra pháp thuật cơ bản. Scatty nhìn thấy dấu vết
của móng vuốt và mỏ, của những cái sừng cong lượn và những cái đuôi quăn tớn. Một
quả banh bằng đá nằm sát cạnh một bàn tay mòn vẹt theo gió mưa. Cô liếc qua
Joan và cả hai người phụ nữ quay nhìn mặt tiền ngôi thánh đường. Sự phá hủy lên
đến mức độ không thể tin được: từng mảng lớn của công trình xây dựng đã bị văng
mất, bị đập vụn hoặc bị giật phăng đi, trông như thể tất cả đã bị tấn công bởi
một quả cầu phá bê-tông.
“Cả bao nhiêu
năm trong đời, chưa bao giờ tôi nhìn thấy bất cứ thứ gì như thế này,” Scathach
lẩm bẩm, “và việc đó chỉ liên quan đến hai nguồn sức mạnh thôi.”
“Và chỉ mới một
đứa sinh đôi có được những năng lực đó thôi nhé,” Joan nhắc cô ta.
“Cô có thể tưởng
tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu cả hai đứa nhỏ đều sở hữu những pháp thuật cơ bản
kia chứ?”
“Hai đứa sẽ có
năng lượng phá hủy cả thế giới này hay tái tạo lại nó,” Joan nói.
“Và đó là lời
tiên tri đã loan báo,” Scathach nói một cách đơn sơ.
“Ê, hai cô kia!
Cả hai cô đấy. Dừng lại tại chỗ.”
Một giọng nói
phát ra ngay trên đầu hai người.
“Dừng lại. Dừng
lại ngay tại chỗ.” Giọng nói thứ hai phát ra từ phía sau họ.
“Cứ đi đi,”
Scatty nói khẽ.
Joan liếc ra
phía sau lưng và nhìn thấy viên cảnh sát trẻ cố gỡ mình thoát khỏi nắm tay của
Francis kẹp chặt như gọng kềm. Đột nhiên, bá tước buông tay ra làm người đàn
ông ấy ngã nhào xuống đất. Khi cố đỡ anh ta đứng dậy, Francis giẫm lên lai chiếc
áo khoác dài màu đen của chính mình, trượt chân ngã chồng lên đầu người đàn
ông, ghìm chặt anh ta xuống đất.
“Hai người kia.
Các người không có bổn phận gì ở đây.” Một viện sĩ đầu cạo trọc, râu ria bờm xờm
tuổi trung niên đang nằm trên mặt đất, cố ráp những mảnh vỡ bé xíu của chiếc
cánh đại bàng lại với nhau, vụt nhảy dựng lên trước mặt hai cô gái. Ông ta bước
tới, vẫy vẫy một cái bìa kẹp hồ sơ. “Các cô đang giẫm lên những vật tạo tác lịch
sử vô giá đấy.”
“Tôi không rõ là
chúng ta có thể gây thiệt hại thêm cho những thứ này không nếu chúng ta cố thêm
một chút.” Không hề để lỡ nhịp chân, Scatty chộp lấy cái bìa hồ sơ giật phắt khỏi
bàn tay đang nắm chắt của người đàn ông và xé toạc nó ra làm hai dễ như đó chỉ
là một tờ giấy bình thường. Cô ta quăng hai mảnh bìa xuống chân mình. Người đan
ông nhìn hai mảnh rời trước kia từng là cái bìa kẹp hồ sơ của ông ta đang nằm
chõng chơ dưới đất, rồi quay người bỏ chạy, vừa la hét om sòm.
“Rất tinh nhanh,
rất khéo léo,” Joan nói.
“Rất hiệu quả,”
Scatty nói, và sải bước đến Điểm Zero.
Điểm Zero nằm giữa
quảng trường. Chìm vào những viên đá cuội là một hình tròn bằng đá xám phẳng dẹt,
được chia thành bốn phần. Giữa trung tâm là một vòng tròn đá có màu sáng hơn với
một thiết kế pháo hoa mặt trời cắt sâu vào mặt đá. Pháo hoa mặt trời có tám cánh
xòe ra từ tâm điểm, dẫu hai cánh trong số đó đã bị mòn đến láng mướt do vô số
những bàn chân đi qua và những ngón tay chà xát vào. Hàng chữ Điểm Zero của Những Tuyến đường trong nước
Pháp được khắc vào lớp đá phía ngoài. Có thừa khoảng trống cho Scathach và
Joan đứng đâu lưng vào nhau trong vòng tròn, mỗi bàn chân giẫm lên một phần.
“Bây giờ đến
chuyện gì xảy...,” Scathach nói.
Chương năm mươi chín
“... Ra đây
không biết?” Scathach nói dứt câu.
Rồi cô ta nhắm
nghiền mắt lại, một bàn tay ấn vào dạ dày còn bàn tay kia đưa lên miệng và quỳ
thụp xuống. Scathach có cảm giác như cả thế giới chao nghiêng và cố gắng chống
lại thôi thúc muốn nôn thốc nôn tháo ra, cho tới khi cô đột nhiên nhận ra mình
đang quỳ trên nền đất xốp. Đôi mắt vẫn nhắm nghiền, cô vỗ nhẹ xuống mặt đất và
cảm nhận từng cọng cỏ dài bên dưới ngón tay. Rồi hai cánh tay mạnh mẽ kéo cô đứng
dậy và hai bàn tay mát lạnh bụm lên mặt cô. Scathach mở bừng mắt vừa đúng lúc
nhìn thấy khuôn mặt Joan đang nhích lần xa khỏi mặt mình. Một nụ cười nở ra trên
khóe miệng thanh tú của cô gái Pháp.
“Cô cảm thấy thế
nào?” Joan hỏi bằng tiếng Pháp.
“Say sóng.”
“Vậy là cô sẽ sống,”
Joan cười phá lên. “Tôi thường nói với quân lính của tôi rằng nếu họ có thể cảm
nhận sự đau đớn, tức là họ vẫn đang còn sống.”
“Tôi cược là họ
rất yêu mến cô,” Scatty càu nhàu.
“Quả đúng vậy, tất
cả họ đều yêu mến tôi,” Joan nói.
“Vậy là chúng ta
không rơi trúng vào mặt trời.” Scathach vươn thẳng người và nhìn quanh. “Chúng
ta làm được rồi,” cô thở một hơi dài. “Ồ, thật là thoải mái khi về nhà.”
“Nhà á hả?” Joan
hỏi?
“Tôi đã sống
trên vùng Bờ Tây này lâu lắm rồi; hơn mọi nơi khác, tôi xem San Francisco là
nhà của mình. Đã có lần người ta bảo rằng tôi sẽ chết trong một sa mạc, vì thế
tôi luôn chọn sống trên các vùng bờ biển.”
Hai người phụ nữ
đang đứng trên triền một ngọn núi thoai thoải. Sau bầu không khí ẩm ướt nhuốm
mùi ô nhiễm của Paris, làn gió lạnh mang vị ngòn ngọt, đậm đặc mùi cây cỏ, và mặc
dầu khi họ rời Paris một tích tắc trước đây trời đã là đầu giờ chiều, nhưng ở
vùng Bờ Tây nước Mỹ mặt trời vẫn chưa mọc. “Mấy giờ rồi cà?” Scatty băn khoăn
thốt lên.
Joan kiểm tra đồng
hồ rồi lấy lại giờ. “Bây giờ là năm giờ kém năm sáng.” Cô ta hất đầu về hướng
đông, nơi khoảng trời đang bắt đầu le lói ánh sáng màu tim tím, trong khi cả
vùng trời trên đầu hai người vẫn đen thui, lốm đốm những vì sao xa tít tắp mịt
mờ. Làn sương mù màu trắng xám dàn trải xa xa tít dưới chân núi. “Mặt trời sẽ mọc
trong khoảng một tiếng đồng hồ nữa.” Cô gái Pháp quay người nhìn lên sườn núi mờ
mờ chỉ vừa đủ thấy nổi lên trong vùng bóng tối u ám. “Vậy đây là núi Mount
Tamalpais. Tôi cứ tưởng nó phải... lớn hơn chứ.”
“Chào mừng đến với
Mount Tam,” Scatty nói làm hàm răng trắng lóe lên, “một trong những địa điểm
yêu thích nhất của tôi ở nước Mỹ.” Cô chỉ vào màn sương dày đặc. “Chúng ta đang
ở cách San Francisco và Atcatraz khoảng mười bốn cây số về hướng bắc.” Bóng tối
xốc lại cái ba-lô trên lưng mình cho có cảm giác thoải mái hơn. “Chúng ta có thể
chạy bộ...”
“Chạy bộ sao!”
Joan cười lớn. “Điều cuối cùng Francis nói với tôi vừa mới đây và có thể cô sẽ
muốn chạy bộ vào tành phố đó. Chúng ta sẽ thuê một chiếc xe hơi,” cô nói dứt
khoát.
“Thật ra là
không xa lắm...,” Scatty cãi lại, và rồi ngưng bặt.
Ngay phía trước
họ, một hình thù to lớn di chuyển trong sương mù, làm cho làn sương cuộn xoắn
và uốn éo. “Joan...,” cô cất tiếng.
Nhiều hình thù
chuyển động hơn nữa, và ngay lập tức làn sương mù tách ra như một bức màn bị xé
toạc để lộ ra một bầy voi răng mấu có bộ lông quăn tít đang đi sượt qua chân
núi. Rồi Chiến binh bắt gặp hai con mèo răng cong như cây kiếm của lính kỵ binh
đang nằm dài trong đám cỏ cao, chăm chú quan sát bầy thú kia, hai cái đuôi mút
đầu có màu đen đang cuộn rúm lại tròn vo.
Joan vẫn đang
nhìn lên rặng núi. Cô rút chiếc điện thoại di động ra khỏi túi và nhấn nút gọi
nhanh. “Tôi sẽ báo ngay cho Francis biết là chúng ta đã đến...” Cô đưa điện thoại
lên tai và rồi kiểm tra lại màn hình. “Ồ, không có tín hiệu. Scatty, phải mất
bao lâu chúng ta mới đến được...?” Vẻ bàng hoàng trên khuôn mặt cô bạn khiến cô
quay phắt người lại kịp nhìn thấy những gì cô bạn đan nhìn chăm bẳm.
Phải mất một lúc
để đôi mắt của Joan điều chỉnh được với quy mô toàn bộ của bầy voi răng mấu lúc
này đang di chuyển chầm chậm xuyên qua làn sương ban sớm trước buổi rạng đông.
Một gợn chuyển động khiến cô chú ý và cô ngước mắt nhìn: lơ lửng trong im lặng
và vượt cao khỏi những luồng không khí nóng không thể nhìn thấy được, một loạt
ba con kền kền khoang cổ* khổng lồ vút bay lên ngay phía trên đầu.
*Kền kền to ở vùng núi phía nam California,
đầu và cổ trơ trụi, sải cánh khoảng ba mét, có nguy cơ tuyệt chủng.
“Scathach?” Joan
thở ra thành một tiếng thì thào đầy kinh khiếp. “Chúng ta đang ở đâu đây?”
“Không phải ở
đâu, mà là lúc nào.” Khuôn mặt Bóng tối
trở nên nhọn hoắt và hiểm ác, đôi mắt lấp lánh một màu xanh lá và đầy vẻ tàn nhẫn.
“Mấy cái cổng tuyến. Tôi ghét chúng.” Một trong những con mèo khổng lồ ngẩng đầu
nhìn theo hướng có tiếng nói và há miệng ngáp rộng ngoác, lóe sáng một hàm răng
dài có đến hai tấc. Chiến binh nhìn chằm chằm trả lại khiến con mèo phải ngoảnh
đi. “Có lẽ chúng ta đang ở trên ngọn Mount Tamalpais thật, nhưng đây không phải
là thế kỷ hai mươi mốt.” Cô chỉ tay đánh thành một vòng về phía bọn voi răng mấu,
cọp và kền kền khoang cổ. “Tôi biết đây là mấy thứ gì: chúng là những con thú
có kích thước cực kỳ lớn. Và chúng thuộc Kỷ Pleistocene.”
“Làm sao... làm
sao chúng ta quay trở lại... đúng thời của chúng ta bây giờ?” Joan thì thào, vẻ
bối rối lộ rõ.
“Không được
đâu,” Scathach nói cứng cỏi. “Chúng ta bị mắc bẫy rồi.”
Những ý nghĩ đầu
tiên của Joan hướng về Nữ Phù thủy. “Rồi còn Perenelle thì sao?” Cô bắt đầu
khóc. “Bà ấy đang mong mỏi chúng ta. Bà ấy đang chờ chúng ta đến.”
Scatty vòng tay
ôm Joan và siết thật chặt. “Có thể bà ấy sẽ phải đợi chờ lâu đó,” cô ta nói dứt
khoát. “Jeanne, chúng ta đã đi lùi lại phải đến một triệu năm. Nữ Phù thủy đành
phải ở một mình rồi.”
“Chúng ta cũng vậy
thôi,” Joan nức nở.
“Không hẳn vậy
đây.” Scatty cười toe. “Chúng ta còn có nhau mà.”
“Chúng ta sẽ làm
gì?” Cô gái nước Pháp bất tử thắc mắc, giận dữ quyệt nước mắt đi.
“Sẽ làm những gì
chúng ta vẫn luôn làm: chúng ta sẽ vượt qua và sẽ sống.”
“Còn Perenelle
thì sao?” Joan hỏi.
Nhưng Scathach
không có câu trả lời nào cho câu hỏi đó cả.
Chương sáu mươi
Billy the Kid liếc
nhìn tấm ảnh đen trắng trong lòng bàn tay mình, ghi nhớ về vẻ nghiêm khắc của
Machiavelli vào đầu hắn ta. Mái tóc trắng cắt ngắn rất dễ nhận ra, hắn ta khẳng
định như thế. Nhét tấm ảnh vào túi sau của chiếc quần jeans, hắn ta khoanh tay
trước bộ ngực ốm tong và quan sát những hành khách đầu tiên xuất hiện nơi khu sảnh
dành cho khách đến của Phi trường Quốc tế Francisco.
Những người
khách du lịch rất dễ nhận diện; họ mặc trang phục bình thường quần jeans hoặc
quần soọc với áo thun, hầu hết những xe đẩy hành lý chất đống rất nhiều va-li đầy
nhóc quần áo mà chẳng bao giờ họ mặc tới. Rồi đến những doanh nhân mặc bộ vét
nhã nhặn, hoặc quần đi với những chiếc áo khoác thể thao, mang những chiếc cặp
đựng tài liệu hay kéo những chiếc túi du lịch nhỏ đựng đủ đồ dùng cho những
chuyến đi xa ngắn ngày, sải bước một cách có chủ định hẳn hoi, kiểm tra điện
thoại di động của họ đâu vào đấy, bộ tai nghe Bluetooth lủng lẳng bên tai.
Billy đặc biệt chú ý đến những đại gia đình: cha mẹ hay ông bà lớn tuổi đến đón
những đứa cháu, những cô cậu còn rất trẻ - có lẽ là sinh viên - trở về với cha
mẹ họ, những cặp vợ chồng đoàn tụ. Có nhiều nước mắt, tiếng reo vui mừng, nụ cười
và những cái bắt tay. Billy tự hỏi không biết cảm giác như thế nào khi gặp gỡ
như vậy, bước vào khu sảnh dành cho khách đến trong một phi trường và quét khắp
một lượt trên các khuôn mặt, biết rõ
là bạn cần tìm một ai đó hiện hữu thật sự đang rất muốn gặp bạn - một ông bố
hay một bà mẹ, một người anh chị em ruột, thậm chí một người bạn, một ai đó mà
với họ bạn đã chia sẻ một lịch sử và một thời quá khứ đã qua.
Hắn ta không có
ai cả. Không có bất cứ ai suốt một thời gian dài. Thậm chí trong cuộc sống tự
nhiên của hắn ta, hắn ta cũng có rất ít bạn bè, và hầu hết bọn chúng đều cô giết
chết hắn. Chỉ là không ai thành công.
Cuối cùng, cao
ráo và thanh lịch trong bộ vét màu đen cắt rất khéo, đeo chéo ngang qua vai một
chiếc cặp đựng máy tính bằng da, người đàn ông tóc trắng trong tấm hình đã bước
vào sảnh đợi. Billy cắn vào bên trong má mình để nhịn cười: có lẽ tại một phi
trường châu Âu nào đó Machiavelli sẽ đi qua mà không ai để ý, nhưng ở đây, giữa
tất cả những sắc màu và quần áo bình thường, ông ta thật khác biệt. Cho dù là
Billy chưa từng nhìn thấy tấm hình kia, hắn ta chắc hẳn vẫn biết được đây là
người bất tử châu Âu. Hắn ta quan sát Machiavelli đeo cặp kính râm đen thui và
quét một vòng vào đám đông, và dù hắn ta không đưa ra một dấu hiệu nhận dạng
nào, nhưng tay người Ý vẫn quay người hướng về phía Billy. Anh chàng người Mỹ
băn khoăn không biết mình có nên bắt tay hay không. Nhiều người bất tử rất miễn
cưỡng khi phải chạm đến những con người bình thường, và đặc biệt là những người
bất tử khác. Dù hắn ta đã gặp tay Pháp sư người Anh một vài lần, nhưng Billy
chưa thấy Dee cởi chiếc găng tay xám xịt của hắn ra bao giờ.
Machiavelli chìa
tay ra.
Billy mỉm cười,
nhanh nhẹn chà lòng bàn tay vào ống quần jeans và đến lượt mình chìa bàn tay
ra. “Làm sao ông biết được chính là tôi đây?” Hắn ta hỏi bằng thứ tiếng Pháp
tàm tạm. Bàn tay của người Ý siết chặt, da thịt ông ta mát lạnh và khô.
“Tôi thường chỉ
hành động theo chiếc mũi của mình,” Machiavelli trả lời cũng bằng ngôn ngữ đó,
và rồi chuyển sang một thứ tiếng Anh không có trọng âm. Y hít thở một hơi sâu.
“Nghe thoang thoảng mùi ớt bột rất cay của vùng Cayenne, tôi tin như thế.”
“Đúng vậy đó,”
Billy tán thành. Hắn ta cố hít thở để bắt được mùi của tay người Ý, nhưng tất cả
những gì hắn ta có thể ngửi thấy là vô số mùi hương của phi trường này - thật kỳ
lạ - mùi hương thoang thoảng rất nhẹ mà mọi chàng cao-bồi đều liên tưởng đến nước
con rắn chuông.
“Và tất nhiên là
tôi đã tìm kiếm thông tin trực tuyến về anh,” Machiavelli nói thêm cùng với một
nụ cười gượng gạo. “Anh trông vẫn rất giống với tấm hình nổi tiếng ấy. Dù sao,
cũng thật tò mò; anh đã biết tôi ngay khi tôi bước qua cửa. Tôi có thể cảm thấy
ánh mắt của anh trên người tôi kia mà.”
“Tôi biết tôi
đang tìm kiếm ai.”
Hai hàng chân
mày của Machiavelli nhướng lên như một câu hỏi ngấm ngầm. Y đẩy cặp kính râm
lên vầng trán cao của mình, đôi mắt xám lóe lên khi y nhìn xuống. Ít nhất y cao
hơn tay người Mỹ này đến một cái đầu. “Tôi vô cùng cẩn thận để đảm bảo là không
có hình mình xuất hiện trực tuyến hoặc được in ra kia mà.”
“Những chủ nhân
của chúng ta đã gởi cái này cho tôi.” Billy rút tấm hình ra khỏi túi sau và
chìa ra. Machiavelli nhìn tấm hình, rồi nụ cười thoáng qua làm khóe miệng y nhếch
lên một chút. Cả hai đều biết điều nà có ý nghĩa gì. Các Elder Đen tối đang
theo dõi Machiavelli... mà như vậy có nghĩa là họ cũng đang theo dõi Billy.
Nhìn vào mắt của tay người Ý, hắn ta nói, “Cái gì cũng có mục đích của nó. Có
thể ông sẽ tìm thấy một công dụng khác ở đây.”
Đầu Machiavelli
hơi cúi xuống khi thả cặp kính râm trở lại trên chiếc mũi dài của y. “Chắc chắn
tôi sẽ làm như thế.” Cả hai đều biết rằng tay người Ý trở lại Paris, y sẽ làm mọi
cách trong phạm vi quyền lực của mình để phát hiện ra ai đã chụp tấm ảnh này.
Anh chàng người
Mỹ nhìn vào chiếc túi duy nhất trong tay Machiavelli. “Tất cả hành lý của ông
đó sao?”
“Đúng. Tôi đã sắp
xếp mọi thứ vào trong một cái va-li lớn hơn, nhưng rồi nhận ra rằng tôi đâu có ở
đây lâu đến nỗi có thể dùng hết thậm chí cả mười bộ quần áo mà tôi định mang
theo. Vì thế tôi để lại hết và chỉ mang một vài đôi vớ và trang phục lót để
thay đổi thôi. Và tất nhiên là cái máy tính xách tay của tôi nữa chứ.”
Hai người đàn
ông làm thành một đôi cọc cạch hướng về lối ra, Machiavelli trong bộ vét đen
may đo vừa vặn, còn Billy lại mặc một chiếc áo sơ-mi vải bông chéo bạc thếch,
quần jeans mòn vẹt và đôi giày ống tồi tàn. Dù phi trường đông nghẹt người,
nhưng không ai đi gần đủ để chạm sướt qua họ, mà trái lại đám đông luôn vô tình
tách ra ngay phía trước họ.
“Và đây chỉ là một
chuyến đi-ra-đi-vào chớp nhoáng thôi sao?” Billy hỏi.
“Tôi hy vọng chuyến
bay đầu tiên còn vé để tôi có thể về nhà trên chuyến đó.” Machiavelli mỉm cười.
“Tôi ngưỡng mộ sự
tự tin của ông,” anh chàng người Mỹ nói, giữ giọng mình trung dung, “tôi chỉ có
ý kiến là cs thể bà Flamel không dễ gì bị đánh bại đâu.” Hắn ta rút cặp kính hiệu
Ray Bans xưa cũ ra khỏi túi áo sơ-mi khi họ bước vào ánh nắng đầu buổi chiều rực
rỡ.
“Mọi thứ đã sẵn
sàng chưa?” Machiavelli hỏi khi họ đi vào vùng tối lờ mờ của nhà đậu xe.
Billy giật mạnh
chiếc chìa khóa xe ra khỏi túi. “Tôi đã thuê một chiếc tàu. Đang neo đậu chờ
chúng ta ở Cầu tàu số Ba mươi chín.” Hắn ta nín bặt, chợt nhận ra rằng tay người
Ý không còn đứng cạnh mình nữa. Hắn ta quay người, chìa khóa chiếc Thunderbird
màu đỏ chói đang nằm trong tay, vừa ngoái lui thì thấy ngay tay người Ý đang
nhìn chăm chăm chiếc xe hơi mui di động với vẻ đầy ngưỡng mộ, một sự choáng ngợp
cả về màu sắc lẫn kiểu dáng giữa những chiếc xe hơi bình thường khác.
“Xe Thunderbird
mui di động của năm một ngàn chín trăm năm mươi chín - không, đúng ra phải là một
ngàn chín trăm sáu mươi,” muxtang chữa lại. Y ra một bàn tay từ bên này sang
bên kia ca-pô rồi rà đến mấy ngọn đèn. “Lộng lẫy.”
Billy cười toe.
Hắn chuẩn bị tư tương để đón nhận cảm giác không ưa Niccolò Machiavelli, nhưng
tay người Ý vừa xóa sạch vết hằn nhỏ ấy trong định kiến của hắn ta. “Đó là niềm
tự hào và vui sướng của tôi.”
Người bất tử đi
vòng quanh chiếc xe, cúi rạp người xuống xem xét bánh xe và ống xả. “Thế nên có
vẻ là: mọi thứ đều trông như hàng chính hãng ấy nhỉ.”
“Mọi thứ đều như
thế,” Billy nói với vẻ tự hào. “Tôi đã thay ống xả hai lần, nhưng bảo đảm những
đồ thay thế phải là từ một kiểu giống hết.” Hắn ta bước vào xe và chờ đợi trong
lúc Machiavelli tự đẩy cửa vào. “Tôi đoán ông là một tài xế của chiếc Lamborghini,
hoặc là một chiếc Alfa Romeo, có lẽ thế.”
“Ferarri, có thể,
nhưng Alfa thì không bao giờ.”
“Ông sở hữu nhiều
xe hơi lắm hả?” Billy hỏi.
“Không có cái
nào. Tôi có một công ty về xe hơi và một người tài xế. Tôi không lái,” tay người
Ý thừa nhận.
“Không lái hay
không lái được?”
“Tôi không thích
lái xe. Tôi thực sự là một anh lái xe rất tồi,” y thú nhận kèm theo một nụ cười
gượng gạo. “Nhưng mà này, tôi đã từng học lái xe ba bánh.”
“Đó là khi nào?”
Billy hỏi.
“Năm 1885.”
“Tôi chết năm
1881.” Billy lắc đầu. “Tôi không thể tưởng tượng không thể lái xe thì thế nào,”
hắn ta lẩm bẩm khi ra khỏi bãi đậu xe. “Giống như không thể cưỡi ngựa.” Hắn ta
nhấn chân ga, chiếc xe lao tới và len vào dòng xe cộ đông đúc của phi trường.
“Ông có muốn ăn chút gì không?” Hắn ta nói. “Có vài nhà hàng Pháp và Ý khá
ngon...”
Machiavelli lắc
đầu. “Tôi không đói. Trừ phi anh muốn dùng.”
“Mấy ngày nay
tôi ăn không được nhiều,” Bill thừa nhận.
Điện thoại của
Machiavelli kêu một tiếng phing. “Xin lỗi.” Y rút chiếc điện thoại mỏng dính và
nhìn chăm chăm vào màn hình. “A,” y vui vẻ nói.
“Tin vui hả?”
Billy hỏi.
Machiavelli ngồi
lại vào chỗ và cười toe. “Hôm qua tôi đã đặt một cái bẫy; nó đã bung ra một hai
tiếng đồng hồ trước rồi.”
Billy liếc xéo
qua nhưng vẫn im lặng.
“Ngay lúc tôi
khám phá ra vợ Nhà Giả kim đang bị giam giữ ở San Francisco, tôi đã biết rằng
hoặc chính ông ta hoặc một vài đồng minh của ông ta sẽ cố lên đường quay trở về
đây. Họ có hai lựa chọn: chuyến bay mà tôi vừa đáp xuống, hoặc cổng tuyến ở
Notre Dame.”
“Tôi đoán là ông
đã làm gì đó nơi cổng tuyến này.” Billy ngoác miệng cười. “Nghe có vẻ giống như
những thứ tôi vẫn thường làm.”
“Cổng tuyến tại
Điểm Zero đã được kích hoạt. Đơn giản tôi chỉ phủ lên những phiến lá kia một chất
pha chế hóa học làm từ xương voi ma-mút trưởng thành - xương từ Kỷ Pleistocene
- và bồi thêm một câu thần chú Lôi cuốn vào hỗn hợp đó.”
Ánh đèn giao
thông chuyển sang màu đỏ và Billy dừng xe. Cài thắng tay, hắn ta xoay người
trong chỗ mình để nhìn vào tay người Ý với vẻ gì như kinh sợ. “Vậy bất kể ai sử
dụng cổng tuyến...”
“... đều bị kéo
lùi về thời gian của Kỷ Pleistocene.”
“Đó là hồi nào?”
Billy hỏi. “Tô chẳng bao giờ được ăn học nhiều.”
“Đâu đó giữa thời
điểm tám triệu với mười một ngàn năm trăm năm trước, có lẽ thế.” Machiavelli mỉm
cười.
“Ồ, ông giỏi
quá.” Billy lắc đầu. “Vậy, ông có biết ai kích hoạt cổng tuyến không?”
“Một camera an
ninh đã được gắn vào địa điểm ấy cách đây hai mươi bốn tiếng đồng hồ.” Machiavelli
giơ điện thoại lên, cho thấy một hình ảnh hai người phụ nữ đứng đâu lưng vào
nhau ngay giữa quãng trường rải đá. “Tôi không biết cô gái nhỏ nhắn hơn là ai,”
Machiavelli nói, “nhưng người bên trái là Scathach.”
“Bóng tối à?”
Billy thì thầm, chồm người tới trước để nhìn vào màn hình. “Nữ Chiến binh đó hả?”
Hắn ta trông có vẻ không mấy ấn tượng. “Tôi tưởng cô ta phải cao hơn chứ.”
“Ai cũng tưởng vậy,”
Machiavelli nói. “Đó thường là sai lầm đầu tiên của họ.”
Tiếng còi xe inh
ỏi đằng sau chiếc Thunderbird khi đèn đã đổi màu, và có ai đó la í ới.
Machiavelli liếc
sang anh chàng bất tử người Mỹ với vẻ tò mò, tự hỏi không biết anh ta phản ứng
thế nào. Nhưng Billy the Kid đã chế ngự được tính khí nổi tiếng của mình từ nhiều
thập kỷ trước. Anh ta giờ tay lên vẫy vẫy trong không trung như một lời xin lỗi,
rồi lái xe đi.
“Vì vậy, với
Bóng tối trong bức ảnh, tôi cho rằng công việc của chúng ta dễ dàng hơn nhiều.”
“Rất nhiều là
khác,” Machiavelli tán thành. “Tôi có chút nghi ngờ rằng bằng cách nào đó có thể
bà ta đã đào bới khắp Atcatraz và phá hỏng bữa tiệc chăng.”
“Ồ, chuyện đó sẽ
không xảy ra bây giờ đâu.” Billy cười miệng rộng hoác, rồi bỗng nghiêm mặt. “Dưới
chỗ ngồi của mình ông sẽ tìm thấy một bì thư. Trong đó có chứa bản in của một
e-mail tôi nhận được từ công ty Enoch Enterprises đâu khoảng chiều hôm qua, cho
phép chúng ta lên bờ vào Atcatraz. Hiện nay công ty của Dee đang sở hữu hòn đảo
này. Ông cũng sẽ tìm thấy một tấm ảnh đính kèm vào một e-mail nặc danh vừa đến
sáng nay. Tôi đoán là gửi cho ông. Vì chẳng có nghĩa lý gì với tôi cả.”
Machiavelli giũ
ra hai trang giấy. Trên tiêu đề thư của công ty Enoch Enterprises là một tài liệu
dài trông có vẻ mang tính pháp lý cho phép người cầm nó được lên hòn đảo và thực
hiện việc “nghiên cứu lịch sử”. Được ký tên bởi John Dee, Tiến sĩ. Trang thứ hai là một bức hình màu độ phân giải
cao chụp những hình ảnh trên bức tường của một kim tự tháp Ai Cập.
“Ông có biết cái
đó nghĩa là gì không?” Billy hỏi.
Machiavelli xoay
ngang trang giấy. “Hình này chụp kim tự tháp của Unas, người trị vì Ai Cập trên
bốn ngàn năm trước,” y nói từ tốn. Một chiếc móng tay được cắt giũa hoàn hảo lần
theo một đường kẻ của những chữ viết tượng hình. “Những thứ này thường được gọi
là những Văn bản Kim tự tháp; ngày nay chúng ta gọi chúng là Cuốn sách Tử thần.”
Y gõ nhè nhẹ vào tấm ảnh và cười khẽ. “Tôi tin đây là công thức của mật khẩu
dùng trong việc đánh thức tất cả các sinh vật đang ngủ trên hòn đảo.” Y chuồi
các trang giấy vào bì thư trở lại và nhìn người đàn ông trẻ hơn mình. “Hãy ra
Atcatraz. Đã đến lúc phải giết chết Perenelle Flamel.”

