17. Tiên quỷ thê lương - Phần 04 (HẾT)

Vụ án khép lại, không tìm ra một kẽ hở nào, từ ba cấp quan
phủ, nhân chứng, vật chứng đều đầy đủ cả, lời cung khai của phạm nhân cũng được
lập rất chân thực trong quá trình điều tra, nhưng chính vì câu chuyện quá hoàn
mỹ như thế lại khiến người ta cảm thấy dường như có điều gì đó không ổn. Với tư
cách là một câu chuyện, có lẽ nó cũng đơn thuần như bao câu chuyện khác, không có
gì đáng nói, nhưng nếu đứng ở góc độ một vụ án hình sự làm kinh động đến cả các
nhân vật lãnh đạo trung ương và các cơ quan tư pháp cao nhất, mà lại lấy lời
nói của ma quỷ làm lời khai, hơn nữa, các quan tư pháp từ địa phương đến trung
ương đều dùng lời khai giống hệt nhau, quả là từ cổ chí kim có một không hai.

Nhưng khi hình bộ phán Vương Vạn Lý tội lăng chì, thì Vương
Vạn Lý đã chết “dũ tử” trong ngục từ lâu. Thời xưa, ở chốn quan binh, cách nói
“dũ tử” là một cách nói khá mơ hồ, dùng để chỉ những người chết vì bệnh, chết
vì chịu cực hình, bị mưu sát, tự sát… tóm lại, những kẻ chết trong tù được gọi
chung là “dũ tử”, như thế có thể giúp các cơ quan liên quan giũ bỏ được trách
nhiệm. Vậy bị cáo Vương Vạn Lý đã chết, những chuyện phiên cung, hay kiện tụng
lên cấp cao hơn cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, phán quyết gã thế nào gã cũng chẳng
thể kêu oan được nữa, nên phán quyết được đưa ra có vẻ cũng chẳng tốn bao nhiêu
sức lực. Nhưng các tình tiết trong vụ án này lại bỏ qua một nhân vật vô cùng
quan trọng, trong Vương Bật truyện có viết, phạm nhân không chỉ có một
mình Vương Vạn Lý mà còn có tòng phạm là đứa cháu cùng đi hành nghề với gã tên
Vương Thượng Hiền, nhưng Hiền lại được phán là vô tội và được tha bổng. Hơn nữa,
còn phải kể đến hai kẻ trọng phạm có liên quan đến vụ án (cũng là nhân chứng
quan trọng) là tên họ Lưu và người bạn gã quen ở Quảng Châu, thì trong truyện lại
nói không tìm được, nên đành gác lại tại đây. Phạm nhân đã chết thì bị phán mức
án cao nhất, còn kẻ tòng phạm chưa chết thì lại không nằm trong bản án, quả là
chuyện kỳ lạ hiếm thấy xưa nay!

Đương nhiên chúng ta không thể tìm được những ghi chép chính
xác về tình hình thực tế của vụ án, nhưng Lương Cung Thần, người nhà Thanh có
ghi trong Bắc vông viên bút lục tứ biên một kỳ án khác cũng tương tự như
thế. Lương Cung Thần là một người vô cùng tin vào thuyết nhân quả báo ứng,
nhưng cũng giống như quan lại đương thời, ông không công nhận tà thuật của kẻ
yêu nhân. Vụ án mặc dù xảy ra ở bốn trăm năm sau, nhưng các tình tiết trong vụ
án lại rất giống vụ án ma Trung Thư, so sánh hai vụ án, sẽ thấy nội tình vụ án
ma Trung Thư dần dần được hé lộ.

Sự việc xảy ra vào năm Càn Long thứ bốn mươi mấy, huyện nọ
có một thương nhân (do tác giả không nỡ nêu đích danh người và quê quán, nên
tên người và tên địa danh đều bị giấu đi), nhờ nghề buôn bán mà ngày càng giàu
có. Trong huyện có người tên là Ác Thân muốn hỏi vay tiền, nhưng người thương
nhân nọ không đồng ý, gã bày đủ mọi lý do, muốn vay với lãi suất cao, vay vì có
việc công quan trọng… nhưng cuối cùng đều bị từ chối. Ác Thân hận thương nhân đến
tận xương tủy. Đúng lúc đó, người hầu gái của thương nhân nọ có đứa con gái hai
tuổi chết yểu, Ác Thân liền xui cô ta đến nha môn tố cáo, nói con gái cô ta bị
thương nhân nọ dùng yêu thuật bắt mất linh hồn, nhưng quan huyện không chịu thụ
lý vụ án. Ác Thân lại mê hoặc dân chúng đến công đường tố cáo, còn mình thì cưỡi
ngựa đi khuyên Thái thú chuẩn cáo. Thái thú liền nói rằng: “Yêu thuật này, từ
xưa không hề nói đến, nếu như từ xưa không có thì vụ án này làm sao mà giải quyết
được?” Vậy là vẫn không chuẩn cáo. Ác Thân lại xúi giục người nhà đứa bé kiện
lên quan tỉnh nhưng vẫn không được chuẩn. Lên cả ba cấp tư pháp huyện, phủ, tỉnh
đều bế tắc, Ác Thân vẫn không chịu từ bỏ dã tâm, liền viết thư kể cho Đô Trung
Đương Trục Giả nghe chuyện thương nhân nọ dùng yêu thuật âm phủ, Đương Trục Giả
nhận được thư liền chuyển cho tuần phủ tỉnh xử lý, tuần phủ tỉnh lại sợ lớn
chuyện sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ của mình, cảm thấy một tên thương nhân chịu tội
oan cũng chẳng có gì ghê gớm, liền hạ lệnh bắt thương nhân kia về tra xét. Cũng
như các phạm nhân khác, sau khi bị dùng cực hình, thương nhân buộc phải nhận tội,
vậy là tội chém đầu được cấu thành. Không ngờ, hôm thương nhân bị xử quyết trời
bỗng thay đổi thất thường, nổi cuồng phong, trời đất xám xịt, tất cả mọi người
trong thành đều than rằng: “Ông ta quả là bị chết oan!”

Chưa đến hai ngày, lại có người từ huyện đó đến, nói con
trai của Ác Thân bỗng nhiên phát điên, suốt ngày gào khóc kêu oan cho thương
nhân nọ. Vừa nhìn thấy Ác Thân, đứa con trai liền chỉ tay mắng lớn, vài hôm sau
thì chết. Nghe đồn sau đó, Ác Thân cũng phát điên mà chết. Tuần phủ nghe tin vô
cùng sợ hãi, liền sai ba, bốn người hầu lúc nào cũng đi bên để bảo vệ. Một hôm
tuần phủ và viên tư đạo đang nghị sự, bỗng thấy tuần phủ hét lên rằng: “Kẻ giết
người là Ác Thân, không phải ta, hà cớ chi lại đến kiếm ta?” Viên tư đạo liền
cho người ở bên ngoài xông vào nhà, mời lang y đến cứu chữa, nhưng không được mấy
ngày thì quan tuần phủ chết.

Mặc dù đoạn kết khiến người đọc sảng khoái, nhưng tính chân
thực của nó lại vô cùng đáng ngờ. Trên đời này có bao nhiêu là oan hồn, nếu như
tất cả đều làm như thương nhân nọ có lẽ thiên hạ sẽ đại loạn, nhất là những kẻ
chấp pháp kia sẽ luôn phải đối mặt với sự đe dọa đến tính mạng. Điều đáng tin
là thái độ của các quan tỉnh, huyện, phủ đối với vụ án này. Họ chưa chắc đã
không tin sự tồn tại của yêu thuật, nhưng chỉ nói hồn ma của đứa trẻ bị người
ta cướp đi, những việc như đuổi hình bắt bóng này quả thật không thể coi là chứng
cứ trước pháp luật được. Còn về vụ án của Vương Bật, đưa lên cả đến bộ hình, bộ
hình lại sai người về tra xét, Vương Bật miêu tả chuyện hồn ma hiển linh sinh động
như thật, nhưng khi người của bộ hình tới thì hồn ma lại biến mất. Trong khi
đó, Vương Vạn Lý đã chết dũ tử trong ngục rồi. Những hồn ma với vai trò là nhân
chứng không chịu xuất hiện trước công đường, vậy rõ ràng vụ án này không thể giải
quyết được. May là ở cuối đời Nguyên, quan trường còn đang là một màn đêm đen tối,
vậy nên cả ba cấp quan mới cùng thống nhất đi đến phán quyết xử lăng chì một kẻ
đã chết, kẻ còn sống thì lập tức được thả, nhanh chóng kết thúc một vụ án ngớ
ngẩn.

Cũng giống như nhân vật chính Ác Thân trong “án thái sinh”,
nhân vật chính trong “án ma Trung Thư” trên thực tế chính là Vương Bật. Vụ án từ
đầu đến cuối đều do một mình anh ta thao túng. Ở đời nhà Tống, trong Vương Bật
truyện
, Vương Bật dường như là một người trung trực, chính nghĩa, chuyên
hành y cứu người, nhưng cũng không thể che giấu được thân phận thật của ông ta
là quân sư của Tuyên úy tư, tương đương với chức quan cửu phẩm trong nha môn thời
bấy giờ. Địa vị này giúp ông ta có một tiếng nói nhất định với quan địa phương,
người dân bình thường không ai dám động vào ông ta, nói gì đến một tên thầy bói
lưu lạc giang hồ! Còn nguyên nhân khiến hai người họ xảy ra tranh chấp cũng được
tường thuật chi tiết, tỉ mỉ trong Vương Bật truyện, đó là vì Vương Bật
nghe nói có một thầy bói mới đến mở sạp trên phố liền đặc biệt đến hỏi thăm, kết
quả là xảy ra một cuộc đấu khẩu nảy lửa, vì Vương Vạn Lý không hiểu phép tắc,
không biết nhún nhường nên Vương Bật mới ra uy dạy cho ông ta một bài học, trên
thực tế là muốn phá đám việc làm ăn của ông ta. Chỉ từ câu chuyện tranh chấp
cũng có thể nhìn ra Vương Bật là tên đầu xỏ khó chơi. Nhưng Vương Vạn Lý cũng
không dễ dàng chịu khuất phục, chém luôn uy phong của Vương đại gia, khiến
Vương đại gia nổi giận, bày ra trò ma quỷ để rửa hận. Vương Bật dù sao cũng đã
từng lăn lộn chốn quan trường, ông ta còn tìm được mười nhân chứng đứng về phía
mình, cùng ký tên chứng nhận sự hiển linh của hồn ma Chu Nguyệt Lạp. Mười người
cùng ký tên vào bản cáo trạng, lại thêm mối quan hệ khăng khít với đám nha môn,
đặt thêm vật chứng trong phòng của Vương Vạn Lý, đó chỉ là chuyện nhỏ như lông
hồng mà thôi.

Nhưng cho dù màn kịch này được thiết kế tinh vi đến đâu, tìm
được một trăm người làm chứng, kiếm được đầy một phòng vật chứng nhưng nếu
không có sự hỗ trợ của đám quan sai thì dã tâm của Vương Bật cũng chẳng thể thực
hiện được. Vì thế, từ dã tâm của Vương Bật trong vụ án này cũng đủ để nhận ra bức
tranh chính trị đen tối ở giai đoạn cuối thời Nguyên. Đây cũng là điềm báo sự
thống trị của người Mông Cổ sắp đến hồi kết thúc.

Nhưng điều khiến người ta kinh ngạc không phải vụ án ma từ
giả thành thật, mà là hầu hết thành phần tri thức đương thời đều tin vào những
chuyện ma quỷ này. Như Lý Hảo Văn, bắt đầu là phó hiệu trưởng, tiến sĩ của một
trường đại học công lập, từng làm quan ngự sử giám sát, lập nhiều công lớn
trong việc giải oan cho những người dân vô tội, diệt trừ bọn cường hào ác bá,
cũng bỏ không ít công sức ghi chép lại vụ án “Trung Thư quỷ” thành một tác phẩm
văn học để đời, tăng thêm hiệu quả tuyên truyền trong dân chúng. Những nhân vật
anh tài của cả một thời đại lại có cách nhìn nhận như thế, quả là đáng buồn!
Cho nên đến đầu đời Minh, Vương Bật vẫn được triều đình coi là một kẻ sĩ đắc đạo,
triệu vào Nam Kinh, chỉ đến khi thấy ông ta thật sự không hề có tài điều yêu
khiển quỷ, mới thưởng cho ông ta chiếc áo dài rồi đuổi cổ về quê, thế mới thấy
tác dụng tuyên truyền dưới ngòi bút của các nhà văn lớn.

Đứng trên quan điểm ngày nay, vụ án “Trung Thư quỷ” đích thực
là một vụ án oan, nhưng người bị oan không phải là ba hồn ma kia mà chính là
Vương Vạn Lý - kẻ chết dũ tử trong nhà tù. So với những tác gia như Tống Khiêm,
có lẽ Đào Cửu Thành vẫn được coi là người khá tỉnh táo, nên tác phẩm ông biên
soạn về “Trung Thư quỷ án”, trên thực tế là dùng những văn kiện Nguyên sử đối
chiếu với tiểu thuyết và sử bút Lý Hảo Văn và Tống Khiêm. Nếu như độc giả có hứng
thú có thể tìm đọc Vương Bật truyện đối chiếu với Trung thư quỷ án,
chắc chắn sẽ ngộ ra rất nhiều những điều mê hoặc trong các thể loại ghi chép
truyện ký, hồi ký… Nhân đây cũng xin nói thêm, quyển Văn tập Tống học sĩ
thì hơi khó tìm, nhưng Tử bất ngữ thì ở đâu cũng có. Nhưng qua việc Viên
Tử đem Vương Bật truyện của các học sĩ đời Tống xếp vào đám “lực lượng
ma quái” cũng đủ thấy quan điểm của ông rồi.

Nhắc đến Viên Tử Tài lại khiến người ta liên tưởng ngay đến
Kỷ Hiểu Lam, bởi lẽ đây là hai nhân vật đều rất đáng yêu. Mà Kỷ Hiểu Lam có lần
suýt chút nữa cũng gây ra một vụ án yêu trong đại ngục, nguyên nhân của nó ít
nhiều có liên quan đến Trung thư quỷ án.

Hồi đó Kỷ Hiểu Lam vì mắc lỗi nên bị điều đến Ô Lỗ Mục Tề,
giữ chức quan tứ phẩm làm văn án cho Ôn Phúc đại tướng quân. Ông tuy thân mang
trọng tội, nhưng vẫn không bỏ được kiểu thích khoe khoang thể hiện, mà kẻ văn
nhân đã thích thể hiện thì thế nào cũng gây họa. Đương nhiên, ông sẽ lại lập
công chuộc tội, tìm một tên đen đủi nào đó làm vật thế thân cũng là điều không
quá khó khăn.

Ngày đó, Ô Lỗ Mục Tề có một đạo sĩ bán thuốc trong thành,
dân chúng đồn nhau rằng đạo sĩ này có yêu thuật cao cường, hơn nữa, còn có người
tận mắt chứng kiến trong quán trọ, thấy ông ta mỗi đêm trước khi đi ngủ đều lôi
ra một bình hồ lô nhỏ, dốc ra hai viên gì màu đen, sau đó liền có hai thiếu nữ
hiện ra chung chăn chung gối, đến khi trời sáng thì không thấy đâu nữa. Chuyện
này không hỏi không được, nếu có hỏi thì chắc chắn tên đạo sĩ cũng sẽ không thừa
nhận sự việc. Điều tra thì không có bằng chứng, kẻ làm thì không chịu nhận, người
khác thì không thèm quan tâm để ý, nhưng Kỷ Hiểu Lam là người có học vấn, lại
có trí nhớ tốt nên lập tức nghĩ ra Vương Vạn Lý trong câu chuyện, liền tự nhủ rằng:
“Hai cô gái đó chắc chắn là hai hồn ma được tên đạo sĩ thu phục, chỉ cần cho
tên đạo sĩ đó ăn thịt ngựa tự khắc yêu thuật sẽ bị hóa giải!” (Kỷ Hiểu Lam quá
tự tin vào trí nhớ của mình, thực tế trong truyện viết là phải ăn thịt bò mới
hóa giải được yêu thuật), vừa đúng lúc một con ngựa trong doanh trại bị chết, Kỷ
Hiểu Lam liền sai chân tay đến tìm chủ quán trọ, bảo ông ta hỏi đạo sĩ rằng:
“Quán tôi đây đang có một ít thịt ngựa, không biết khách quan có nhã hứng thưởng
thức hay không?” Không ngờ tay đạo sĩ lắc đầu nói: “Thịt ngựa ta không ăn!” Ông
chủ quán lập tức báo cho Kỷ Hiểu Lam biết, lại càng khiến cho Kỷ Hiểu Lam nảy
sinh nghi ngờ. Không ăn thịt ngựa bởi trong lòng đang có trò mờ ám, nếu không
có điều gì mờ ám, tại sao lại không ăn thịt ngựa? Những suy luận kỳ quặc kiểu
như thế lại càng làm cho Kỷ Hiểu Lam tin vào lời đồn, trong lòng cảm thấy tay đạo
sĩ này chắc chắn là một yêu nhân, liền quyết định ra mặt giải quyết ông ta.

May mà có một người cộng sự tốt tên là Trần Đề Kiều, thấy Kỷ
Hiểu Lam sắp gây họa, liền nói: “Tên đạo sĩ đó dẫn con gái về, ngươi có tận mắt
nhìn thấy không? Hắn ta không ăn thịt ngựa, ngươi cũng không hề nhìn thấy. Chuyện
của Chu Nguyệt Lạp là chuyện trong tiểu thuyết của Đào Cửu Thành, ai biết là thật
hay giả. Hơn nữa, cứ nói thịt ngựa có thể phá giải được yêu pháp nhưng cũng
không ai biết nó có linh nghiệm thật hay không. Ngươi lại đi tin vào những tin
đồn vô căn cứ, thật là không biết phân biệt thị phi.” “Vậy việc này phải làm thế
nào?” “Việc này không nên làm kinh động quá nhiều người, chỉ cần cho bọn quan
phủ tra khảo rồi đuổi tên đạo sĩ đó ra khỏi thành, tôi thấy như thế cũng đủ rồi.”
Kỷ Hiểu Lam lúc này mới từ bỏ ý định diệt tên đạo sĩ để lập công chuộc tội.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Việc đó sau này đến tai đại tướng quân Ôn Phúc, ông liền nói
với Trần Đề Kiều và Kỷ Hiểu Lam rằng: “Kỷ Hiểu Lam xử lý việc này quả thật là
hơi quá đáng. Nếu tên đạo sĩ đó bị cực hình ép vào bước đường cùng, ăn nói bậy
bạ, khai bừa một vụ án khác, vậy thì sự việc sẽ vô cùng nghiêm trọng, không thể
không trị, mà trị thì lại không có chứng cứ, không thể trị tận gốc, lúc đó
chúng ta phải làm thế nào? Còn Trần Đề Kiều nói đuổi hắn ta ra khỏi thành lại
càng “bất cập”. Nếu hắn ta lại chạy sang đất khác gây chuyện thị phi, nói rằng
đã sống trên đất Ô Lỗ Mục Kỳ đã lâu, thì chúng ta chắc không tránh khỏi trách
nhiệm. Đối với những kẻ có hành tung khả nghi, phải khám xét cẩn thận, tìm ra
chứng cứ rồi mới giao cho quan phủ xử lý được, nếu khám xét không thấy chứng cứ
thì áp giải hắn trở về quê hương, tránh mê hoặc dân chúng, các người thấy cách
này có phải là tốt hơn không?” Hai người nghe xong đều khâm phục tướng quân sát
đất.

Đối với những kẻ có hành tung khả nghi thì đương nhiên cần
phải khám xét, nhưng nếu khám mà không thấy có chứng cứ gì thì dựa vào cái gì
mà áp giải người ta về quê cũ? Những lý luận này tốt nhất không nên bàn nhiều ở
đây, người ta không dẫn anh về nha môn cho một trận đòn nhừ tử đã là khá lắm rồi.
Kỷ tiên sinh quá nghiêng về cánh tả, Trần tiên sinh lại quá thiên về cánh hữu,
nói chung, những kẻ làm quan trước tiên phải lo giữ thân và củng cố địa vị trước
đã, như vậy, có thể nói, dù sao đi nữa cách giải quyết của Ôn Phúc cũng là cách
xử lý thỏa đáng nhất.

Khổng Phi Lực trong Gọi hồn cũng có nhắc đến vụ án “cắt
tóc thu hồn”, đại khái chuyện này xảy ra không bao lâu, kiến thức của đại học
sĩ Kỷ Hiểu Lam so với đám ngu dân đòi bắt hòa thượng Bả Du Phương vì tưởng lầm
ông là yêu nhân hóa ra cũng có điểm tương đồng. Vậy thì đám quan lại trong phủ
huyện mà Lương Cung Thần kể trong “án thải sinh” liệu có được xem là cao minh
hơn Kỷ Hiểu Lam không? Chỉ có điều “án thải sinh” xảy ra sau “án gọi hồn” hơn
mười năm, làm kinh động đến cả Vạn Tuế gia, các quan dưới không thể không thụ
lý và tuần phủ nọ vì có công văn ép xuống của “Đương Trục Giả” mới thụ lý vụ
án, sau đó lại ra một bản án xử trảm “siêu tốc”, thực ra mỗi người bọn họ đều
có những mẹo làm quan riêng của mình, chẳng qua về điểm này thì họ cao minh hơn
Kỷ đại học sĩ mà thôi.

Nhưng cũng có một khả năng khác, ấy là Kỷ Hiểu Lam chỉ là
đang cố ý giảo hoạt, trong đoạn ký sự trên cố ý dành cho mình vai diễn một con
chim ngu ngốc để đề cao sự anh minh của Ôn Phúc mà thôi.

Thực
hiện bởi​

nhóm
Biên tập viên Gác Sách

Sienna
- Nhocmuavn

(Duyệt
– Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3