Hẹn Ước Ba Sinh - Chú thích
Chú thích
Trong một loạt truyện huyền
ảo thời Bách Việt – Hùng Vương có liên qua với nhau thì truyện dựng bối cảnh
hoành tráng và hoàn chỉnh nhất là Thiên Niên Vạn Nguyệt, nhưng nó lại là shoujo
và chắc chắn có bạn không đọc. Vì vậy mình viết bài chú thích này để giải thích
bối cảnh thần thoại của truyện Hẹn Ước Ba Sinh.
…
1. Tam tầng tứ giới
“Tam
tầng tứ giới” nghĩa là “ba tầng bốn thế giới”, là một sự tưởng tượng dựa trên
vũ trụ luận của người Mường. Như trong truyện thì “Tam tầng tứ giới” được hiểu
như sau
- Tam
tầng:
1.
tầng Trời - 2. tầng Đất
- 3. tầng Nước
- Tứ
giới:
1.
Thần tiên giới thuộc tầng Trời
2.
Nhân giới/ Dương gian (người sống) vở tầng Đất
3.
Âm giới/ Địa phủ (người chết) ở tầng Đất
4.
Thủy giới/ Bát Hải ở tầng Nước.
Thực ra, vũ trụ luận
của người Mường, theo sự tìm hiểu của giáo sư Từ Chi, là sự hỗn dung của hai
kiểu loại vũ trụ luận khác nhau:
- Vũ trụ luận
“ba tầng, bốn thế giới”: tầng trên Trời, tầng Giữa và tầng Dưới. Tầng Dưới lại
được chia thành hai thế giới. Thế giới Dưới nước và thế giới Dưới đất.
- Vũ trụ luận
“hai bên”: Người Mường quan niệm ở tầng người có hai bên: một bên là mường của
người sống và một bên là mường của người chết (Mường Ma)
Ý kiến của một số nhà nghiên cứu thì
trống đồng thể hiện mô hình vũ trụ theo quan niệm
- “Tầng
trên”, tương ứng với phần mặt trống, gồm hai thế giới: Trời (“Mường blời”)
tượng trưng bằng hình ảnh mặt trời tỏa các tia sáng và Ðất (“Mường tất”) tượng
trưng bằng các cảnh nhà cửa, người, chim, thú…
- “Tầng
giữa” tương ứng với phần tang trống là “thế giới nước” (“Mường nác”), tượng
trưng bằng các hình thuyền, người chèo thuyền, cá, giao long, chim nước…
- “Tầng
dưới”, tương ứng với phần thân trống, là “Cõi âm” (“Mường âm phủ”, ở đó, có
hình tượng tổ tiên, với bộ trang phục hình chim – vật tổ)
2.
Thần nông
*Trích từ Tìm về Bản sắc văn hóa Việt
Nam của GS. VSKH Trần Ngọc Thêm*
Thực
ra thì Thần Nông, cũng như một số nhân vật thần thoại khác liên quan đến nông
nghiệp, đều vốn là cư dân bản địa phương Nam bị sát nhập vào Hoa tộc. Không
phải ngẫu nhiên mà Thần Nông ( = ông tổ nghề nông) luôn được xem là vị thần cai
quản phương Nam và còn tên khác là Viêm Đế ( = vua xứ nóng. Niên đại truyền
thuyết của Thần Nông (3.320 – 3.080 ? = thiên niên kỷ thứ IV trước công
nguyên) tương ứng với giai đoạn người Đông Nam Á phát triển mạnh nghề nông (
thời đá mới). Như vậy, Thần Nông thực chất là tên gọi biểu trưng cho những
thành tựu tập thể của cả một giai đoạn.
Truyền thuyết của người Mèo kể rằng “khi
loài người đang lo tìm thức ăn lâu dài thì một ông già tóc bạc không biết từ
đâu xuất hiện. Ông cụ cho nhiều giống hạt, bày cho cách gieo trồng. Từ đó mới
có lúa để ăn và bong lanh để se chỉ dệt vải. Ông lại bày cho họ cách kiếm những
cây thuốc để chữa bệnh. Lúc chia tay, ông cụ vẽ một cái hình vuông xuống đất,
bảo loài người làm nhà theo cách đấy, đừng ở hang mà lạnh. Loài người nhớ ơn
ông cụ, gọi ông là Thần Nông”. Truyền thuyết người Việt thì xem thần nông là
ông tổ bốn đời của Kinh Dương Vương, năm đời của Lạc Long Quân và sáu đời của
vua Hùng thứ nhất.
GS. Đinh Gia Khánh viết: “Việc coi Thần
Nông là thủy tổ của các vua Hùng là một trong những dấu vết của việc người Việt
kế thừa những thành tựu của cơ tầng văn hóa Nam- Á cổ xưa. Chắc rằng nhân ta từ
xưa, trước khi tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc, đã từng coi Thần Nông là
vị thủy tổ của mình. Được coi như vị thần sáng nghiệp của nghề nông xứ nóng ấm
thì Thần Nông rất dễ được những cư dân trồng lúa như người Lạc Việt tôn sùng
nhiều hơn cả và cũng lại dễ được họ coi như vị thủy tổ của mình. Đó là điều có
thể hiểu được. Hán tộc không hề coi Thần Nông là Thủy tổ mà chỉ coi đó như là
một thiên đế quản lĩnh phương Nam”
Nếu để ý đến khía cạnh ngôn ngữ học còn
thấy rằng tên gọi Thần Nông đã được đặt theo cú pháp xuôi phương Nam (danh từ +
định tố) nếu theo cú pháp tiếng Hán thì phải đặt ngược lại là “Nông Thần” Ảnh
hưởng của văn háo phương Nam đối với phương Bắc vào thời đó mạnh đến nỗi ngay
cả các ông vua có thực đầu tiên của Trung Hoa như Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc,
Đế Vũ cũng đều được đặt tên theo lối cú pháp xuôi của phương Nam (chứ không
phải là Nghiêu Đế, Thuấn Đế, Cốc Đế…)
3.
Bát Hải Long Vương
Theo
truyền thuyết và một số tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam thì Bát Hải Long Vương,
một số nơi gọi là Bạt Hải hay Bột Hải, chính là Long Vương cai quản Hồ Động
Đình hay Vua Cha Bát Hải, gả con gái mình là Long Nữ, có một số sách viết
là Thần Long, cho Kinh Dương Vương, tức Bát Hải Long Vương đầu tiên là ông
ngoại của Lạc Long Quân. Trong truyện, Bát Hải Long Vương cai quản tám
biển ở tầng Nước, tức Thủy giới. Chức Bát Hải Long Vương truyền nhiều đời theo
phụ đạo.
4. Hùng Vương
Hùng
cách phiên âm tiếng Hán – Việt của Khun, một danh hiệu thủ lĩnh của các dân tộc
Bách Việt; Vua Hùng âm cổ là Pò Khun ( = bố các thủ lĩnh) theo Trần Quốc Vượng.
Người Thái Tây Bắc hiện nay vẫn còn gọi người đứng đầu mường lớn là Pò Khun;
người Mường gọi là Lang Kun. Vua nước Thái Lan cổ địa Sukhotai cũng tự xưng là
Pò Khun. GS. Phạm Huy Thông co là “Hùng” trong thói quen “xưng hung xưng bá”
của các vua Sở chính là dấu vết truyền thống của ngôn ngữ cư dân Bách Việt. Tồn
tại một cách giải thích khác của H.Maspero (được nhiều người đồng tình) là chữ
“Hùng” là chữ “Lạc” chép nhầm mà thành do tự dạng chữ Hán của Lạc và Hùng gần
giống nhau (dẫn của Đào Duy Anh)
5. 18 Chi Hùng Vương
Dựa
trên giả thuyết sưu tầm thần tích, thư tịch, ngọc phả của Cụ Biệt Lam Trần Huy
Bá được in trong tạp chí Nguồn Sáng số 23 trong dịp Lễ Hội Giỗ Tổ Hùng Vươg
1998. Thời Hùng vương từ Kinh Dương Vương đến Hùng Duệ Vương, kéo dài từ năm
Nhâm Tuất (2879 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN), tức là 2622 năm. Tư liệu sưu tầm cho thấy không phải 18 đời Hùng Vương, mà là 18 chi
Hùng Vương. Mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm Can Chi lúc sinh và lúc lên
ngôi. Các đời vua trong một chi đều lấy hiệu của vua đầu chi ấy. Tên 18 chi
được sắp xếp theo thứ tự tên 8 quẻ của Bát Quái là Càn – Khảm – Cấn – Chấn –
Tốn – Ly – Khôn – Đoài rồi đến tên 10 can trong Thiên Can là Giáp - Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ – Canh – Tân –
Nhâm. Xem thêm ở http://www.lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=8976
6.
Giấy Mật Hương
Giai
thoại thứ nhất được kể trong sách Nam Phương Thảo Mộc Trạng của Kê
Hàm, soạn năm 304: “ Mật hương chỉ làm bằng vỏ và lá của thứ cây có mùi
mật. Giấy màu nâu. Nó có những vân hình trứng cá. Giấy rất thơm, bền và mềm.
Khi thấm mực nó không bị mủn. Năm Thái Khang thứ 5 (đời Tấn, năm 284) sứ
bộ La Mã dâng đến 30.000 tờ. Hoàng đế ban cho Đỗ Dự là
Bình Nam tướng quân và Đan Dương hầu 10.000 tờ để viết Xuân
thu thích lệ và Kinh truyện tập giải dâng lên vua. Nhưng Đỗ dự
chết trước khi giấy được gởi đến. Theo chỉ dụ, giấy đó được ban cho gia đình.”
Lễ
vật của sứ bộ và nhà buôn La Mã đem đến không phải xuất xứ từ đế quốc La Mã mà
đến từ bán đảo Đông Dương ( Hậu Hán thư nói rõ, phái bộ đến từ Nhật Nam,
tức là Việt Nam khi bị nhà Hán chiếm và chia tách thành Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam). Tên gọi cây mật hương đó là để chỉ cây Aquilaire Agalloche (tên
tiếng Pháp), mà người ta vẫn thường sử dụng cả vỏ cây. Bản thảo cương mục của
Lý Thời Trân (1518_1593) gọi cây này là cây Trầm Hương, được biết nó có mọc ở
Việt Nam và Ấn Độ .
7.
Giấy Trắc Lý
Còn gọi là giấy Gân Nghiêng.
Một
giai thoại thứ hai nói về việc du nhập giấy vào Trung Quốc từ Nam Việt. Nguồn
trích dẫn từ sách Thập Di Ký của
Vương Gia (TK thứ 4), được Tiêu
Ỷ san nhuận vào TK thứ 6. Chuyện kể rằng, Trương Hoa (232- 300) đã soạn cuốn Bác Vật Chí dâng lên Vũ Đế. Công
trình gồm 400 quyển được rút lại còn 10 quyển. Hoàng đế ban cho Trương Hoa
đồ dùng để chép lại công trình : một thỏi mực
bằng đá Khotan, một cây bút cán bằng sừng kỳ lân (đến từ nước Liêu Tây)
và một vạn tờ giấy Trắc Lý Chỉ (giấy Gân Nghiêng) đến từ Nam Việt. Tài liệu còn viết thêm rằng các từ
ngữ Chỉ Lý và Trắc Lý có thể đổi chổ cho nhau. Người phương Nam làm giấy
bằng rong. Gân của nó dọc và ngang đều chạy nghiêng, vì vậy mà có tên đó.
Giai
thoại này không được sách cũ nào nhắc lại, nhưng đến TK thứ 10, nó được nhắc
lại trong chương nói về giấy của cuốn Văn Phòng Tứ Phả do Tôn Dị Giản biên soạn. Ông này có thêm
lời giải thích lấy từ sách Bản
Thảo (659) như sau
:
“Cây Chỉ Lý có vị ngọt, rất mát, không độc. Trị cảm hàn ở tâm và phúc, làm tăng nhiệt
trung bình và tiêu hoá ngũ cốc. Làm tằng khí của dạ dày và ngăn tiêu chảy. Nó
mọc trong hồ đầm phía Nam Trường Giang (sông Dương Tử : Yangtze river).
Đào Hoàng Cảnh (451- 536) tác giả Thần
Nông Bản Thảo Kinh , nói rằng: người phương Nam dùng cây
đó làm giấy.”
8. Bạch Mai
Loài hoa bạch mai trong truyện chính là mai mơ hay người Huế gọi là bạch mai, tuyết mai hay hàn mai (danh pháp khoa học hai
phần: Prunus mume) là một loài thuộc chi Mận mơ (Prunus) có
nguồn gốc châu Á. Loài cây này có nguồn gốc từ miền Nam Trung
Quốc (lưu vực sông Dương Tử), sau này lan sang Nhật
Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nó được trồng để lấy quả và hoa. Mơ
là loài cận chủng với hạnh(mơ châu Âu - Prunus armeniaca)
Loài mai mơ trong truyện này không phải là loài
hoa mai vàng hay hoàng mai (danh pháp
khoa học hai phần: Ochna integerrima) là tên gọi của một loài thực
vật có hoa thuộc họ Mai (Ochnaceae). Loài hoa này được trưng bày
phổ biến ở miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Nguyên Đán
Ở Việt Nam, mai mơ mọc nhiều ở vùng Tây Bắc (Sơn
La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai) và vùng rừng núi
quanh chùa Hương Tích (Mỹ Đức, Hà Nội). Về đặc điểm hoa, loại hoa
trắng (bạch mai) thường phổ biến hơn loại hoa đỏ (hồng mai). Về đặc điểm quả,
mơ được chia thành nhiều loại như: mơ đào, mơ nứa, mơ bồ hóng, mơ chấm son, mơ
Vân Nam... Ở làng Đông Mỹ (Thanh Trì, Hà Nội) có giống mơ hoa và quả thường kết
từng đôi gọi là Song Mai.
Trong ẩm thự, nước xi rô làm từ mơ ngâm đường là
thứ đồ uống khá thông dụng trong mùa hè ở miền Bắc Việt Nam, còn có một
số loại rượu mùi khá nổi tiếng làm từ quả mơ như: Rượu mơ Núi Tản, Rượu mơ Yên
Tử, Rượu mơ Hương Tích... Mơ muối và mứt mơ là dạng mơ khô gọi là ô
mai hay xí muội.
Rượu mơ gồm có hai loại là rượu mơ chín và rượu mơ
xanh hay còn gọi bằng cái tên hết sức thi vị “thanh mai tửu”. Rượu mơ chín uống
có vị ngon, hơi ngọt còn rượu mơ xanh lại hơi chát, hơi chua và mùi nồng, “bốc”
hơn. “Thanh mai tửu” nổi tiếng bởi vẻ đẹp thanh tao của nó. Các danh sĩ thời
xưa thường thưởng ngoạn ngắm trăng với rượu thanh mai.
9.
Tứ Phủ, Tứ Pháp
Dựa
theo tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, tức thờ Tam Tòa Tứ Phủ, còn Tứ Pháp Vân
– Vũ – Lôi – Điện là bốn bị nhiên thần được thờ để cầu đảo mong mưa thuận gió
hòa. Có thể dễ dàng đọc những truyền thuyết về các Thánh Mẫu trên internet.
Trong truyện, Tứ Pháp là Thần Vương cai quản, giống vai trò Thiên Lôi, còn Tứ
Phủ cai quản Nhân giới và Âm giới thuộc tầng Đất được hiểu như sau.
- Thiên
Phủ của Thượng Thiên Thánh Mẫu, quản con người khi sống, Liễu Hạnh Mỵ Nương kế
ngôi, con gái út của Thượng Thiên Thánh Mẫu
- Địa
Phủ/ Âm Phủ của Thượng Địa Thánh Mẫu, quản con người khi chết, U Linh thần nữ
tại vị
- Thủy Phủ của Thượng Thủy Thánh Mẫu, quản sông
biển gió mưa… ba con gái của Lạc Long Quân tại vị
1.
Thủy Tinh Động Đình Ngọc Nữ Mỵ Nương
2.
Hoàng Ba Đoan Khiết Mỵ Nương
3.
Tam Giang Mỵ Nương
- Lâm
Phủ của Thượng Ngàn Thánh Mẫu, quản rừng núi đất đai… La Bình Mỵ Nương kế ngôi,
con gái của Tản Viên và Ngọc Hoa.
11. Tết Đoan Ngọ
Tết Đoan ngọ hay Tết Đoan
dương, ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, là một ngày Tết truyền
thống tại Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam. Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ
là giữa trưa. Thời gian này cũng là khi khí dương đang thịnh nhất trong năm.Truyền thuyết về lịch sử ngày mùng 5 tháng năm được lưu truyền
khác nhau ở Việt Nam, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Ở Việt Nam, dân gian còn gọi
là Tết giết sâu bọ, là ngày
phát động bắt sâu bọ, tiêu diệt bớt các loài gây hại cho cây trồng , trong đó
nhiều loài sâu có thể ăn được và chúng được coi như là chất bổ dưỡng. Người ta
tin rằng khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ; giun sán trong người
sẽ bị chết hết.
Trong văn hoá Việt thì ngày
mùng 5 tháng 5 âm lịch lại là ngày giỗ Quốc mẫu Âu Cơ. Trong dân gian đã
lưu truyền câu ca dao:
Tháng Năm ngày tết Đoan Dương.
Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.
Ở Đồng bằng Sông Cửu Long,
ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch còn gọi là ngày “nước quay”, thường lệ hàng năm,
nước ở thượng nguồn đổ về đến nước ta làm nước sông trở thành đỏ đục và có
nhiều xoáy nước, bắt đầu mùa lũ hàng năm.
Tết Đoan Ngọ là dịp người ta
thường ăn tết ở nhà với gia đình. Buổi sáng sớm ngày Tết Đoan Ngọ người ta ăn
bánh tro, trái cây, và rượu nếp để giết sâu bọ, bệnh tật trong người. Thường lệ
người ta ăn rượu nếp tức thì sâu khi họ ngủ dậy.
Người ta cúng lễ cho một
tiết mới, mừng sự trong sáng và quang đãng.
Nhiều người tắm nước lá mùi
để phòng bệnh và tẩy trừ “sâu bọ”. Nhiều địa phương ở ven biển đúng giờ ngọ họ
đi tắm biển. Ngày này theo quan niệm dân gian khí dương mạnh nhất trong năm,
cúng lễ để cầu an. Cũng theo quan niệm đó, các lọai cây lá hái trong thời gian
này có tác dụng chữa bệnh tốt nhất nên các thầy thuốc thường lên núi hái thuốc.
Vào dịp Tết Đoan Ngọ, ai bị
cảm cúm nên dùng 5 loại lá: bạch đàn, xương rồng, ngũ trảo, dâu tằm ăn, và sả
nấu nước xông để bớt bệnh. Người ta cũng tìm mua cành xương rồng bỏ trong nhà
để đuổi tà ma.
12. Vòng tay cầu hôn
Để tỏ lòng mong muốn cầu hôn
hay hứa hôn, nhiều dân tộc ở vùng núi Tây Bắc và Tây Nguyên Việt Nam, chủ yếu
theo chế độ mẫu hệ, thường có tục lệ trao vòng. Quý nhất là vòng bằng vàng, hay
bằng bạc, rồi mới đến vòng đồng. Nhận vòng là bằng lòng, phải giữ lòng chung
thủy. Ngày nay người Việt - Kinh đã trao
nhẫn thay vòng hay hoa tai, còn nhiều dân tộc ở miền núi chỉ dùng vòng bạc hoặc
đồng. Đó là những chiếc vòng cầu hôn mang tính giao duyên. Những chiếc vòng cầu
hôn là kỷ vật thường được lưu giữ suốt đời, có người khi mất thì trao lại cho
con cháu làm di vật quý.
Theo phong tục của dân tộc Ê
Đê (Đắk Lắk), khi người con gái tìm được người con trai ưng ý thì báo cho bố mẹ
biết. Bố mẹ cô gái nhờ người mối lái đưa chiếc vòng bằng chất liệu nào là tùy
gia cảnh để mở đầu cho việc giao thiệp với nhà trai. Nhà trai sau lễ nhận vòng,
cũng trao cho bên nhà gái chiếc vòng để làm tin cho việc đính ước. Sau đó, nhà
trai tổ chức bữa cơm rượu mời bên nhà gái. Đến hôm cưới, bên nhà gái lại đưa
sang nhà trai vòng có kèm đồ sính lễ và các thứ như trâu, bò, lợn, gà, rượu,
quần áo... Khi lễ trao vòng ngày cưới đã xong, hai ông cậu đưa rượu cho cô dâu,
chú rể. Hai vợ chồng trao chén rượu cho nhau và uống hết
13. Chợ Âm Dương
Chợ
nằm ở địa phận làng Ó, xã Võ Cường - thị
xã Bắc Ninh. Mỗi năm, chợ chỉ họp một lần vào đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 Tết,
tháng Giêng âm lịch. Tương truyền nơi đây xưa là bãi chiến trường do đó có
nhiều người chết. Chợ họp là để tạo cơ hội cho người chết và người sống gặp
nhau.
Chợ bắt đầu họp vào lúc lên đèn, trên một bãi
đất trống, cạnh ngôi miếu có tiếng là linh thiêng. Không có lều, quán, không sử
dụng đèn, nến. Nhiều người đi chợ mang một con gà đen đã được chăm sóc cẩn thận
làm vật tế Thành Hoàng làng. Trong chợ cũng có những dãy hàng mã, hương, nến,
cau, trầu...
Ở
đây, người mua không mặc cả, người bán không đếm tiền. Trong bóng đêm, chỉ thấy
bóng người đi lại và tiếng thì thào. Người ta "mua may, bán rủi".
Người cõi trần đi chợ với người ở cõi âm. Ở đầu chợ, người ta đặt một chậu nước để thử
tiền âm hay tiền dương. Có người sớm hôm sau xem trong túi đựng tiền toàn là vỏ
hến, lá đa, thậm chí cả một mẩu yếm sồi. Họ đều rất vui vẻ vì coi đó là dịp làm
điều phúc, điều thiện với người đã chết. Chợ tan khi còn đêm.
Sau
khi tan chợ, những người đi chợ mời nhau uống nước, ăn trầu và hát Quan Họ cho
đến sáng. Đây chính là một sinh hoạt văn hoá mang màu sắc tín ngưỡng dân gian
rất đặc trưng của vùng Kinh Bắc. Bởi họ quan niệm rằng có như vậy việc làm ăn
hoặc mùa vụ năm đó mới được thuận lợi, đôi khi tương tự lễ hội cầu mùa ở các
địa phương khác.
14. Tảo hôn
Tảo hôn có
nghĩa là việc kết hôn của những người vị thành niên chưa đến tuổi kết hôn. Cho con cái kết hôn ngay từ tuổi vị thành
niên là một tập tục cổ xưa ở phương Đông. Tập tục này thấy được ở Trung Quốc,
Mông Cổ, Ấn Độ và Việt Nam. Việc
tảo hôn có thể từ lý do kinh tế. Cô con gái nhà nghèo, có nhan sắc, và sắp lớn
gia đình bên nam thường bỏ tiền ra cưới cho con trai để trong nhà có thêm người
lao động. Bởi vì trong lao động nông nghiệp và nội trợ xưa phụ nữ đóng một vai
trò chính yếu, trừ đi cày, còn hầu như tất cả các việc đồng áng và bếp núc họ
phải đảm nhiệm. Việc tảo hôn có thể từ lời hứa hẹn của hai gia đình, muốn môn
đăng hậu đối. Cho nên trong tảo hôn, phụ nữ thường lớn tuổi hơn nam giới, có
khi nam còn bé dại.
Trên thực tế tuổi tảo
hôn của phụ nữ có thể là từ 9 đến 15 tuổi Âm lịch, còn nam thì sớm hơn từ 5 đến
7 tuổi. Người con gái thường lớn hơn con trai từ 4 đến 10 tuổi. Tình trạng đó,
người ta phải quản lý anh con trai, ngoài 10 tuổi thì thi thoảng được vào nằm
với vợ, và đến 15 tuổi thì cho tự do. Việc cho nằm chung của hai đứa trẻ con
cũng là một vấn đề, đôi khi chúng không chịu và đánh nhau chí tử, cho đến khi
biết thích người khác giới thì tự ổn thỏa.
Tục tảo hôn, thực ra
không phổ biến ở những người nông dân nghèo, mà thường chỉ ở những nhà tương
đối khá giả. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đa thê sau này. Người
phụ nữ thường già nhanh. Ông chồng nhà giầu, tiếp tục tìm một cô vợ bé trẻ
trung khác, và để yên ổn gia đình, tốt nhất là người vợ già tự đi tìm vợ để
cưới cho chồng. Tục tảo hôn cũng để lại nhiều bi hài, xuất hiện rất nhiều cao
dao cười nhạo, nhưng cũng là một thời của loài người.
Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em cho mượn cái gàu sòng
Đi đến chỗ lội múc chồng tôi lên
(Ca dao)
15. Lễ hội mùa thu
Các dân tộc
ở Tây Bắc và Tây Nguyên như Mảng, M’nông, Ê Đê, La Chí… đều có lễ mừng cơm mới,
lễ rước hồn lúa, lễ cầu cơm mới, lễ cúng hồn lúa… Dù tên gọi khác nhau, các
nghi thức ở mỗi dân tộc khác nhau, nhưng đều có chung một điểm là tổ chức vào
mùa thu hoạch lúa, khoảng tháng 9- 10 Âm lịch. Tín ngưỡng luôn cho rằng hồn lúa
là một nữ thần, trẻ hoặc già tùy dân tộc. Thần lúa thường ham chơi lang thang
khắp rừng núi nên con người phải rước về kho, nếu thần lạc mất thì vụ mùa sau
sẽ thất thu, xảy ra nạn đối. Hoặc thần lúa rất khó tính, nếu con người không
cúng rước thì thần sẽ giận gây nạn mất mùa.
Truyện có
đề cập đến thả đèn trời (đèn gió), cốm (dẹp) và đua thuyền (đua ghe ngo) được
lấy từ Lễ hội Ok Om Bok của người Khmer, tức lễ Cúng Trăng, hay lễ Đút Cốm Dẹp
được tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, đây là ngày cuối cùng trong một chu kỳ
của mặt trăng xoay quanh trái đất, và cũng là lúc hết mùa vụ của năm. Lễ cúng
tạ ơn thần mặt trăng đã bảo vệ mùa màng tươi tốt bội thu.

