Bố già trở lại - Phần II - Chương 03 - Phần 1
PHẦN II
Tháng chín 1955
Chương 3
Bốn tháng sau, vào một sáng sớm chủ nhật trùng với Lễ Lao
động, Michael Corleone nằm trong giường nhà mình ở Las Vegas, vợ chàng nằm bên
cạnh, hai đứa con ngay ở cuối phòng, đều có vẻ còn ngủ say. Hôm qua ở Detroit,
vào dịp đám cưới ái nữ của ông bạn thân nhất của người cha quá cố, Michael đã
chỉ gật đầu rất nhẹ về phía Sal Narducci, một người mà ông chỉ biết sơ qua, để
khởi động một kế hoạch được thiết kế nhằm hủy diệt mọi đối thủ đáng gờm mà Gia
đình Corleone còn phải đương đầu. Dầu cho có phải “đại khai sát giới” nhưng nếu
kế hoạch vận hành trơn tru, Michael sẽ nổi lên mà không có lời chê bai nào. Nếu
được thực hiện chỉn chu, kế hoạch này sẽ mang lại hòa bình lâu dài cho thế giới
ngầm ở Hoa Kỳ, và chiến thắng sau cùng - dầu cho có đẫm gió tanh mưa máu - để
làm cho Gia đình Corleone “vạn niên trường trị, nhất thống giang hồ”, đang nằm
trong tầm tay. Một thoáng nụ cười lướt nhẹ qua khuôn mặt đã được chỉnh sửa bằng
phẫu thuật của Michael Corleone. Hơi thở chàng đều và sâu. Đầu óc chàng không
vậm động, không nao núng, cũng chẳng ưu tư xao xuyến gì, trầm mình trong không
khí mát lạnh của căn nhà mới, thụ hưởng giấc ngủ êm đềm của người... công
chính! Ngoài kia, ngay cả trong ánh sáng ban mai còn nhạt nhòa, sa mạc Nevada đã bắt đầu nóng
nung lên.
Gần bên bờ đầy dầu của con sông Detroit, hai con người chậm
chạp mặc sơ-mi lụa ngắn tay - một người áo màu ngọc xanh biển, người kia áo màu
cam đỏ tươi - đi ra từ căn chòi khách của một bất động sản thuộc về Joe
Zaluchi, Ông Trùm của Detroit, con người đã từng cứu cho thành phố này khỏi bạo
lực vô lối của Băng đảng Màu Tím (Purple Gang). Người mặc áo màu cam là Frank
Falcone, trước đây ở Chicago và hiện nay là đầu
sỏ của tội ác có tổ chức ở Los Angeles.
Còn kẻ mặc áo lụa màu ngọc xanh biển là Tony Molinari, đối tác của tay kia ở San Francisco. Đằng sau
họ, hai người mặc áo khoác đi theo, mỗi người xách hai chiếc va li, mỗi chiếc
đựng, trong số những đồ vật khác, một chiếc áo tuxedo (giống áo jacket) mặc vào
dịp lễ cưới tối qua giữa hai nhà Clemenza và Zaluchi. Mặt nước đầy cá chết. Từ
trong ga-ra, môt chiếc limousine chạy trờ đến để đón họ. Khi chiếc limo vọt ra
đường phố, một xe cảnh sát chạy theo sau. Tay
cớm này lãnh lương của Zaluchi.
Tại Sân bay Thành phố Detroit,
họ quẹo xuống một con đường nhánh và lái xe dọc theo một tường rào cho đến khi
tới một cái cổng ghi chữ CHỈ XE KHẨN CẤP THÔI. Chiếc xe cảnh sát dừng lại.
Chiếc limo tiếp tục chạy thẳng vào đường nhựa. Hai người mặt đồ lụa bước ra,
hút cà phê từ mấy cái li giấy. Các vệ sĩ của họ luyện mấy thế Karate.
Một chiếc máy bay lăn bánh về phía họ mang logo của một hãng
đóng gói thực phẩm mà Michael Corleone có cổ phần ngầm nhưng kiểm soát. Logo
mang hình mặt nghiêng của một sư tử. Tên trên giấy khai sinh của phi công là
Fausto Dominick Geraci Jr., nhưng giấy đăng kí gắn nơi kính chiếu hậu lại ghi
tên “Gerald O’Malley”. Kế hoạch bay vẫn để trống. Geraci có tay trong ở tháp
kiểm soát không lưu. Tại mọi sân bay trên khắp nước Mỹ, Geraci được quyền sử
dụng những máy bay mà trên giấy tờ không thuộc về chàng ta.
Dưới ghế ngồi của phi công là một bao đầy tiền mặt. Những
đám mây báo bão phủ đầy bầu trời phía tây.
Bên kia dòng sông, cửa vào phòng 14 của Lữ quán Happy
Wanderer mở ra. Ngồi trong đó là Fredo Corleone, người anh em mới được bổ nhiệm
sotto capo của Michael. Anh ta đang nhìn ra hướng đến chỗ đậu xe.
Anh ta không thấy có ai lảng vảng quanh đó. Anh ta chờ một chiếc xe cà tàng đổ
xịch lại, phát ra tiếng xình xịch đủ to để đánh thức một người dậy. Fredo chợt
nhận ra có gì nổi lên trên giường đằng sau anh, nhưng điều cuối cùng mà anh ta
sắp làm là quay nhìn lại phía sau.
Cuối cùng, thấy đã đến lúc an toàn, không có nguy cơ bị phát
hiện, Fredo kéo chiếc mũ chóp bằng vành cong sụp xuống tận mắt, khép cánh cửa
lại đằng sau mình và chạy nhanh đến góc phố, xuống một con đê, băng qua một rạp
hát đầy những li giấy uống nước và những bịch đựng bắp rang vứt ngổn ngang.
Những bịch đựng bắp được trang trí bằng hình anh hề mập mặt đồ màu xanh, đầu
tóc dựng đứng, mặt méo mó thành những nụ cười ranh mãnh, tinh quái. Chiếc mũ
không phải của chàng. Có lẽ nó thuộc về anh chàng trong phòng nọ hoặc là đến từ
một trong những nơi dừng chân của Fredo tối qua. Và cũng có thể nó thuộc về một
trong những cận vệ của chàng. Bọn họ là những người mới, còn xa lạ với chàng.
Đầu óc chàng chao đảo. Chàng vỗ vào mọi túi áo, túi quần. Chàng đã bỏ lại thuốc
lá trong phòng. Và cả bật lửa nữa. Chiếc bật lửa là một quà tặng từ Mike, được
cẩn đá quý, xuất xứ từ Milan, và được chạm dòng chữ CHRISTMAS 1954, nhưng không
ghi tên ai, dĩ nhiên rồi. Đừng bao giờ lưu lại tên bạn trên bất kì thứ gì, ông
via của chàng ngày xưa vẫn thường dặn dò như thế. Trong lúc nghĩ lan man như
vậy, Fredo vẫn không ngừng sải bước. Thôi bỏ đi, kệ mẹ nó. Chàng ta nhảy qua
một rãnh nước đầy bùn sình và chạy lúp xúp qua chỗ đậu xe của một tòa nhà cao tầng
gồm nhiều căn hộ. Chàng đã giấu chiếc xe Lincoln
mà Zaluchi cho chàng mượn khuất sau một lò thiêu rác. Chiếc áo khoác của chàng
quấn lại nơi ghế ngồi đằng sau cùng với một cái sơ-mi bằng sa-tanh màu vàng
không phải của chàng và một chai whisky. Món này thì đúng là của chàng.
Chàng bước vào. Chàng vớ chai whisky, tợp mấy ngụm rồi ném
chai rượu lên ghế hành khách kế bên. Có lẽ, chàng nghĩ, đã
đến lúc nên uống rượu tiêu sầu rồi đây. Và còn điều kia nữa. Ôi lạy
Chúa! Do đâu mà một chuyện bạn rất muốn làm như thế lại có vẻ kinh tởm đến thế
ngay sau khi bạn mới vừa làm xong chuyện đó? Chàng cũng sẽ rũ sạch chuyện đó.
Khá dễ dàng để bắt đầu hôm nay, về nhà ở Las Vegas, nơi chàng nổi tiếng là con
người đào hoa, nịnh đầm rất khéo, đốn các em ngã như rạ, nơi mà thành phố quá
nhỏ khiến chàng không thể có được điều kia. Chàng rồ ga và lái xe đi như thể
chàng là một ông già ngoan đạo người Canada trên đường đi lễ nhà thờ.
Mặc dầu tại một chỗ đèn dừng chàng đã với chai whisky và làm một hơi cạn sạch.
Chàng nhấn hết ga và tăng tốc, chạy như bay đến Vega. Trời bắt đầu mưa. Chỉ khi
bật cần gạt nước chàng mới nhận thấy có một tờ giấy nơi cửa ghế hành khách, có
lẽ là một tờ bướm hay thứ gì đại loại như vậy.
Trở lại với bóng tối của phòng 14 Lữ quán Happy Wanderer,
anh chàng trần truồng trên giường thức giấc. Anh ta là một nhân viên mại vụ
cung cấp cho các nhà hàng khách sạn từ Dearborn,
có vợ, hai con. Anh ta dời chiếc gối ôm khỏi đũng quần và đứng lên. Anh ta ngửi
các đầu ngón tay. Anh ta dụi mắt. “Troy?” anh ta lên tiếng gọi. “Này, Troy? Ối dào, cái gì thế
này. Không làm lại nữa hả, Troy?
Rồi anh ta thấy cái bật lửa. Anh ta thấy khẩu súng của Troy. Đó là một khẩu Colt 45. Anh chàng trần
truồng này trước nay chưa từng đụng đến một khẩu súng thực bao giờ. Anh ta ngồi
lại xuống giường. Anh ta thấy kiệt sức. Anh ta bị tiểu đường. Ở nơi nào đó hẳn
là phải có những quả cam. Anh ta nhớ lại Troy
đã cho người pha chế rượu 50 đô la để đi vào bếp và lấy ra một giỏ cam. Anh ta
đã ăn hết ba quả cam ngay tại quầy ba, trong khi Troy
đi đến cửa chính và nhìn ra ngoài phố chờ cho đến khi anh ta ăn xong và các vỏ
cam được dọn đi. Anh ta không thể nhớ lại điều gì đã xảy ra cho phần còn lại
của giỏ cam.
Tim anh ta thót lại và mồ hôi túa ra. Anh gọi điện cho phòng
tiếp tân và yêu cầu phục vụ buồng. “Ông nghĩ ông đang ở đâu?”, nhân viên tiếp
tân hỏi. “Khách sạn Ritz hả?” Câu hỏi hay đấy. Mình đang ở đâu nhỉ? Anh
ta muốn hỏi, nhưng trước tiên anh ta phải làm điều gì đó về số tiền của mình.
Có đồ ăn thức uống gì không? Anh ta hỏi. Một máy bán hàng hay cái gì đó? Dầu
sao anh ta có thể bảo nhân viên tiếp tân mang vào cho mình, ít ra là một miếng
bánh, chẳng hạn thế? “Bộ chân ông gãy rồi sao?” anh chàng tiếp tân hỏi móc.
Người bán hàng nói rằng mình sẽ trả năm đô để có một miếng bánh giao tận phòng.
Anh chàng tiếp tân nói anh ta sẽ đến ngay.
Người bán hàng cần gọi vợ mình. Chuyện này từng xảy ra trước
đây. Anh ta đã nói rằng đó là với một cô thư kí. Anh ta đã hứa với vợ sẽ không
tái phạm. Anh ta bắt đầu quay số rồi nhận ra rằng mình cần đến nhân viên
tiếp tân để tiếp cận đường dây gọi ra ngoài. Nhân viên tiếp tân hẳn đã đi ra
ngoài để mua bánh.
Anh chàng này có một việc làm tốt, vợ hiền con ngoan, nhà
cửa tươm tất. Anh ta lại mới được kết nạp vào Phù luân hội. Vậy mà anh ta lại ở
đây, sau một đêm bù khú với mấy thành phần bất hảo đường phố, làm những
chuyện ấy, rồi thức dậy vào một buổi sáng chủ nhật trong một nơi
chốn như thế này đây.
Anh ta lại ngồi dậy đi tìm mấy quả cam. Thật không may. Anh
ta thấy quần của mình nhưng lại không thấy cái áo sơ-mi màu vàng của mình ở
đâu. Anh ta cũng không thể tìm ra cái mũ chóp bằng vành cong lên của mình. Anh
ta không nhớ tên cái quán rượu nhếch nhác nơi mình đã để lại chiếc xe. Anh
ta sẽ phải kêu taxi về nhà, không có áo sơ-mi, rồi nhờ vợ lái xe đưa mình chạy
lòng vòng mấy khu láng giềng lụp xụp đi tìm chiếc xe bỏ quên ở nơi nào không
nhớ. Có khác nào mò kim đáy bể. Thế thì mua một chiếc xe mới có lẽ là dễ hơn.
Anh ta chộp lấy khẩu súng.
Khẩu Colt nặng hơn anh ta tưởng. Anh ta vuốt ngón tay dọc
theo nòng súng. Anh ta há miệng. Anh ta để mũi súng lên lưỡi mình và giữ yên ở
đó.
Anh ta nghe tiếng rít hãm lại của các bánh xe ở bên ngoài.
Đó là một chiếc xe lớn, anh ta có thể khẳng định như thế từ âm thanh của cửa xe
đóng sầm lại. Hẳn là Troy.
Trở lại vì anh ta. Rồi cửa xe thứ nhì đóng lại.
Hai người.
Họ đều đến từ Chicago.
Nhưng họ không đến vì anh ta, mặc dầu anh chàng trần truồng kia không biết điều
đó. Họ đã theo dõi anh ta từ nhiều giờ rồi, điều này anh ta cũng không hề biết.
Anh chàng trần truồng kéo khẩu Colt ra khỏi mồm, đứng lên và chĩa mũi súng vào
cánh cửa. “Hẹn gặp nhau ở Địa ngục!” anh ta thì thầm. Anh đã nghe ai đó nói câu
đó trong phim. Anh ta chẳng phải là một tên côn đồ hung bạo, nhưng với mấy ngón
tay nắm vòng báng súng cẩn ngọc trai của khẩu súng sáu kia anh ta thấy thích mê
nó.
Ở Hollywood, Florida, dưới chỗ đậu xe của ngôi nhà màu san
hô, nơi cô gái đã sống từ khi cha cô, Sonny, chết vì tai nạn xe cộ (cô chẳng có
lí do nào để tin bất kì điều gì khác hơn là những gì mà người thân đã nói cho
cô), Francesca Corleone nhấn còi xe của mẹ cô liên tục cả mười giây. “Dừng đi”,
Kathy, chị em sinh đôi của cô nói, vừa bò qua chỗ ngồi phía sau, đang đọc một
quyển tiểu thuyết Pháp trong nguyên tác. Kathy đang hướng tới Đại học Barnard.
Cô muốn trở thành bác sĩ giải phẫu. Francesca đang đến bang Florida,
thủ phủ Tallahassee,
với mong muốn cháy bỏng là thoát ra khỏi nhà để sống tự lập và tự chủ. Mặc dầu
với mọi chuyện khủng khiếp đang diễn ra ở New York và làm thế nào mà khía cạnh
đó của gia đình đã khiến cho tên tuổi gia đình cô phơi đầy trên các tờ báo, cho
dầu tất cả có toàn là dối trá đi nữa, thì lúc này chẳng phải là thời điểm thuận
lợi nhất để bắt đầu một cuộc sống mới. Kathy lại muốn vào đại học ở New York, một phần là để
được gần mọi người trong gia đình ở đó. Giờ đây, dĩ nhiên, mọi người đã chuyển
đi xa, trừ bà nội Carmela và cô Connie đáng sợ. Bề ngoài thì có vẻ như chú
Carlo đơn giản là đã biến đi - một trong những anh chàng đi ra ngoài mua gói
thuốc và chẳng hề quay lại: xử sự như thế quả là quá tệ, cho dầu với một con
người đáng tởm như chú ấy, nhưng Francesca phải thừa nhận rằng bất kì ai lấy cô
Connie cũng phải xem xét cẩn thận chuyện ấy. Kathy, đặc biệt là khi lên New
York, có lẽ hàng ngày sẽ bị hạch hỏi, ngay cả bởi thầy cô của mình, rằng cô có
liên hệ gì không với mấy ông găng-x-tơ nổi tiếng như cồn của nhà Corleones đó.
Nếu mấy tháng vừa qua ở Hollywood không có chỉ định nào, Francesca có lẽ cũng
phải chuẩn bị tinh thần cho chuyện này, ngay cả ở Tallahassee.
Mẹ cô, một bà đanh đá ưa kiểm soát chặt, đang lái xe chở cả
hai cô con gái. Cầm lái! Đi New York! Tạ ơn Trời, Francesca sẽ xuống xe
trước tiên. Cô lại bấm còi.
“Làm phiền quá!” Kathy càu nhàu.
“Làm như cô em đang thực sự đọc quyển sách đó vậy.”
Kathy trả lời bằng tiếng Pháp, chẳng biết có chuẩn không hay
là tiếng Tây... giả cầy.
Francesca chưa học ngoại ngữ nào và dự định tránh né vấn đề
bằng cách chọn tiếng Ý - mà thực ra cô ta cũng chỉ biết rất lơ mơ - hoặc định
chọn ngành nào không đòi hỏi ngoại ngữ. “Chúng là là người gốcÝ”, Francesca
nói.“Vậy tại sao em không học tiếng Ý?”
“Sei una fregna per sicuro” Kathy trả lời.
“Nhanh mồm nhạy miệng đấy!”
Kathy nhún vai.
“Cô em có thể chửi thề bằng tiếng Ý”, Francesca nói mỉa,
“nhưng cô em lại không đọc được tiếng Ý.”
“Tôi chẳng đọc được gì trừ phi cô làm ơn câm miệng giùm.”
Mẹ của chúng ở cửa kế bên nơi nhà của ông bà nội, và đã ở đó
từ rất lâu đưa ra những khuyến cáo vào phút cuối về chuyện ăn ở, học hành cho
hai cậu em của Francesca và Kathy là Frank, mười lăm tuổi và Chip, mười tuổi.
Tên thực của Chip là Santino Jr. và cho đến khi cậu bé trở về nhà sau buổi tập
bóng chày vào một ngày của mùa hè này và thông báo rằng từ nay cậu ta sẽ chỉ
trả lời khi ai gọi “Chip”, thì cậu được gọi bằng cái tên “Tino”. Francesca có
thể cũng sẽ làm như thế. Cô có thể vào đại học và lấy tên khác. Fran
Collins, Franny Taylor, Frances Wilson, thí dụ thế. Cô có thể nhưng cô sẽ
không làm như vậy. Họ đã Mỹ hóa cách phát âm từ Cor-le-o-nay thành Cor-lee-own rồi,
và như thế là đã thay đổi đủ rồi. Cô gái tự hào về tên họ mình, tự hào là người
Ý. Cô tự hào là bố mình từng nổi loạn chống lại ông bố và những người anh em
găng-x-tơ của mình và đã trở thành một doanh nhân hợp pháp. Dầu sao thì tên của
Francesca cũng sẽ thay đổi vào đúng thời điểm, khi cô tìm được tấm chồng ưng ý.
Francesca lại nhấn còi xe. Có chuyện gì mà ở trong đó lâu
thế? Nonna và Poppa sẽ lờ đi mọi lời mà mẹ Franscesca nói. Những tay đó bỏ đi
xa với vụ giết người, nhất là Frankie, nhất là một khi trận đấu bắt đầu.
Francesca lại nhấn còi một lần nữa. Kathy càu nhàu: “Đừng làm mọi chuyện thêm
rối, được không?” và Francesca giọng chịu đựng: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.”
Kathy thở dài, theo kiểu chỉ một cô gái Mỹ mới có thể thở dài như thế. Một lát
sau, cô dịu dàng mân mê đuôi tóc của Francesca. Hai chị em sinh đôi này suốt
mười tám năm qua chưa từng có một đêm ngủ riêng.
Khách sạn và Casino “Lâu Đài Trên Cát” của Hal Mitchell
không lúc nào đóng cửa. Trong những ngày này Johnny Fontane cũng bận rộn không
ngừng, mỗi ngày hai sô và còn dành thời gian bù khú với những người thân thiết
và cặp kè sát bên là hai em gà quốc tế loại chiến trông rất mướt. Một em là gà
mái “gô-loa” tóc vàng từ Pháp sang chuyên nhảy “cuổng trời” theo giai điệu Tabu
huyền bí, man rợ và mê hoặc của rừng thẳm Phi châu, từng xuất hiện trong một phim
của Mickey Rooney quay ở đây năm rồi, bộ phim mà trong đó Mickey đóng vai người
thăm dò khoáng sản trong sa mạc và rồi có một vụ thử bom khiến anh ta lãnh một
liều lượng phóng xạ nhiều đến độ làm cho bất kì cái máy đánh bạc nào mà anh ta
chạm đến cũng nhả tiền ra. Thế mà không có cảnh nào mà những tay đầu gấu “nựng”
cho anh chàng này phải té đái vãi phân cả. Chuyện vô lí lãng xẹt như vậy mà
thiên hạ vẫn khoái coi, kì thiệt! Nhưng nghĩ cho kĩ thì cũng chẳng có chi lạ.
Vì chuyện phim này đã gãi ngứa đúng chỗ vào cái máu tham của con người luôn ao
ước có được những đồng tiền dễ kiếm. Đơn giản là thế. Còn em kia là một nàng
tóc nâu trông rất ngon xơi với đôi môi mọng bóng láng và ướt át, đôi mắt lẳng
cực kì và nụ cười mời gọi mây mưa. Khi chàng Johnny mở lời, rất lịch sự tao
nhã, hỏi xem có em nào cảm thấy có vấn đề khi lên giường không - Sao cơ? Cả ba
chúng ta? - thì các em cười rúc rích và bắt đầu màn thoát y, sinh động và nhiệt
tình. Em tóc nâu, tên là Eve, tỏ ra có năng khiếu nhạy bén về chuyện đó, biết
chính xác khi nào thì đến lượt em tóc vàng mút cu cho anh Johnny (khi thấy kích
cỡ của chú nhóc, cô nàng cười nhăn nhở và thì thầm, “Ối chà, đã quá!”) hay khi
nào thì đến lượt em làm chuyện đó bên suối nước phun ở giữa phòng trong khi em
tóc vàng dùng lưỡi xoa mông chàng. Eve biết lựa đúng thời điểm đẩy Johnny nằm
ngửa xuống và thu xếp cho em tóc vàng bập vào cần số chàng còn nàng bắt đầu vê
các đầu vú của em tóc vàng và hôn nàng ta. Cảnh tượng này kích thích mạnh
Johnny khiến chàng ta phóng ra ào ạt trong cơn cực khoái. Đó là một món quà của
lòng ưu ái để tặng cho thần tượng. Nàng tóc vàng, tên Rita (gọi tắt của
Marguerite); chàng không bao giờ quên tên các em vào sáng hôm sau - vẫn còn nằm
ngủ ở đó, khi chàng rời phòng để lên hồ bơi trên sân thượng. Chàng ném chiếc áo
khoác ra và nhảy xuống phía sâu của hồ. Khi cú sốc qua đi, chàng lặn sâu trở
lại, giữ hơi thở và đếm đến hai trăm theo nhịp năm, mười, mười lăm, hai mươi...
Đầu chàng đập thình thịch, mà không phải vì ở sâu dưới
nước. Chàng cũng không uống nhiều như người ta nghĩ. Bí quyết? Đi từ bàn
này đến bàn kia, tụ này đến tụ khác, để lại những li uống nửa chừng, mà không
ai nhận ra, trong khi đồng thời nhận mọi li mời, điều mà mọi người đều thấy.
Bất kì tay bợm rượu háo thắng nào muốn đọ sức li chọi li với chàng ta đều lãnh
hậu quả là đổ gục nơi ghế sau taxi và được gởi về nhà, do sự ưu ái của Johnny
Fontane! Chàng kiểm soát được việc nạp tửu lượng của mình. Chàng kiểm soát được
việc mình làm và làm điều gì với ai.
Chàng trồi lên mặt nước. Chàng bơi mấy sải để khởi động, rồi
hít vào một hơi dài và lặn xuống trở lại. Chàng lặp lại bài tập luyện này
ba lần nữa và ra khỏi hồ nước. Ở đầu kia của mái che có một bảng thông báo: HÃY
CHỨNG KIẾN TẬN MẮT! NHÌN THẤY RÕ BOM NGUYÊN TỬ NỔ TỪ LAS VEGAS! Bên dưới bức tranh
một đám mây hình nấm màu cam đỏ tía, là thời điểm, bằng những con chữ chuyển
động, ghi sáng ngày mai. Sáng sớm ngày mai. Johnny đã nghe là
họ sắp xây một quán bar, một chỗ bán buffet điểm tâm với một loại bánh mì được
đặt tên là Hoa Hậu Bom Nguyên Tử. Những ai sẽ chịu khó dậy thật sớm vào lúc
rạng đông để nhìn xem một quả bom nổ cách đó sáu mươi dặm? Có lẽ là những kẻ
nghĩ rằng nhờ đó mình sẽ sáng rực lên và điều khiển được những cái máy đánh bạc
phải ói tiền ra cho mình tha hồ xài thỏa thích! Người ta muốn trả tiền để nhìn
bom nguyên tử nổ, họ phải đi xem bộ phim mới rồi của Johnny. Chàng túm lấy
chiếc áo khoác, bước xuống cầu thang hai bậc mỗi bước để trở vế phòng.

