Tôi mang thai đứa con của chị gái - Chương 07

VII.
Hành trình tìm con

Ðêm ấy, anh nói, sẽ đưa chị lên Hà Nội
khám, tuy nhiên bề ngoài vẫn phải báo với mọi người là lên Hà Nội chúc tết bố mẹ
chồng tôi.

Tôi cùng đi với anh chị tới viện. Ngay
cả ở đây cũng không tránh khỏi nhiều ánh mắt đổ vào cái dáng thấp lùn của chị.
Cái nắm tay của chị như truyền sang tôi tất cả những điều chị đang nghĩ. Tôi hiểu
chị sợ, sợ chút nữa thôi người ta cho anh chị biết kết quả. Sợ một cái án bất hạnh
nữa sẽ đổ lên đầu mình.

Thực lòng, tôi cũng vô cùng lo lắng,
nhưng phải gắng tỏ ra bình tĩnh. Trong lòng chỉ biết thầm cầu mong sao, cuộc đời
xin đừng thử thách chị tôi thêm nữa. Vẫn biết, cuộc đời mỗi người mang một nỗi
khổ riêng, nhưng sao tôi chưa thấy niềm vui nào trong cuộc sống của chị tôi. Nếu
hôm nay, cái kết quả kia cho biết khiếm khuyết nằm ở chị thì ngày mai thôi, ở
làng quê ấy, mọi ánh mắt nhìn chị sẽ ít thương cảm mà nhiều dè bỉu. Và cuộc đời
chị sẽ như thế nào? Xin đừng. Xin đừng!

“Vợ chồng chị Hoài” – cô y tá gọi.

“Vâng có” – Anh Hưng nói to, có lẽ cũng
là để trấn áp đi nỗi lo lắng trong lòng.

Bác sĩ nhìn lướt qua anh chị rồi dừng
cái nhìn lại ở chị. Ánh mắt ấy dự báo điều gì, tôi không thể đoán được. Nếu
trông chị bình thường, liệu ông ấy có dừng cái nhìn vào chị và im lặng lâu thế
không? Trong cuộc sống của mình, tôi chưa bao giờ hồi hộp chờ đợi thông tin nào
như chờ lời ông bác sĩ ấy. Cũng chưa khi nào tôi dám cầu xin đấng tối cao cho
tôi sức mạnh, niềm tin như lúc này.

Ông định cất lời nhưng rồi dừng lại.
Tôi linh cảm, sắp tới sẽ là những thông tin không vui.

“Về chị, à không, tôi sẽ nói về anh trước”.

“Vâng”.

“Đây, anh chị nhìn vào tờ giấy này, tôi
sẽ giải thích…”.

Có lẽ với sự nhạy cảm, người bác sĩ đã
chuyển sang nói về anh trước. Những thông tin ông mang lại không phải là thông
tin khiến người ta mỉm cười. Kết quả tinh dịch đồ của anh không tốt, lượng tinh
trùng khỏe mạnh không đủ chuẩn.

Nghe bác sĩ nói, tôi thấy nét mặt anh lặng
đi. Chị quay sang nhìn anh, đặt tay mình lên tay chồng.

Người bác sĩ quay sang nhìn chị lần nữa
rồi mới nói về trường hợp của chị. Bác sĩ bảo, chị bị hẹp cổ tử cung, cũng là một
phần nguyên nhân làm cho tinh trùng khó vào gặp trứng. Lời khuyên bác sĩ dành
cho anh chị là thụ tinh nhân tạo và có nói về các quy trình nếu thực hiện.

Bước ra khỏi phòng bác sĩ, chị im lặng.
Còn anh quay sang tôi bảo: “Anh đưa chị về nhà đã, tháng sau anh chị sẽ sắp xếp
lên”.

*

Chiều ấy, ngay khi về đến đầu làng, nhiều
người làng chẳng ngại ngần, hỏi luôn: “Hai vợ chồng đi Hà Nội về kết quả thế
nào?”. Nhiều câu hỏi mang danh nghĩa là quan tâm, nhưng thực ra lại là sự soi
mói, hỏi cho biết, hỏi để thỏa cái sự tò mò. Chị chỉ cười chứ không nói.

Ngay khi về tới nhà, mẹ chồng chị cũng
hỏi: “Sao hả? Tao có thể có cháu bế không?”.

“Mẹ sẽ có” – anh nói như chắc như đinh.

“Ôi” – bà thở phào như vừa trút được một
gánh nặng.

Và rồi, đến ngày anh chị quyết định lên
Hà Nội để thụ tinh nhân tạo thì cả làng đều biết. Cuộc sống công nhân không cho
phép chị nghỉ làm lâu, mà việc thụ tinh nhân tạo thì cần nghỉ ngơi theo dõi. Chị
buộc lòng phải xin nghỉ việc, anh cũng tạm thời không đi làm nữa để bước vào
hành trình tìm con.

Bố mẹ chồng bảo tôi đón anh chị về
trong thời gian điều trị, nhưng anh chị từ chối. Tôi thuê cho anh chị một phòng
trọ ở gần bệnh viện.

Ngày thứ hai của vòng kinh, chị được chỉ
định dùng thuốc kích trứng. Bởi tuổi của chị không còn thuận lợi cho việc sinh
nở nên bác sĩ đã dùng phác đồ đặc biệt. Tôi mang đến vài cuốn tạp chí cho anh
chị, đọc để khỏa lấp thời gian. Với những người đang mong ngóng từng phút từng
giây đi tìm hình hài đứa con của mình, thì một ngày cũng dài bằng cả năm trời.
Sự chờ đợi, lo lắng lại càng ảnh hưởng xấu hơn đến khả năng thụ thai. Chị không
nói ra nhưng nhìn vào đôi mắt chị, tôi biết chị đang thật sự chiến đấu như một
chiến binh.

Một ngày sau, chị tiếp tục vào viện để
tiêm một loại thuốc nữa. Sau bốn ngày, chị bắt đầu được siêu âm để xem nang
noãn phát triển thế nào rồi lại tiêm thuốc. Những ánh mắt trong bệnh viện nhìn
chị đã không còn dị nghị ngạc nhiên, bởi họ không để ý tới chiều cao hay cái
chân sưng to của chị nữa. Chỉ còn ánh mắt mệt mỏi, đồng cảm của những người
cùng cảnh đi tìm con mà thôi.

Đến lúc nang trứng được kích thước, anh
Hưng được gọi vào để lấy tinh trùng, lọc rửa, rồi bơm vào người chị. Từng ngày,
từng ngày, chị đợi chờ đứa con thành hình hài trong cơ thể mình. Mười bốn ngày
sau khi bơm tinh trùng – tựa như mười bốn thế kỉ đằng đẵng, chị sẽ đến viện để
kiểm tra xem thai có đậu không.

Nếu hạnh phúc có thể chỉ cần diễn đạt
trong một cái cười to, trong đôi mắt long lanh, hay bằng vài kí tự thì nỗi chờ
đợi của chị không thể diễn tả bằng vài dòng chữ.

Nếu bạn từng đọc một cuốn tiểu thuyết
chương hồi, từng hồi hộp mong ngóng cái kết có hậu ở những dòng chữ cuối cùng
thì cũng chưa chắc hiểu được nỗi chờ đợi của chị.

Có nhiều lúc, mới năm giờ sáng, chị đã
gọi cho tôi chỉ để nói một câu: “Sao ở Hà Nội mãi không sáng nhỉ?!”.

Nếu là một người bình thường, bạn có thể
giết thì giờ bằng cách nhảy lên xe đi dạo phố phường, nhưng chị lại không thể
làm điều đó. Chị đang thụ tinh nhân tạo, chị cần ở lại phòng và đi dạo nhẹ
nhàng quanh đó, quanh ra quẩn vào với nỗi đợi chờ. Bởi thế mà thời gian càng trở
nên nặng nề.

Anh Hưng, sau khi lấy tinh trùng xong,
cũng phải dùng thuốc an thần suốt những ngày còn lại. Nỗi lo lắng của anh không
hằn lên khuôn mặt giống như chị, nhưng rõ ràng anh cũng thật sự bấn loạn.

Ngày thứ mười bốn, anh chị vào viện kiểm
tra. Chị được xét nghiệm máu để xem kết quả là dương tính hay âm tính.

Hôm ấy, tôi xin nghỉ làm để vào cùng
anh chị. Chị bảo, chị muốn có tôi bên cạnh.

“Chị Hoài”.

“Vâng. Có”.

“Chị…”.

Không có lời chúc mừng nào trong hôm
đó. Kết quả âm tính. Chị ôm lấy tôi. Những giọt nước mắt của bao ngày chờ đợi dồn
nén như nước sôi dội lên đôi vai tôi nóng bỏng. Chị khóc nức nở giữa bao người
lạ, không còn e dè, không còn nỗi ngại ngần nào. Chỉ còn nỗi buồn nghẹn đắng.

Bao ánh mắt nhìn chị thương cảm, trong
đó, có lẽ, cũng không ít người từng khóc như chị.

Thiên thần ơi, thiên thần ở đâu vậy,
sao con không về đây, sao con không về với mẹ con? Ngàn lời nói với chị lúc này
cũng thành vô nghĩa cả.

Hành trình tìm con của anh chị lại tiếp
tục nối dài hơn, tốn kém, mệt mỏi và thêm hao mòn.

*

Anh chị trở về quê sau gần một tháng ở
Hà Nội. Để làm lại phải đợi hai tháng nữa. Nếu những ngày chờ đợi ở bệnh viện
dài đằng đẵng và mệt mỏi như bao thế kỉ thì con đường về quê với chị lại trở
nên quá ngắn ngủi. Song, lại là một con đường lửa. Ở cuối con đường, sẽ có những
người chờ đợi để hỏi chị “sao rồi?”. Để rồi nhanh chóng truyền tai nhau câu
chuyện buồn của chị, và rồi mỗi lần nhìn thấy anh chị, người ta lại xì xầm phân
tích lí do. Chị cứ muốn ngồi mãi trên chuyến xe này, đi xuyên qua thời gian, đi
mãi, đi mãi để không bao giờ dừng chân nơi xóm làng ấy, căn nhà ấy, để không
còn phải nghe bất cứ một điều gì, dù là hỏi han, bàn tán, hay luận bình...

Nhưng, không có chuyến xe nào là chuyến
xe xuyên thời gian như chị hằng mong.

Trở về nhà, chị chỉ muốn được lên giường
nằm ngủ một giấc dài, để tạm gác lại mọi suy nghĩ bấn loạn trong đầu, nếu không
sẽ không khỏi phát điên lên. Vậy mà, bao nhiêu người quen quanh xóm đã đứng đợi
ở sân.

“Thế nào rồi?”.

“Chắc được chứ?”.

“Ở Hà Nội mới tí ngày mà trắng cả ra nhỉ?!”.

Song, bao câu hỏi ấy cũng không bằng
ánh nhìn chờ đợi của mẹ chồng chị. Trong thời gian làm thụ tinh, chị từng nói với
tôi rằng, những ngày ấy, mẹ chồng chị cũng mất ngủ, lo lắng, chờ đợi không kém
gì anh chị.

“Mọi người về đi cho vợ chồng cháu nghỉ
đã” – anh Hưng lên tiếng.

Một câu nói đủ để mọi người hiểu điều
gì đang diễn ra.

Những bước chân tản đi.

Những tiếng thở dài dội lại.

Có người lắc đầu chắc hỏng rồi.

Có người cố chêm vào đã khó thì…

*

Hai tháng sau, anh chị trở lại Hà Nội

Lần thứ hai, anh chị lên Hà Nội và trở
về.

Lần thứ ba, anh chị lên Hà Nội và trở về.

Lần thứ tư, anh chị lên Hà Nội và trở về.

Lần nào cũng lặp lại một quy trình như
lần thứ nhất. Nhưng mỗi lần, cảm giác mệt mỏi và chờ đợi thêm nặng nề hơn. Số
tiền anh chị tiết kiệm cũng vơi cạn đi và hết.

Người trong làng bàn tán. Người bảo, thực
ra tại anh Hưng không đủ tinh trùng. Người bảo, đấy là anh nhận lỗi cho vợ, bảo
vệ vợ. Người bảo, chắc chỉ tại chị Hoài thôi.

Chị im lặng.

Và anh cũng im lặng.

Niềm tin ở chị, có lẽ, đã cạn đến đáy.
Nếu là ngày xưa, chị sẽ bảo rằng, chị bỏ về; còn bây giờ, chị không nói thế nữa.
Chị cũng từng bảo, khi có bầu, nếu chồng và chị quá trái tính nhau, chị cũng sẽ
bỏ về, bởi chỉ cần có đứa con danh chính ngôn thuận là tốt lắm rồi. Bây giờ,
khi biết mười mươi việc không có con cũng là do anh dự phần khiếm khuyết thì chị
lại không đành lòng bỏ mặc anh. Phụ nữ là thế, càng khó lại càng thương. Biết rằng
người đàn ông của mình khó có con, họ lại càng quyết tâm cùng chồng đi đến tận
cùng, không từ bỏ. Nhưng có bao nhiêu người đàn ông khi biết vợ không thể sinh
con cho mình làm được điều ấy? Nếu không đường đường chính chính chia tay, thì
cũng lén lút đi gieo giống ở một nơi khác.

Không biết động viên chị thế nào, tôi gửi
cho chị thêm những tài liệu nói về thụ tinh nhân tạo. Có nhiều người tiến hành
sáu, bảy lần, có người làm đi làm lại cả chục lần bởi khát con. Tâm lí quyết định
rất lớn tới việc điều trị vô sinh và thụ tinh nhân tạo. Những thiên thần dường
như thích chơi trò ú tim. Biết bố mẹ đang sốt ruột mong ngóng, thiên thần lại
càng muốn trốn tìm. Tôi đã gặp nhiều người bạn đi điều trị vô sinh năm, sáu
năm, đến lúc quá chán nản, mệt mỏi, buông tay thì lại có bầu. Tôi bảo chị, nên
thả lỏng một chút, đừng quá ép mình vào những khuôn thước. Hôn nhân không chỉ để
duy trì nòi giống. Tôi nói với chị thế, nhưng tôi biết với tâm lí người Việt,
nhất là người đàn bà nơi thôn quên, thì hôn nhân đích thực là để sinh con đẻ
cái, duy trì dòng giống. Quan niệm “gái không con như hoa độc không quả” vẫn nặng
nề như một cái ách đeo trên cổ người phụ nữ, đời đời nay vẫn thế.

Tôi rất kì lạ là anh rể tôi không mấy mặn
mà khi đưa ra ý kiến. Cuộc sống của anh, tâm hồn của anh luôn mờ nhạt một cách
đáng ngạc nhiên. Chỉ riêng chuyện quyết định lấy chị Hai là tôi thấy anh quyết
đoán. Còn sau đó, mọi chuyện anh đều bảo cứ tùy chị.

Cuối cùng, chị gọi điện cho tôi và bảo
anh chị sẽ quyết tâm đi Hà Nội một lần nữa. Chị bảo với tôi, “đây sẽ là lần cuối
cùng”, nếu không được chị sẽ xin con nuôi, nếu anh không đồng ý thì chị sẽ quay
về sống một mình như xưa, chị quá mệt mỏi rồi.

Lần này, cảm giác chờ đợi của chị đã vợi
đi. Chị bảo, có lẽ vì biết chị khao khát quá nên ông trời càng thử thách, càng
làm khó chị. Vậy thì, chị quyết buông trước.

Thế là, lại một chặng đường lặp lại với
thuốc thang và bệnh viện.

Đến lần thứ năm anh chị đi Hà Nội thì
chẳng ai hỏi han gì nữa. Mẹ chồng chị cũng lẳng lặng. Ở vào cái tuổi gần đất xa
trời ấy, có lẽ bà cũng chẳng còn sức để tin vào điều kì diệu nữa. Những lần trước,
mỗi khi anh chị đi, bà thường dậy sớm thắp hương lên ban thờ của chồng. Lần
này, bà chỉ nằm im trên giường, cũng không đáp lại lời chào của anh chị.

Ở bệnh viện, chị gặp lại nhiều người
quen từ những lần thụ tinh trước. Có điều, gặp lại nhau ở nơi này, không ai tay
bắt mắt mừng mà chỉ nhìn nhau cười mệt mỏi. Thực ra là những cái nhếch môi đau
đớn chứ không phải cười.

Chị Hai lại bắt đầu quá trình kích trứng,
siêu sâm. Anh rể uống thuốc chống nhiễm trùng, lấy tinh trùng. Mỗi lần bơm tinh
trùng vào là một lần chị thấy cơ thể mình bị ruỗng ra, trống hoác và đau đớn.

Với những người làm thụ tinh nhân tạo,
con số mười bốn đã trở thành con số ám ảnh, nó có thể trở thành con số thần
thánh, cũng có thể mãi mãi là một con số ma ám đáng sợ. Họ chờ đợi ngày thứ mười
bốn sau khi bơm tinh trùng như chờ đợi bản án của thẩm phán – những bản án mà
người ta chỉ có thể tiếp nhận chứ không thể phán kháng, và đôi khi không một lí
do. Nếu kết thúc bằng những lời tốt đẹp thì đó là món quà của sự may mắn, của
phép nhiệm màu. Nếu kết thúc bằng những lời giá lạnh thì đơn giản đó là nỗi bất
hạnh của số phận, không thể chối bỏ được.

Chị Hai đã bốn lần đón nhận bản án đanh
thép, giá băng. Bốn lần ấy, người đàn bà của tôi sống trong nỗi đau tột cùng,
trong sự thất vọng vô bờ. Bốn lần ấy, chị chỉ nhận được một lời động viên rằng
lần sau có thể tốt hơn.

Lần này, đến ngày nhận kết quả, chị bảo
tôi đừng tới. Chị bảo, nếu thấy chị về quê mà không báo gì thì đừng hỏi gì nữa,
nếu có tin vui thì chị sẽ gọi.

Tôi ngồi làm ở cơ quan mà liên tục nhìn
vào đồng hồ. Chưa khi nào tôi lại khát khao một cuộc điện của chị gái mình như
thế. Tôi chờ đợi hơn cả chờ đợi cuộc điện của ngày còn yêu. Cái điện thoại cứ đặt
ở trước mặt. Chỉ cần lóe sáng lên là thu hút cả tâm trí tôi. Nhưng ba lần sáng
là ba lần của khách hàng gọi đến. Đến lần thứ tư, số của chị hiện lên.

Tôi vội vàng bắt máy: “Vui phải không
chị?”.

Nào ngờ chị bảo: “Chưa đến lượt, chị sốt
ruột quá nên gọi cho em”.

Trời, nỗi thất vọng xâm chiếm lấy tôi.
Tôi định chạy ngay tới bệnh viện, nhưng nhớ lời chị dặn: “đừng đến, bởi chị dễ
khóc hơn khi thấy em” nên tôi nhẫn nại ngồi lại ở văn phòng, và tiếp tục đợi.

Đến gần hết giờ làm, chị gọi cho tôi.
Chắc chắn là tin vui, tôi nghĩ thế.

Tôi vừa mở máy, tiếng chị ngọng nghịu
phía kia: “Có, có, em ơi…”.

“Ôi…!”.

Tôi nhảy lên rồi lao nhanh tới bệnh viện.
Chồng tôi được báo tin cũng cùng tới.

Nhìn gương mặt chị hạnh phúc hơn cả
ngày cưới, mỗi thớ cơ giãn ra như chứa đựng trong đó niềm hạnh phúc không lời
nào diễn tả được. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Tôi cứ ngỡ thế giới quanh mình
đang chuyển từ tiết đông sang tiết xuân. Trên những gương mặt xa lạ đâu đó, niềm
vui cũng ánh lên cùng chúng tôi, và trong mắt họ ánh lên cả một niềm tin – niềm
tin vào sự may mắn và những điều kì diệu. Vâng, kết quả ấy của chị đã truyền lại
niềm tin cho bao nhiêu người. Người ta đến bắt tay anh chị như để được hưởng
lây phép nhiệm màu.

Tôi giữ anh chị lại nhưng anh chị không
ở. Hai người ăn tạm bát phở rồi bảo phải về quê ngay. Niềm sung sướng không cho
chân họ đứng yên được. Anh còn bảo, về buổi trưa thì đường vắng, đi cho an
toàn. Anh không cho chị đi xe khách mà bắt taxi về. Trước lúc lên xe, anh cứ dặn
đi dặn lại tài xế là phải đi thật chậm, thật cẩn thận, hết bao nhiêu tiền cũng
chịu.

Anh chị lên xe đi rồi, tôi và chồng bỗng
dưng ôm nhau nhảy vòng quanh, cứ y như chúng tôi sắp có đứa con của mình vậy. Rồi
tôi gọi báo cho chị Cả. Chị Cả sung sướng đến mức không thể làm gì, cứ nửa tiếng
lại gọi cho tôi bảo: “Ôi thế thì sướng nhỉ”, “Thế thì phải…”, “Tôi nghĩ nên…”.

Vậy là ở tuổi ba mươi bảy, chị Hai có bầu
sau bao ngày chờ đợi, bao ngày đau đớn ở viện.

Anh chị về nhà thì đã thấy bao nhiêu
người quây quần ngồi uống nước cùng với mẹ chồng chị. Lần này không ai hỏi dò hỏi
xét gì nữa.

Để chuẩn bị chào đón đứa cháu đích tôn,
mẹ chồng chị không cho chị cấy ruộng nữa và bảo chị đi lại ít thôi. Bà phân
công nhiệm vụ cho anh là tiếp tục đi làm kiếm tiền, còn bà ở nhà sẽ chăm con
dâu chu đáo.

Có lẽ hạnh phúc từ muôn kiếp đã để dành
cho những ngày tháng này.

Trong xóm xây dựng giếng mới, mọi người
đều tự góp công vào. Nhưng lần này ai cũng bảo chị không phải làm gì hết. Bây
giờ chị mới thấy mình được sống trong yêu thương của láng giềng. Người mang cho
chị ít trứng gà nhà. Người mang ít rau mới hái.

Mẹ chồng chị sáng nào cũng hầm gà bắt
con dâu ăn tẩm bổ và đi chợ mua đồ ăn. Người làng thấy bà thường xuyên ghé qua
chợ thì bảo bà chăm con dâu kĩ quá. Ngày xưa, bà thường kêu đau lưng, đau vai,
đau khớp chân khớp tay, bây giờ thì chẳng thấy kêu nữa.

Mỗi lần chị vào nhà tắm, bà cứ đứng ở cạnh
cửa canh. Bà bảo chị không được tắm lâu, khi tắm phải ngồi lên ghế kẻo ngã. Bà
đứng ngoài canh, nếu thấy chị lâu ra liền lo lắng hỏi: “Con có sao không?”.

Bà còn không cho chị rửa bát vì mỗi lần
rửa phải ngồi gấp bụng, rất khó chịu. Bà bảo để bà rửa.

Bà dặn chị đủ thứ. Nào là không được
xoa bụng. Nào là không được chơi với trẻ con vì sợ chúng lỡ đạp vào bụng. Hôm
có người bà con bên chồng qua đời, bà cũng dặn chị không được ghé qua, để bà và
chồng chị đến thăm viếng là được rồi.

Bà còn bảo vợ chồng anh chị cố nhịn
chuyện ấy để bảo vệ đứa con. Anh chị chỉ cười. Nhà có khách, chị đi làm cơm thì
bà bảo để bà làm ăn tạm cái gì cũng được chứ không để chị làm, lỡ làm sao thì
ân hận.

Từng ngày, từng ngày qua đi, chị sống
trong niềm vui, sự yêu thương và bảo bọc. Nhưng cảm giác chờ đợi thì không cách
nào nguôi ngoai. Bao lâu mới hết chín tháng mười ngày? Bao lâu chị mới được
nhìn thấy mặt đứa con của mình? Bao lâu? Bao lâu nữa?

*

Biết tin chị dâu có bầu, cô em gái út của
anh Hưng cho con về chơi. Cô mang theo cả đứa con bé về. Chị Hai định bế cháu
nhưng mẹ chồng chị vội đưa tay ra hiệu đưa đứa bé cho bà.

Bà bảo: “Bác yêu con thế được rồi,
không bế đâu. Lỡ nó đạp vào bụng”.

“Dạ vâng”.

Vậy là cả ngày chị cứ quanh đi quẩn lại
trong nhà.

Em gái chồng vốn chẳng mấy khi nói chuyện
với chị dâu bỗng trở nên thân thiện. Cô chia sẻ với chị chuyện sinh con lần đầu
rồi tươi cười vẽ ra cảnh lúc chị sinh. Cô bảo, lần sau về sẽ mang cho chị ít quần
áo trẻ con. Rồi còn bảo, lúc chị sinh sẽ xin nghỉ việc để về chăm chị một
tháng. Làm sao chị có thể không cảm động cho được.Thế rồi ba người phụ nữ và đứa
trẻ nhỏ ngồi ăn cơm vui vẻ như chưa khi nào vui hơn thế. Mẹ chồng chị gắp thức
ăn vào bát chị. Cô em chồng bảo chị cố gắng ăn tốt để con cứng cáp.

Nhưng sau bữa cơm trưa, chị Hai bỗng thấy
đau bụng. Mẹ chồng chị hoảng hốt đỡ con dâu vào giường.

Cô em chồng luýnh quýnh: “Có khi phải
đưa chị ấy đi viện”.

“Để nó nằm lúc nữa xem thế nào”.

“Không, phải lên viện đã”.

Mấy người trong xóm nghe tiếng cô em chồng
gọi liền chạy sang cùng chở chị đi viện. Cơn đau dữ hơn, khiến chị quằn quại và
kêu lớn. Trên đường đến viện, máu ở cửa mình chị Hai chảy ra nhiều hơn. Chị được
đưa vào phòng cấp cứu.

Bác sĩ kết luận, chị bị sảy thai.

Cái tin ấy như trời giáng xuống chúng
tôi.

Bốn tháng hạnh phúc bỗng trở thành trò
đùa trớ trêu của số phận. Ông trời trao cho chị hạnh phúc bốn tháng ấy rồi lại
lấy nó đi, khiến chị đau đớn biết nhường nào.

Thà rằng đừng có...

Chị nằm bất động trên giường, gương mặt
đờ đẫn câm lặng, ai hỏi gì cũng không nói. Đôi mắt chị ráo hoảnh, không có giọt
nước mắt nào chảy ra được nữa.

Tôi và chị Cả ngồi bên chị Hai. Cả ba
chúng tôi đều đánh mất ngôn từ. Chúng tôi cùng chìm trong im lặng – khoảng im lặng
mênh mông đáng sợ.

Anh Hưng nghe tin nên đã về.

Anh ngồi ở một góc nhà.

Mẹ chồng chị ngồi khóc trong buồng. Bà
cứ rấm rứt hỏi, vì sao trời đày đọa, vì sao lại thế?

Chị em tôi không biết đã ngồi im lặng
như thế bao lâu. Cho đến lúc, chị Hai bỗng dưng cười rưng rức. Tiếng cười của
chị làm tất cả chúng tôi tỉnh thức và sợ hãi. Những nỗi đau với chị, có lẽ, đã
chồng chất đến không thể chịu đựng được nữa.

Những ngày sau, chị Hai thường xuyên phải
dùng thuốc an thần. Nhưng cứ thức dậy, chị lại cười rưng rức. Chị chẳng nói gì
với ai, chỉ cười.

Hàng xóm sang xui mẹ chồng chị làm lễ bắt
ma rồi đi cúng. Họ bảo, chắc nhà bà bị động mạch, chắc chị bị nhiễm ma. Mọi lời
đồn đoán lan ra khắp làng. Nhiều đứa trẻ con đứng nhìn trộm qua cửa sổ rồi cười.

Tôi và chị Cả xin đưa chị Hai về bên
nhà cũ của chúng tôi. Chúng tôi sợ cái cảnh cúng tế hương khói nghi ngút. Chị
Hai sẽ không chịu nổi cảnh ấy. Mẹ chồng chị cũng đồng ý để chúng tôi đưa chị
đi.

Lúc về tới nhà tôi, chị mới khóc, chị cứ
kêu bố mẹ ơi sao con khổ thế. Tôi lấy ít nước củ bình vôi cho chị uống, rồi chị
ngủ. Chị Cả cứ ôm lấy chị Hai bảo số em tôi khổ quá.

Mất ba tháng chị thất thần như thế.

Chúng tôi không dám đề cập gì đến chuyện
con cái của chị trong vài tháng sau nữa. Trong thời gian ấy, tôi có tìm hỏi vài
bác sĩ quen biết. Họ nói rằng, chị bị sảy thai có thể do rối loạn nhiễm sắc thể,
do tử cung của chị có vấn đề.

Tôi có hỏi anh rể xem anh tính sao, anh
có muốn tiếp tục làm thụ tinh nhân tạo lại không. Anh im lặng rất lâu. Có lẽ
anh cũng đã cạn niềm tin, anh cũng sợ lại thất bại, nhưng nếu thôi không làm nữa
thì anh lại thấy như thế là đầu hàng sớm quá. Vâng, anh rể tôi luôn mờ nhạt
trong mọi ý kiến của mình nên cách ứng xử này của anh cũng không còn khiến tôi
ngỡ ngàng nữa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3