Ma thổi đèn (Tập 7) - Chương 01

CHƯƠNG
1

LƯU
LI XƯỞNG

Con người ta sống ở trên đời, phúc họa an nguy hay
bi hoan li hợp đều do số trời định đoạt, đâu phải bản thân mình muốn là được?
Nhận lời ủy thác của Giáo sư Trần, tôi và Shirley Dương tổ chức một đội trục vớt
đi tới chỗ con tàu đắm ở vực xoáy San Hô mò tìm món quốc bảo Tần Vương Chiếu Cốt
kính. Nhờ sự giúp đỡ của dân mò ngọc vùng Nam Hải, chúng tôi mới thoát chết,
coi như không phụ sự ủy thác, mang được tấm gương cổ trở về.

Nào ngờ, một trong những người giúp đỡ chúng tôi là
Đa Linh lại trúng phải tà thuật Giáng đầu trong con tàu đắm. Thật đúng là “còn
chút hơi tàn nghìn tác dụng, một khi hơi đứt vạn sự buông,” xem ra khó lòng cứu
chữa. May thay có người mách rằng: Thuật thi giáng ấy làm tiêu hao sinh khí của
người sống, chỉ có “nội gia nhục đơn” trong cổ mộ mới cứu được. Nội đơn chính
là kim đơn do những người đắc đạo mượn linh khí của trời đất luyện thành. Xưa
nay, có bao người đi tu tiên học đạo, nhưng kẻ học được phép luyện ra nội đơn
thực hiếm như long phượng sừng lân, tuyệt đối không phải hạng tầm thường có thể
tìm được. Giáo sư Trần cũng nghe nói loáng thoáng về chuyện trong một ngôi mộ cổ
nào đó ở Hồ Nam có giấu nội đơn, may ra có thể tìm được nội đơn ỏ đó, có điều
không biết ngôi mộ ấy đã bị đào trộm hay chưa. Giáo sư Trần nhắc tới chuyện ấy
làm tôi sực nhớ tới lão thầy bói mù mất tích ở Bắc Kinh, lão ta từng là thủ
lĩnh của một băng trộm mộ Xả Lĩnh, đã vào đổ đấu quật mộ ở Tương Tây, nhất định
có biết chút manh mối gì đó. Nói không chừng, Tử Kim nội đơn kết tinh bên trong
cỗ cương thi thời Nguyên được người đời gọi là Thi Vương Tương Tây đã rơi vào
tay lão mù ấy rồi cũng lên. Về tới Bắc Kinh, dù đào sâu ba thước đất cũng phải
tìm bằng được lão thầy bói mù ấy, quyết tra ra tung tích của nội đơn,

Những năm Dân Quốc, các thế lực quân phiệt và thổ phỉ
Tương Tây tổ chức khai quật mộ cổ trên diện rộng, sinh ra nhiều chuyện kì quái
rợn người, trong đó nổi tiếng nhất là câu chuyện về cổ thi của một vị tướng nhà
Nguyên ở Tương Tây, đến giờ vẫn còn rất nhiều tin đồn liên quan đến vụ việc
này. Hồi tôi còn buôn bán ở Phan Gia Viên cũng có nghe mấy người khách thường
xuyên qua lại thu mua đồ cổ giữa vùng Hồ Nam và Quế Châu nhắc đến.

Những lời đồn đều nói ngôi mộ cổ bị đào ở Tương Tây
thời trước Giải phóng có địa cung to lớn, hình thế kì quái, cạm bẫy hiểm hóc,
trong mộ chứa báu vật, lại có cả thi biến kinh hồn… Vô số ngón nghề mà kẻ trộm
mộ đã giở ra để mở cửa địa cung cho đến bây giờ vẫn tuyệt đối là hành động
khoáng cổ tuyệt kim, để lại cho bao lời đồn đại, thiên hạ không ai biết.

Nhưng đa số những lời đó đều là “tin tức vỉa hè,”
xung quanh sự kiện đáng sợ trong giới trộm mộ này, mọi người cũng chỉ nghe nói,
mỗi người lại kể theo một kiểu chẳng ai giống ai. Dẫu sao thì thời gian đã lâu,
lại không tận mắt chứng kiến, chưa chắc là thật. Duy có lão thầy bói mù họ Trần
khi ấy đang làm thủ lĩnh trộm mộ ở Tương Tây là đã tận mắt nhìn thấy thi thể vị
tướng nhà Nguyên.

Trong vấn đề này, Shirley Dương lại rất lạc quan, cô
nói với tôi: “Mạng của Đa Linh có giữ được hay không đều nhờ cả vào nội đơn
trong cái xác cổ đó, vừa khéo chúng ta lại quen với lão Trần từng trộm mộ nội
đơn ở Trương Tây. Nếu như đây không phải bằng chứng về sự tồn tại của Thượng đế
thì tôi thật không biết nên gọi là gì nữa.”

Với tôi Thượng đế có tồn tại hay không còn chưa biết
được, nhưng trước khi chết, sư phụ Nguyên Hắc của Đa Linh có nhờ tôi tìm giúp
con bé ông bố người Pháp đã thất lạc. Nay ở vực xoáy San Hô điều tra mới biết
tay người Pháp ấy chính là một phú thương buôn bán cổ vật, đã cùng với tàu
Mariana vùi thây nơi đáy biển, xem ra việc này không thể làm xong rồi. Có điều,
dù khó khăn đến mấy tôi cũng sẽ dốc hết toàn lực, tìm cách giữ lại mạng sống
cho Đa Linh

Sau khi mọi người chia nhau số thanh đầu, Minh thúc
đưa Cổ Thái và Đa Linh tới Hồng Kông trước, tạm thời điều trị tại một bệnh viện
hiện đại, duy trì trạng thái sống thực vật. Tôi và mấy người còn lại quay về Bắc
Kinh tìm lão mù họ Trần. Răng Vàng muốn đi Mỹ trước, bảo rằng tuổi cao sức yếu,
ở trong nước ăn không ngon ngủ không yên. Từ đảo Miếu San Hô về, hắn lập tức xuất
cảnh, làm tiền trạm cho đội ngũ sang Tây lao động sản xuất chúng tôi, bắt đầu
phát triển kinh doanh ở Mỹ, từ đây thôi không nhắc đến hắn nữa.

Nhưng tìm tung tích lão mù ở Bắc Kinh không phải dễ
dàng, hành tung lão thoắt ẩn thoắt hiện, thậm chí bọn tôi không thểxác định lão
còn ở trong thành phố hay không, đành phải kiên trì hỏi thăm. May là tôi có nhiều
người quen ở Phan Gia Viên, trong chợ đồ cũ vàng thau lẫn lộn, đủ kiểu người
qua lại, chính là một kênh tin tức tốt nhất, hễ có động tĩnh gì, thế nào cũng
được truyền ra từ Phan Gia Viên.

Tôi và Tuyền béo ngoài việc hỏi thăm tin tức lão Trần,
còn một nhiệm vụ quan trọng, đó là đem số thanh đầu vớt được ở đảo Miếu San Hô
ra bán. Đằng nào hai việc đều không thể lỡ, chúng tôi bày một sạp hàng giữa chợ,
vừa bán hàng vừa nghe ngóng tin tức.

Thấm thoắt đã nửa tháng có dư, sắp đến Tết cổ truyền
của Trung Quốc, chúng tôi đành bỏ ý định qua Mỹ ăn Tết. Khi ấy không khí Tết đã
tràn ngập khắp Bắc Kinh, thành phố chưa cấm đốt pháo, còn lâu mới đến giao thừa
nhưng đã nghe tiếng pháo nổ lác đác, khiến cái chợ đồ cũ vốn đã náo nhiệt lại
càng thêm phần hỗn loạn.

Chợ đồ cũ Phan Gia Viên ngày nay náo nhiệt hơn nhiều
so với hồi tôi mới đến, cả biển người đông nghịt cứ chen chúc nhau. Đương
nhiên, cũng vì sắp Tết, những người bày bán hàng Tết trong cửa hàng thực phẩm
Thiên Phú, và trong chợ ngày càng đông, nhiều người ưa náo nhiệt, thấy người ta
châu đầu trong chợ đồ cũ cũng theo tới góp phần xôm tụ, tiết trời tuy lạnh
nhưng người vẫn mỗi lúc một nhiều.

Hơn năm trở lại đây, chợ đồ cũ Phan Gia Viên đích thực
đã sầm uất dần lên, hoàn toàn khác xa với những ngày đầu. Ngoài mấy món đồ cũ
và đồ đồng nát, chỉ riêng cổ vật với các món đồ chơi sưu tầm đã vô cùng phong
phú. Nào là thư họa, gốm sứ, đồ đồng, đàn cổ, tiền cổ, ngọc quý, gương đồng cổ,
lư hương, nghiên cổ, mực cổ, sách cổ, bản khắc cổ, giấy quý của các triều đại,
gạch ngói cổ, con dấu, đồ thêu thùa, đồ Cảnh Thái Lam, tranh sơn mài, ấm Tuyên
Hưng, đồ pha lê màu, ngà voi, điêu khắc trên tre, quạt tay, đồ gỗ gia dụng,
binh khí, đá quý… chất cao như núi, đứng bên này không nhìn thấy bên kia, nếu
ai muốn xem, cứ cho một ngày coi được mười món thì cả đời cũng không xem hết
hàng hóa trong chợ đồ cũ này.

Không giống như Lưu Li xưởng Bắc Kinh có từ giai đoạn
cuối Minh đầu Thanh, toàn đồ chơi văn nhã, Phan Gia Viên chơi theo lối “hoang
dã” hơn, hàng hóa cũng tạp nham, “hàng tây bối” giả cổ chiếm đến chín phần, muốn
kiếm một món hàng thật ở Phan Gia Viên này, ngoài cặp mắt lửa ngươi vàng để
phân biệt thật giả ra, còn phải trông vào vận may mới có thể mò được kim nơi
đáy biển.

Tôi và Tuyền béo tiếng lành đồn xa nên tất nhiên không
thể đem so sánh với bọn con buôn hạng hai chuyênđánh hàng giả. Có vài khách
quen thường ghé Phan Gia Viên chẳng rõ nghe đâu mà biết trong tay tôi và Tuyền
béo có minh khí, minh khí hàng thật giá thực bới được dưới mồ, dù chỉ là một đồng
tiền cổ trông chẳng có gì đặc biệt, không chừng lại là “tiền áp khẩu” mà các Mô
Kim hiệu úy moi ra trong mồm “bánh tông” cũng nên.

Nhiều người vừa nhìn thấy tôi, đã mở mồm hỏi luôn: “Anh
Nhất, có minh khí đào được trong mộ cổ không vậy? Anh cứ thoải mái phát giá, chỉ
cần là hàng thật quyết không kì kèo.”

Tôi nghĩ bụng, lâu rồi mình không lộ mặt ở Phan Gia
Viên, chắc chắn trước khi đi Răng Vàng đã xua hết khách quen qua chỗ mình.
Nhưng trong tay tôi làm quái gì có minh khí, huống hồ thường xuyên tiếp xúc với
những thứ này cũng đều là kiêng kị. May mà thanh đầu vớt được ở Nam Hải thì rất
nhiều. Thực ra bản chất minh khí và thanh đầu không mấy khác nhau, chỉ là cái nằm
trong đất còn cái kia nằm dưới biển cũng như tay gấu trên núi khác vây cá dưới
biển mà thôi. Vậy là tôi bèn chèo kéo khách mua xem thử đống thanh đầu, chủ yếu
là mấy món cổ ngọc trong đống ấy. Những miếng ngọc này toàn là đồ mua lại từ
tay Võ thọt chuyên buôn hàng thanh đầu trên đảo Miếu San Hô sau khi chúng tôi ở
Vực xoáy San Hô trở về, so với bộ ngọc khí Người bói mai rùa bị vỡ lúc đầu còn
hư hoại nhiều hơn, vì vậy giá mua vào rất thấp. Tôi chỉ định bày mấy thứ này ra
trước, xem coi tình hình thị trường thế nào đã.

Dân sưu tầm ngày nay đều cảm thấy mặt hàng ngọc thạch
đang lên giá, nhưng họ chỉ nhận loại ngọc cũ nhuận màu, ngọc thanh đầu của chúng
tôi tuy đã lên màu nhưng lại bị ngâm trong nước biển nhiều năm, muối cặn bịt
kín cả ngọc tủy, giống như một lớp vôi dày bao bọc bên ngoài, đến khách sành ngọc
nhìn thấy cũng phải lắc đầu.

Đang khi ngã giá có người quen trong chợ tới báo,
nói Kiều Nhị gia của Tàng Chân Đường ở Lưu Li xưởng mời chúng tôi qua. Tôi thấy
việc này hơi lạ, Kiều Nhị gia là cái tên lớn trong Lưu Li xưởng ở thành Bắc
Kinh này, lão đã kinh doanh tiệm đồ cổ Tàng Chân Đường từ trước thời Giải
phóng, bao năm nay chưa từng bị ai qua mặt, cổ vật qua tay lão nhiều vô số kể,
ngay ở Phan Gia Viên này, ai ai cũng biết Kiều Nhị gia là bậc nguyên lão trong
giới chơi đồ cổ. Tôi từ lâu đã có ý viếng thăm nhưng chưa có cửa tiếp cận,
không ngờ lão lại mời chúng tôi qua bên đó đàm đạo, không hiểu có ý đồ gì đây?

Hỏi kĩ người đưa tin mới biết, thì ra Kiều Nhị gia
nghe nói chỗ tôi có ngọc cổ Nam Hải, lão xưa nay vốn là kẻ nghiện cổ vật, ngọc
cổ vớt dưới biển là thứ rất hiếm ở Bắc Kinh, bình thường khó mà gặp được trên
thị trường, nên mới đặc biết nhờ người đưa tin, mời tôi mang ngọc cổ tới nhà
lão xem hàng họ thế nào.

Tôi nghĩ bụng tốt rốt cuộc cũng gặp được chuyên gia
biết người biết của, lại có lòng muốn tới nhà Kiều Nhị gia mở rộng tầm mắt, bèn
cùng Tuyền béo vội vã ôm một gói hàng, đi thẳng về phố chùa Diên Thọ ở phía
Đông Lưu Li xưởng. Đầu đường có một căn nhà hai tầng phía trước đượm sắc cổ giả,
khí thế bất phàm, nhìn lên tấm biển đen thiếp chữ vàng, thì chính là bảng hiệu
lâu năm của “Tàng Chân Đường.”

Tôi giải thích lí do thăm viếng với người trong tiệm,
họ không đưa chúng tôi lên lầu mà dẫn thẳng tới khu nhà trống cách đó khá xa.
Chỗ này đã gần Tiên Nông Đàn, trong sân tồi tàn cũ kĩ, lối đi chất đầy than đá,
còn xếp cả rau cải thảo cao như bức tường. Kiều Nhị gia quen ở chỗ này, có tuổi
rồi không muốn di chuyển, mọi sinh hoạt thường ngày đều diễn ra ở đây.

Chỉ thấy Kiều Nhị gia đã gần tám mươi, tóc rụng hết
chẳng còn cọng nào nhưng chòm râu lại rất dài, trắng như tuyết, cặp mắt sáng rực,
chứng tỏ tinh thần hãy còn minh mẫn, già mà chưa lẫn, thấy chúng tôi liền vội
vã mời ngồi. Người giúp việc bưng trà lên, bộ đồ trà tinh xảo, hương trà thơm đậm
đà, có điều tôi và Tuyền béo đã quen uống trà bằng bát, chẳng hiểu quái gì về
trà đạo, lại thêm ngoài trời lạnh cóng nên trong bụng đang run lên cầm cập, ngửa
cổ một cái đã tu cạn đến đáy chén, mồm còn tấm tắc: “Trà ngon đấy, phiền ông
cho xin bát nữa, tốt nhất là đổi sang cái ca to vào.”

Kiều Nhị gia vuốt râu cười, vội sai người mang bát
to cho anh Nhất và anh Tuyền béo,lại khen rằng, vừa thấy cách uống trà, biết
ngay hai chúng tôi đều là những kẻ phóng khoáng không nề hà tiểu tiết.

Tôi cười nói: “Để Nhị gia phải chê cười, chúng tôi
trông hàng nửa ngày trời ở Phan Gia Viên, sắp đông cứng mất rồi.” Uống liến mấy
bát trà người mới dần ấm lại, lúc ấy tôi mới để ý quan sát xung quanh. Trong
căn phòng này hầu như không có thứ gì mới. Trên kệ sách kiểu cũ bày một động
thư tích cổ, mé ngoài toàn là đồ cổ như bạch ngọc, pha lê, đá Thọ Sơn, tương Phật,
điêu khắc ngà voi, lọ thuốc hít… đầy ắp cả phòng vốn không to lắm. Nếu ở bên
ngoài không rõ nguồn cơn, ai dám tưởng tượng được Kiều Nhị gia một đời buôn bán
minh khí cổ vật lại sống ở nơi tồi tàn thế này.

Tôi và Tuyền béo thấy lão sinh hoạt giản dị, trong bụng
cũng thêm phần kính nể. Đôi bên hàn huyên mấy câu, Kiều Nhị gia dường như biết
chúng tôi là Mô Kim hiệu úy, liền hỏi tôi vài câu về phong thủy trong thành Bắc
Kinh, bảo tôi nói xem vận khí kinh doanh ở Lưu Li xưởng thế nào.

Tôi ngấm ngầm đề phòng, tuy rằng Kiều Nhị gia là
nhân vật nổi tiếng ở Bắc Kinh, hạng người như Minh Thúc không thể so bì, nhưng
tôi không hề có ý định hiển lộ những điều tinh túy trong Thập lục tự âm dương
phong thủy bí thuật, nên chỉ nói đãi bôi mấy câu: “Thành Bắc Kinh như hai con rồng
trên cạn, hình thế long mạch vừa khéo trùm lên Lưu Li xưởng, chính là xe như nước
chảy ngựa như rồng, hai dòng tài khí nằm cả ở đây, chỗ này mà kinh doanh e là
phải đếm tiền mỏi tay.”

Kiều Nhị gia nghe thế mừng lắm, lại tấm tắc thêm hồi
lâu, Tuyền béo nóng ruột kiếm tiền, chán chẳng buồn nghe lão già lải nhải, vội
lấy thanh đầu ra cho lão xem, hỏi lão trả giá bao nhiêu. Kiều Nhị gia lôi kính
lúp và kính lão ra, xem đi xem lại một lúc lâu, lại mân mê thêm một hồi, đoạn
nói: “Ngọc tốt, ngọc tốt đây! Đích thực là ngọc cổ ngàn năm dưới đấy biển, chỉ
tiếc là chưa lên được màu xưa cũ. Cậu Tuyền, cậu Nhất, ngửi mùi là biết hai cậu
thườngxuyên tiếp xúc với minh khí. Người thật thà không nói lời giả dối, không
giấu gì hai cậu, trước giải phóng họ Kiều này cũng là đồng nghiệp của các cậu đấy,
thời đó khác bây giờ, trong tay không có hàng thật thì sao buôn đồ cổ ở Lưu Li
xưởng này được, cho nên tôi biết loại ngọc xưa này chỉ có trong di tích dưới đấy
biển hoặc trong hầm mộ cổ trên núi mà thôi, dân gian tuyệt đối không có thứ này.”

Tôi và Tuyền béo nghe xong giật mình đánh thót,
không ngờ Kiều Nhị gia lại nói toẹt ra như thế, hóa ra đều là nghệ nhân đổ đấu
cả. Bên dưới căn nhà lão ở ngày nay trước đây từng có một ngôi mộ cổ đời
Nguyên, năm đó Kiều Nhị gia đào được ngôi mộ nên mới có vốn buôn bán ở Lưu Li
xưởng. Lão thamphong thủy tốt ở khu vực xung quanh ngôi mổ cổ nên không nỡ rời
đi. Sau đó, mộ cổ bị san phẳng rồi cất nhà bên trên, lão vẫn cứ ở đây, hôm nay
mời tôi đến một là muốn gom mua thanh đầu, hai là khu nhà này sắp phải dỡ bỏ
nên muốn nhờ tôi tìm cho một nơi phong thủy tốt để chuyển tới đó.

Tôi bảo bác nhờ thế là làm khó cho tôi rồi, Mô Kim
hiệu úy không cướp nhà người sống nên đâu xem được dương trạch phong thủy, huống
hồ bác đã là nghệ nhân đổ đấu, sao còn tin vào thuyết phong thủy cơ chứ?

Tôi khuyên giải một hồi những mong lão thôi mê muội,
nhưng Kiều Nhị gia không hề lay chuyển, lão chỉ xuống nền nhà dưới chân nói: “Ngôi
mộ cổ đời Nguyên này quả thật nằm nơi phong thủy bảo huyệt. Năm đó tôi từ mộ đạo
chui vào địa cung, nhìn thấy tình hình trong mộ, kinh ngạc đến nỗi suýt chút nữa
thì cằm rơi xuống đất, bấy giờ mới thực sự tin trên đời này có cái gọi là phong
thủy, tuyệt đối không phải là thứ huyền hoặc xa xôi gì…” Nói đến đây lão dùng một
câu ám ngữ của dân đổ đấu thuật lại cho chúng tôi thứ lão nhìn thấy trong đêm
đó: “Trong ngôi mộ cổ này… có nước mà không có cá!”

Báo cáo nội dung xấu