15. Hoàng tuyền không nhà trọ - Phần 01
Hoàng tuyền không nhà trọ
1
Giang Vi, người nước Mân thời Ngũ Đại, vì giúp bạn trốn về
nước mà ông ta phải chịu liên lụy. Trước khi bị xử tử, lời lẽ ông rất dứt
khoát, rằng: “Muốn đánh đàn để tưởng nhớ Kê Khang vào ngày giỗ của người, nhưng
thời gian đã không còn nữa, nhưng ta vẫn kịp phú một bài thơ tặng người.” Nói rồi
ông cầm bút lên viết: “Nha cổ kinh nhân cấp. Tây khuynh nhạt dị tà. Hoàng
tuyền vô lữ điếm. Kim dạ túc thùy gia?”[190] Ông chỉ nghĩ đến việc xuống âm
phủ sẽ ở chỗ nào, dường như ông không hề nghĩ tới việc đầu mình sắp lìa khỏi cổ.
Tựa như ông đang chăm lo cho viên đao phủ lau sạch lưỡi dao, để lát nữa tránh
khỏi một lần làm rách gió vậy, bài thơ của ông khiến người ta tưởng như nặng nhẹ
đã đổi chiều, họ không nín nổi cười, nhưng thực ra cái mà ông viết chính là sự
thong dong thư thái của nhà thơ, đương nhiên trong đó tất có chứa chất sự khinh
miệt đối với những kẻ quyền thế, thích dương oai.
Đến triều Minh, năm Thái Tổ, nhà thơ Tôn Phần đề một bức họa
tặng cho Lam Ngọc, khiến Chu Hồng Vũ không vừa lòng, cho rằng lập trường của
Tôn Phần có vấn đề, giáng chỉ lệnh chặt đầu ông. Trước khi chết AQ có hô khẩu
hiệu hay không không quan trọng, nhưng không thể trở thành nhà thơ khâm phạm của
triều đình được, bởi Thái Tổ quá anh minh, không nói gì, hóa ra lại là nhạo
báng người. Vậy thì hô “vạn tuế”, hát “hoan lạc tụng” đi, nói cũng chỉ là những
lời nói không thật lòng, mang ý đả kích, nó còn ác độc hơn khi hô “lật đổ”. Thế
là ông học Khổng Phu Tử, nói những gì người xưa nói, chứ không dùng của mình,
hai mươi chữ của Giang Vi[191], ông xin “mượn tạm” một nửa, nói rằng: “Đà cổ
tam thanh cấp. Tây sơn nhật hựu tà. Hoàng tuyền vô khách xá. Kim nhật túc thùy
gia.”
[190] Nghĩa là: Trống
phủ rợn kinh người, mặt trời nghiêng xuống núi, hoàng tuyền không quán trọ, đêm
nay nghỉ nhà ai?
[191] Giang Vi là nhân
tài một thời, nhưng vận mệnh của ông không được may mắn, không chỉ phải chịu án
chém đầu mà tất cả những bài thơ do ông sáng tác đều bị đốt hết. Ngoài cái đầu
thì ngay cả những thứ như Bóng trúc
đâm xiên mặt nước trong. Quế hương lay động ánh trăng non cũng bị người
ta cướp sạch, điều đó lại càng khiến Giang Vi thêm nổi tiếng.
Sau khi quan giám hình đã lo cho nhà thơ Tôn lên đường xong
xuôi, Thái Tổ hỏi Tôn Phần có điều gì muốn nói trước khi bị hành hình không,
quan giám hình báo cáo lại y nguyên như vậy, không ngờ Thái Tổ tức giận nói: “Có
thơ hay vậy mà không tấu, thế là thế nào?” Có phải ông ta tức giận quát: “Mau
trả lại nhà thơ Tôn Phần cho ta!”, điều này không cần nói cũng biết, và thực sự
ông ta đã lệnh chặt đầu viên quan giám hình. Thái Tổ miệng nói bài thơ này hay,
nhưng chắc ông ta không có ý định lấy bài thơ này làm bản mẫu cho lớp thơ phong
mới, bài thơ đó chẳng qua chỉ là mượn đề mục để đùa cợt với quyền thuật một
chút mà thôi. Hiệu quả của quyền thuật là, những tên nô tài phạm tội sau này cứ
nhắc đến việc này là họ nói, thực ra Thái Tổ rất yêu quý thành phần trí thức.
Đứa con trai ruột ăn chơi của Vạn Tuế gia càng không quan
tâm tới chuyện đó, chỉ nói câu của nhà thơ Tôn Phần: “Hoàng tuyền không
khách xá”, lúc đó nếu trau chuốt một chút, thì dù có là người dửng dưng
cũng phải cảm thấy đau đớn. Thử nghĩ, cây đao sáng lóe trên tay tên đao phủ, chỉ
cần hạ xuống là đã đưa nhà thơ từ pháp trường sang một thế giới khác, chỉ thấy
một vùng cỏ hoang ngút trời, sương đêm tứ phía bủa vây, chẳng phải nói người
dưng đất lạ, mà có khi đến một bóng quỷ cũng chẳng nhìn thấy. Lúc đó, không cần
nói đến trạm đón khách hay nhà nghỉ, mà muốn tìm một nhà vệ sinh rách nát chắc
cũng khó.
Thế là lại nghĩ tới vấn đề nhà ở khi các hồn ma xuống âm phủ.
Dưới thuyết địa ngục và thuyết luân hồi của Phật giáo, các hồn
ma không quan tâm đến vấn đề nhà ở, đương nhiên, người lạc quan cũng cố gắng hiểu
ở đó là “chế độ ăn ở bao cấp”. Dưới thể chế ấy, nơi quy tụ của các vong hồn sau
khi thanh toán tất cả mọi tội lỗi và phúc phận được tích dồn khi còn sống chính
là sáu đường luân hồi. Diêm phủ là “vùng đất sinh tử luân hồi, là cửa khẩu qua
lại giữa hai giới âm và dương”, đi đi lại lại, đón đón tiễn tiễn, các vong hồn
đi vào Diêm phủ đều tự mình sắp đặt tất cả, cũng không cần thiết phải thu xếp
nơi ở lâu dài. Nếu theo cách nói quen thuộc của Phật giáo dân gian Trung Quốc,
địa ngục chỉ là một cơ quan của Diêm phủ, cũng giống như giam ngục được thiết kế
bên dưới các nha phủ, vậy thì do tất cả các vong hồn đều bị giam vào đại lao, đồng
thời tuyệt đối không cho phép người thân, bạn bè tới thăm nom, nên họ cũng
không cần thiết phải lo lắng bên ngoài địa ngục có nhà trọ hoặc nhà ở hay
không.
Nhưng trong vấn đề này, ý thức về âm phủ mà quan niệm đạo đức
bản địa của Trung Quốc ủng hộ lại rất ngoan cường. Cụn Tri Đường trong quyển Thuyết
vô quỷ từng nói rằng: “Ở Trung Quốc, khi nói đến “thuyết thần diệt” người
ta còn có thể chịu yên, cái quan trọng ở đây là “thuyết vô quỷ”, bởi nó không
thuộc về tôn giáo, nhưng vẫn là vấn đề về luân lý, nói “không có quỷ” chính là
không công nhận tổ tông linh thiêng, tức là liên quan đến việc bất hiếu.” Câu
chữ không nhiều nhưng rất sắc xảo, rất nhiều các bậc đại Nho gặp vướng mắc khi
phải lựa chọn trong mơ hồ về vấn đề thần quỷ, do đó họ đã nhận lấy lưỡi dao để
giải thoát cho mình. Quan điểm “vô quỷ” là bất hiếu, nói thẳng ra là không nhận
tổ tông. Tương tự, nhận tổ tông rồi nhưng lại không lo xem tổ tông có chỗ trú ẩn
hay không, như vậy chẳng phải bỏ rơi ông bà, bố mẹ ở nơi hoang vu hay sao? Vì
thế, dù là các đệ tử Phật giáo hay các tín đồ Đạo giáo có biên soạn ra các loại
sách thánh hiền thì người thân của người đã chết vẫn phải làm lễ siêu độ vong hồn,
để tổ tiên sớm được hóa kiếp, như mỗi khi Tết đến xuân về, người ta vẫn phải
cúng tổ tiên, vẫn phải đi tảo mộ, vẫn phải sửa từ đường, vẫn phải hóa tiền giấy...
Xuất phát từ lòng hiếu thảo, họ phải tin rằng người thân của mình đang sống thoải
mái dưới âm phủ. Chữ “hiếu” trong Nho giáo Trung Quốc vẫn phát huy được tác dụng
chủ đạo trong văn hóa âm phủ. Như vậy, người đời không thể không lo cho cuộc sống
của những người quá cố dưới âm phủ, và việc trước tiên họ cần làm đó là sắp xếp
ổn thỏa việc ăn ở cho người đã khuất.
2
Xét từ góc độ của các hồn ma, chỗ ở của họ dưới âm phủ mới
là “thực thể”, nhưng “thực thể” này lại không thể tách rời khỏi cái “hiện tượng
giả” của người trần, đó chính là mộ phần, lăng tẩm, hoặc từ đường, miếu thần...
Từ đường, miếu thần chỉ phù hợp cho những hồn ma của bậc vương công đại nhân,
còn theo “những hiểu biết thế tục”, từ đường, miếu thần là nơi các vong hồn nhận
hưởng sự thờ cúng, ăn uống xong, họ còn phải trở về lăng tẩm nghỉ ngơi. (“Những
hiểu biết phi thế tục” về từ đường, thần miếu, xin xem phần Phụ ký ở cuối
sách này). Nói tóm lại, mỗi hồn ma đều cần có một phần mộ ở dương gian, như vậy
mới có thể bảo đảm chỗ ở tương ứng của họ dưới âm phủ. Nhưng tất cả mọi việc đều
có trường hợp ngoại lệ, những hồn ma lang thang chết không chỗ chôn giống như
những kẻ vô gia cư tại chốn dương gian, một ngôi mộ hoang cũng là mong muốn xa
xỉ của họ. Tuy nhiên, dù là cô hồn, hồn ma lang thang cũng đều mong muốn có một
chỗ trú thân ổn định, vì thế trường hợp “ngoại lệ” này thực ra vẫn không tách rời
những phần mộ cho các vong hồn nương tựa.
Chỉ cần linh hồn không bị tiêu tan vào hư không thì họ nhất
định cần một nơi để gửi gắm. Quan niệm truyền thống của Trung Quốc cho rằng,
linh hồn chết đi sẽ ám vào hài cốt, nếu hài cốt nằm trong mộ thì vong hồn cũng
sẽ nằm trong mộ. Bởi mộ phần chính là nhà của họ, vong hồn của tổ tiên tuy xa
cách âm dương với con cháu, nhưng nơi họ ở lại rất gần. Thế là dù nhận hưởng sự
thờ cúng hay phù hộ cho con cháu, tất cả đều rất tiện cho họ. Nếu người chết ở
nơi đất khách quê người, vậy cần phải nghĩ cách để đưa hài cốt của họ trở về
quê hương. Những câu chuyện kể về việc con cháu vượt ngàn dặm xa xôi đi tìm kiếm
người thân, hoặc đi tìm hài cốt của người thân đều được đời đời ca ngợi, đó
cũng là việc bắt nguồn từ quan niệm này. Giả như chết ở nơi chiến trường, hơn nữa
lại chết ở bên ngoài biên giới, không những không tìm thấy xác, mà có tìm thấy
thì cũng chẳng thể phân biệt được đâu là người nhà, lúc đó chỉ có một cách duy
nhất, đó là xây một ngôi mộ giả tại quê nhà, sau đó chiêu hồn về mai táng.
Trương Đế thời Đông Hán có bài chiếu văn như sau: “Cha chết phía trước, con chết
phía sau. Phụ nữ chân yếu tay mềm đứng nơi pháo đài, đứa bé mồ côi gào thét bên
đường. Mẹ già vợ góa, xây mộ hờ thờ, nước mắt tuôn rơi, mong sao vong hồn nơi
sa mạc tìm đường trở về, thật đau xót thay!” Có thể giải thích một chút, “đau
xót” ở đây chính là để chiêu những vong hồn đang lang thang “nơi sa mạc” “trở về”.
Tóm lại, linh hồn của người đã khuất phải được yên ổn trong mộ. Bởi linh hồn
cũng cần có một ngôi nhà, chỉ ở đó linh hồn mới được sống một cuộc sống như người
thường. Lục Cốc trong Thanh dị lục có viết: “Chỗ đất mai táng gọi
là nhà của vong hồn.” Điều này chứng tỏ mộ phần chính là nơi cư trú của các
vong hồn.
Những câu chuyện về vong hồn ở mộ được gặp nhiều trong các
quyển tiểu thuyết thời Ngụy Tấn, trong đó tiêu biểu nhất chính là câu chuyện về
con gái Ngô Vương tên Tử Ngọc trong Sưu thần ký của Can Bảo. Tử Ngọc và
chàng thanh niên Hàn Trọng yêu nhau, tự hẹn ước sẽ thành vợ chồng. Hàn Trọng
theo học Tề Lỗ, trước khi lên đường, bố mẹ chàng mang lễ vật tới nhà Ngô Vương
cầu hôn, nhưng bị bên nhà Ngô Vương cự tuyệt. Sau khi biết chuyện, Tử Ngọc uất ức
mà chết, xác nàng được mai táng bên ngoài cổng làng. Hàn Trọng trở về, biết Tử
Ngọc đã chết, chàng vô cùng đau đớn, nước mắt tuôn rơi, mang tiền vàng tới mộ
cúng khấn. Lúc này, vong hồn của Tử Ngọc “bỗng xuất hiện bên cạnh mộ”, rồi nàng
mời Hàn Trọng vào trong mộ, “hai người ăn uống cùng nhau, bên nhau ba ngày ba
đêm, hoàn thành xong lễ kết vợ chồng.” Có thể ăn uống, có thể cùng chung chăn gối,
ngôi mộ đó không chỉ có vong hồn ở được, mà cả người sống (hồn sống) cũng ở được
trong đó.
Nhưng nghe nói chính Can Bảo cũng đích thân được trải nghiệm
nó. Trong Sưu thần hậu ký, Đào Tiềm, người đời Tấn đã ghi lại câu chuyện
về cha ruột của Can Bảo, nói rằng sau khi chết cuộc sống dưới mộ của ông không
khác gì người thường. Câu chuyện không hề bịa đặt, bởi có người làm chứng. Hóa
ra vị lão tiên sinh này lúc sống có một người thiếp, ông rất yêu chiều bà, vợ cả
của ông liền đem lòng đố kỵ. Lúc chồng còn sống, bà ta giữ gìn đức hạnh, không
cho ai biết mình đang đố kỵ, bây giờ chồng đã chết, khi xác sắp được đưa đi
chôn, bà nói một câu như rất quen thuộc “đưa đến nghĩa địa chôn cùng”, bà ta đẩy
người vợ bé xuống mộ rồi chôn sống người đó. Khí đó anh em Can Bảo còn nhỏ, mười
năm sau, bà vợ cả cũng qua đời, Can Bảo đưa mẹ đến chôn cùng với cha, nhưng khi
mở phần mộ của cha ra, anh ta phát hiện thấy người vợ nhỏ vẫn đang nằm sấp trên
nắp quan tài, và kỳ lạ là bà vẫn còn thở. Can Bảo dùng xe đưa bà vợ bé của cha
về nhà, chăm sóc một ngày bà mới tỉnh trở lại. Bà kể về cuộc sống của bà với chồng
trong mộ, nói hai ông bà “ăn uống cùng nhau, ngủ cùng nhau, ân tình như khi còn
sống”. Trong Tấn thư - Can Bảo truyện cũng nhắc tới sự việc này, còn nói
một câu “dưới âm phủ chuyện đó không có gì là xấu hổ cả”. Hơn mười năm, đến thứ
tùy táng trong mộ cũng mục nát cùng thi thể, nhưng sở dĩ người vợ bé đó “không
thấy xấu hổ” là vì bà đã cảm nhận được một thế giới khác, tất cả những đồ dùng,
nhà ở đều không có gì khác với dương thế. Những thứ đó người sống không nhìn thấy,
nhưng người vợ bé đó có thể đã bị ám một chút quỷ khí, nên bà có thể nhìn thấy
những thứ mà chỉ ma quỷ mới nhìn thấy. Sau khi sống lại, năng lực siêu nhiên của
ma quỷ trong bà cũng chưa hoàn toàn tiêu tan, vì thế bà còn có thể dự đoán cho
người ta về những điều lành, điều dữ sẽ xảy ra, và tất cả đều rất linh nghiệm.
Trong Sưu thần hậu ký còn có một chương kể về Phạm Khải
đi tìm mộ người mẹ đã chết, ông chỉ thấy “những ngôi mộ nằm san sát nhau, rất
khó phân biệt, không biết đâu là mộ của mẹ mình”. Thế là ông tìm đến một người
có thể nhìn thấy ma, người này đến chỗ bãi tha ma, nói có người trong mộ mặc quần
áo, trang điểm như thế này như thế kia. Phạm Khải nghe thấy thế có vẻ đáng tin,
bèn đào ngôi mộ đó lên, bên trong chỉ thấy một bộ áo quan rách nát, đất bám dày
hàng tấc. Đang chần chừ không biết làm thế nào thì ông nhìn thấy một viên gạch
bên trong chỗ đất đó, bên trên có khắc vài chữ “Phạm Kiên chi thê” (Vợ của Phạm
Kiên). Như vậy, người nhìn thấy ma kia đã nhìn thấy vong hồn bà mẹ Phạm Khải,
tuy người bình thường chỉ nhìn thấy hài cốt bên trong ngôi mộ hoang, nhưng thực
ra vong hồn đó lại mặc quần áo chỉnh tề, sống trong một ngôi nhà lớn khang
trang dưới lòng đất.
Người Nam Triều từng nói như vậy, người Bắc Triều cũng nói
như vậy. Trong quyển Đông Hoàng thực lục của Lưu Bính, người thời Bắc Ngụy
có kể một câu chuyện như sau: “Sau khi đại tướng quân Bắc Ngụy Vương Phiền qua
đời, ông cùng mấy “người” đánh bài, uống rượu trong mộ của mình. Một tên trộm mộ
“không có mắt” đào mộ lên, hắn tròn mắt, đờ người khi nhìn thấy bên trong là cảnh
đèn lửa sáng trưng. Vương Phiền sai tùy tùng đưa cho hắn một ly rượu, hắn không
dám không uống, nhưng đúng lúc hắn định chuồn ra ngoài bỗng nhìn thấy một người
dắt con ngựa đồng tùy táng đi ra phía cửa mộ. Hóa ra người này đi báo quan phủ,
anh ta nhanh chóng đến trước cổng thành, nói với lính gác cổng thành rằng: “Ta
là lính của tướng Vương Phiền, hôm nay có kẻ tới đào trộm mộ, ta đã dùng rượu
nhuộm đen môi hắn, ngày mai hắn đến đây, hãy kiểm tra rồi bắt lại.” Khi tên trộm
mộ đến cổng thành, người lính gác nhìn thấy môi hắn đen xì, liền tóm gọn giải
đi. Mộ của Vương đại tướng quân giống hệt như phủ đệ của ông ở chốn dương gian,
ở đó linh hồn của ông vẫn tiếp tục cuộc sống hưởng lạc và đầy uy nghiêm.”
Còn mộ phần của người dân thường lại chính là ngôi nhà nhỏ
xinh, hàng xóm vẫn tỉnh thoảng qua lại hỏi thăm nhau. Quyển Bác dị chí của
Cốc Thần Tử, người thời Đường có kể câu chuyện của một viên lại huyện Hứa Châu,
tên là Lý Trú. Nửa đêm, khi Lý Trú đang đi trên đường, bỗng nhìn thấy trên ngôi
mộ bên đường có một cái lỗ to bằng chiếc đĩa, trong đêm, từ khe lỗ đó lộ ra ánh
sáng đèn. Ông lập tức xuống ngựa bước tới gần, từ bên ngoài nhìn vào, “thấy năm
người phụ nữ mặc trang phục người Hán, họ tụm lại với nhau dưới ánh nến, tay
không ngừng khâu vá”. Cảnh tượng đó chẳng khác gì những cô gái thôn quê tập
trung lại một chỗ để thêu thùa, vừa tiết kiệm dầu đèn vừa đỡ buồn tẻ. Nhưng Lý
Trú đã phá vỡ khung cảnh đó, ông hắng giọng một tiếng, làm các cô gái sợ hãi biến
mất, cuối cùng chỉ còn lại một màn đêm đen dày đặc.
Nếu là một bãi tha ma, vậy thì đó đương nhiên là một làng hoặc
một thị trấn. Trong cuốn Thanh tỏa cao nghị của Lưu Phủ, người đời Bắc Tống
có một chương ghi chép về “nghĩa địa ký”: “Thư sinh Vương Xí, đêm hôm đi qua Từ
Châu, trời tối đen như mực, anh ta bị lạc đường. Nhìn thấy phía xa xa có đốm lửa
bập bùng, anh ta liền tiến về hướng có đốm lửa để tìm chỗ nghỉ đêm. Quả nhiên
tìm thấy một làng nhỏ. Vương Xí xin ngủ nhờ trong nhà một ông lão, hỏi rằng:
“Đây là nơi nào?” Ông lão trả lời: “Thôn Tùng. Thôn này do một nhà giàu lập
nên.” Ngày hôm sau, Vương Xí cáo từ, đi được một quãng thì gặp một người nông
dân, lại hỏi: “Chỗ này đi từ bắc sang tây khoảng năm lý, có một làng nhỏ có chợ
búa, nhà cửa, đó là chỗ nào?” Người nông dân trả lời: “Chỗ đó là bãi tha ma,
không có nhà cửa, chợ búa gì cả.” Vương Xí giật mình nhớ lại việc đêm qua mình
ngủ trong nghĩa địa, nằm giữa đám mộ mà không hề biết mình đang ở đâu. Có thể
thấy, khi màn đêm buông xuống, những bãi tha ma không chỉ là nơi trú ngụ của ma
quỷ, mà còn có thể biến thành thị trấn, làng mạc trong mắt người dương. Những
câu chuyện như thế tồn tại không ít và được ghi chép lại trong các cuốn sách sử,
nhưng vẫn không làm cho người ta cảm thấy thỏa mãn, có lẽ bởi chúng cũng chỉ là
những sự việc ngẫu nhiên, không thường xuyên xảy ra.
Cũng chính quan niệm này đã gợi ý cho tầng lớp thống trị
trong xã hội phong kiến dùng những cách vô cùng tàn nhẫn và vô nhân đạo để đối
với những ai chống đối chúng. Ngoài việc dồn kẻ thù vào chỗ chết, chúng còn phải
đào hết mộ phần tổ tiên của họ lên, mang xương cốt vứt đi hết. Nếu vẫn cảm thấy
chưa thỏa mãn, chúng còn đào một cái hố sâu ngay trên chính mộ phần đó, rồi đổ
đầy nước thải, ném thêm xác chó mèo chết vào đó, như vậy sẽ đuổi hồn ma ra khỏi
mộ phần, từ đó không còn chỗ dung thân nữa. Qua đây có thể thấy, việc chu di cửu
tộc đối với những kẻ phản loạn vẫn không thỏa mãn được lòng dạ độc ác, thói tàn
nhẫn của các vị hoàng đế ngày xưa, mà họ còn thực thi triệt để những biện pháp
trừng phạt tàn nhẫn đến cực điểm, không chỉ khiến cho kẻ thù đoạn tử tuyệt tôn
mà ngay cả tổ tiên đã mất của họ cũng không chịu buông tha.
Nhân đây cũng xin đưa ra một quan niệm khác cũng liên quan đến
nơi trú ngụ của các linh hồn, nơi đó được mang tên “địa phủ”. Đây là một nơi đô
hội sầm uất, và trung tâm là đám nha môn của Diêm Vương. Nơi đó không có sự xuất
hiện của những ngôi làng, những mảnh vườn, hay những cánh đồng lúa bao la, bước
vào địa phủ là chúng ta bước vào một cuộc sống mới, khiến cho người ta cảm thấy
dường như đó mới chính là cuộc sống lý tưởng của mình. Tác gia nổi tiếng thời Tống,
Lưu Nghĩa Khánh, trong cuốn U minh ký có ghi lại một câu chuyện mang màu
sắc Phật giáo rất rõ nét: “Ở huyện Ba Bắc có một thầy pháp sư tên là Thư Lễ bị
chết, được thần Thổ Địa áp giải đến Quân sở phủ Thái Sơn. Trên đường đi, hai
bên đường đều là nhà cửa, đếm sơ sơ cũng phải hàng nghìn ngôi nhà, “giai huyền
trúc liêm, màn trời chiếu đất, nam nữ ở hai khu phân biệt. Người ca hát, kẻ
ngâm thơ, vui vẻ vô cùng”. Những người sau khi chết lại được sống một cuộc sống
vui vẻ, ấy đều là các tín đồ Phật giáo, nhưng thầy pháp sư kia lại không nằm
trong số đó nên đành chịu sự áp giải của đám đầu trâu mặt ngựa đi hành hình. Niềm
vui bất tận của các linh hồn đó chỉ đơn giản là ăn cơm rồi tụng kinh, tụng kinh
rồi lại ăn cơm, còn về cuộc sống của họ thì đương nhiên không tồn tại khái niệm
“gia đình”, vì nam nữ không được phép chung đụng. Đến đây lại khiến người ta nhớ
đến chế độ Thiên triều của Hồng Tú Toàn với hai cung phân biệt, Nam Cung và Nữ
Cung, hóa ra đây cũng không hẳn là những dị giáo hoang đường, mà trong quan niệm
dân gian Trung Quốc từ lâu đã mơ ước về một cuộc sống như thế.
Nhưng nếu tưởng rằng sự xuất hiện của các khu ở tập thể nơi
âm phủ đó là do chịu sự chi phối của chế độ tăng liêu từ các tự viện thì cũng
không hoàn toàn đúng. Tác gia đời Đường, Đới Phu trong Quảng dị ký có
ghi chép về “Kiềm nhĩ Hàm Quang”, kể rằng vợ của Ngôn Hàm Quang chết khi còn rất
trẻ, một lần lên chùa Trúc Sơn bái Phật, chàng tình cờ gặp được âm hồn của vợ
mình là Lục Thị. Hai người gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chàng liền hỏi thăm tình
hình của vợ, Lục Thị chỉ tay bảo chồng nhìn sang hướng bắc, thấy có một tòa
thành lớn, đó chính là nơi ở của Lục Thị sau khi chết. Sau khi vào thành,
“phòng ốc tráng lệ không khác gì những tòa nhà lộng lẫy chốn nhân gian. Bên cạnh
có một ngôi viện, trong viện đi về phía tây có mười gian phòng, Lục Thị sống ở
căn phòng thứ ba”. Hai người chia tay nhau, ngày hôm sau Hàm Quang lại đến thăm
vợ. Không ngờ ngồi còn chưa ấm chỗ thì một vị sử quan mặc áo gấm dẫn theo chục
người hầu xông vào trong viện. Lục Thị vội vã bảo Hàm Quang chui xuống gầm giường
để trốn. Nàng lắng nghe, thấy bên ngoài có tiếng thét lớn: “Lục Tứ Nương!” Lục
Thị vội vã chạy ra. Lúc này trong viện đang có tất cả hai mươi tám cô gái, viên
quan liền sai thuộc hạ giật hết búi tóc của họ ra, trói hai người một lại với
nhau, ném vào nồi nước đang sôi sùng sục, cứ thế đun cho đến khi lửa tắt, đám
quan sai mới rời đi. Các cô gái sau khi chịu xong hình phạt, liền lảo đảo ai về
phòng người nấy. Có lẽ các bạn có thể nhận ra, đây cũng được coi là một khu nhà
tập thể, nhưng nói một cách chính xác hơn, chỗ này không khác gì một khu trại
giam nữ.
Vì thế, địa phủ, thực ra chỉ là sự cải tạo, thay đổi từ nhà
ngục trần gian của Trung Quốc đối với thuyết địa ngục của Phật giáo mà thôi. Địa
ngục Thái Sơn quả thật là quá tàn khốc, trong tưởng tượng của tôi, nơi đó có những
lò lửa cao ngất, san sát như rừng rậm, lửa trong lò lúc nào cũng đỏ rực, khói
mù mịt khắp nơi, các linh hồn cứ lần lượt nối đuôi nhau vào trong lò chịu hình
phạt, khắp không gian ngập tràn những tiếng la hét, khóc than đau đớn. Cho nên,
đôi lúc chúng ta cảm nhận được kiểu nhà tập thể này cũng đầy ắp tình người, chỉ
có điều các linh hồn không được tự do mà còn phải chịu sự giáo dục của quan
sai, bị nấu trong lò lửa, đúng như ông A Tolstoy, người từng giành giải thưởng
Stalin đã nói: “Nếu được ngâm trong nước tinh khiết ba lần, tắm trong máu ba lần,
nấu trong nước muối ba lần thì chúng ta sẽ trở nên sạch sẽ đến mức không thể sạch
sẽ hơn được nữa.” Nhưng nàng Lục Thị đã được nấu trong lò lửa nửa năm nay, tính
ra cũng đã hơn một trăm lần mà vẫn không hết được tội nghiệt, nguyên nhân chỉ
là vì trước lúc chết nàng đã quên viết bộ Kim quang minh kinh. Đối với
những tôn giáo tà ma như vậy, chúng ta không tin cũng chẳng sao. Vì thế, dân
chúng vẫn mong muốn để cho những người thân quá cố của mình được sống trong các
ngôi mộ, là ngôi nhà dành riêng cho họ, cho dù như vậy sẽ không có cảnh gia tộc
đoàn viên như trong các câu chuyện.