Biểu Tượng Một Dòng Họ - Chương 05 - Phần 1

V

Anh Hân phóng xe lết qua cổng, vào tận hè nhà tế. Dựng vội xe xong, anh bước
thẳng tới ngồi cạnh cha. Ông hỏi ngay:

- Sao mới đi đã về ngay? Nghìn rưởi cầm chưa được một ngày đã vung sạch rồi?
Tiền chứ có phải lá tre đâu. Tiêu pha có chừng có mực mới là người có học.

- Đâu phải chuyện ấy, thầy ơi. Con về vội để thưa với thầy: Con có thằng
con ở Hải Phòng, gia đình mẹ nó sắp mang nó về Pháp.

- Anh cái nói gì? Có con? Sắp về Pháp?

- Mong thầy tha tội cho con. Con lỡ có con với một cô đầm. Nó gần 4 tuổi rồi.
Cha mẹ cô ấy sắp đem mẹ con nó hồi hương.

- Quá thể thật! Lấy cho liền hai con vợ đều là gái ngoan, đẹp như hai Kiều,
tốn kém cơ man tiền của. Thế mà không hề ngó ngàng gì đến. Lại đi dan díu với
gái đầm. Còn trời đất nào dung thứ cho anh nữa! Thế bao giờ họ đi? – ông miết
giọng để đay trì.

- Ngày kia ạ.

- Để nước đến chân mới nhảy! – ông nói giọng vừa bực tức vừa trách móc – Thế
sao không dùng mẹo vặt lừa đem nó về?

- Không được đâu, thầy ơi. Họ khóa chặt cổng tối ngày kể từ lúc thằng bé mới
lọt lòng.

- Thôi được rồi. Anh cứ ra ngoài ấy trước đi. Nội đêm nay tôi có mặt ở nhà
anh.

Anh Hân đi rồi, ông ngẫm nghĩ mãi. Sao vợ đã đẹp và ngoan thế mà nó vẫn
chê? Liệu có phải nó học cao, không hợp với gái ít học? Hay con đầm kia bỏ bùa
nó? “Sông bao nhiêu nước cho vừa, trai bao nhiêu vợ...” Vào câu ca rồi. Thế mà
nó bẵng cả hai, đi tằng tịu với gái ngoài! Mình chọn vợ cho nó kỹ càng đến vậy,
nào phải vơ bèo gạt tép, hay tặc lưỡi lấy về cho có con dâu!

Ông cho việc lập gia thất cho con cái là một trong những việc hệ trọng.
Ngoài ý trách nhiệm của phụ mẫu, còn thể hiện truyền thống gia phong, là nhân tố
quan trọng để phát triển và củng cố dòng họ. Cha mẹ không biết chọn dâu, rể là
giao hại cho con. Gả cho rể tồi, con mình chịu khổ trọn kiếp, còn khổ lây sang
bố mẹ, lại bị người đời chê là ngu. Chọn dâu phải đem “Công, dung, ngôn, hạnh”
ra làm chuẩn mực. Quan điểm của ông phải xếp “Hạnh” hàng đầu. “Hạnh” đây chính
là cái tông – lấy vợ xem tông – tức là xem xét dòng dõi, gia thế. Rồi mới đến “Ngôn”. Các cụ dạy “Nhất thanh nhì sắc”, giọng
nói thể hiện con tim. Êm ái, thanh thoát, ngọt ngào, rành rẽ là giọng của trái
tim nhân hậu, giọng ồm ồm là của tính dữ. Thứ ba là “Dung”, tức vẻ mặt, thần
thái. Không được đẹp thì chí ít phải sáng sủa, tươi tắn, ưa nhìn. Mặt ủ ê, nước
da khô, sần là biểu hiện của đầu óc ngu đần, không có hậu. Còn “Công” xếp cuối,
cũng cần, song ở hoàn cảnh nhà mình cốt được người biết lo toan mà không đòi hỏi
xốc vác. Ý nghĩa của “Công” đâu phải nặng về sức vóc hùng hục bỏ ra, mà chính là cái thần trong công việc. May được
năm cái áo vụng không bằng một cái khéo. Như thế ông xếp lộn ngược thứ tự truyền
thống lại thành “ Hạnh, ngôn, dung, công”, nghe có vẻ không ổn hay ngược đời.
Nhưng rõ ràng ông đã có lý. Môn đăng hộ đối cũng không được xem nhẹ, vì nó góp
phần giữ tư thế cho dòng họ. Trước đây, lấy bà Thư, ông phải bỏ qua điều này,
do lúc ấy hoàn cảnh quá ngoặt nghèo. Sinh thời, thân phụ ông lập gia thất cho
các con đều được bạn bè đồng sự và các quan trên cảm phục. 11 người con chứ có
ít đâu, thì 8 rể đều là lý trưởng, chánh tổng, còn các nàng dâu đều là con nhà
tông cả. Nhờ vậy, nhà họ Đào mới được danh giá, hùng mạnh như ngày nay. Giờ
đây, cờ đã đến tay, hãy phất lên sao cho xứng đáng, cờ phải lộng bay, để rủ là
mắc tội. Những lần cưới vợ cho anh Chiểu và anh Hân đều từ quan điểm ấy: Các
nàng dâu đều đạt 4 chuẩn mực. Đám cưới chị Mười vợ anh Hân tạo nên tiếng vang
khắp vùng. Trong tiềm thức của dân làng Mây có hai ấn tượng không thể lu mờ về
nhà họ Đào: đám tang cụ Hội và đám cưới anh Hân. Ngay ở tỉnh thành, cũng ít nhà
sánh được. Nói riêng hai món chim câu tầm sâm nhung và chim câu quay đủ thấy mức
diệu vợi nhường nào. Trong đàn 200 con của trang viên, ông Bá chỉ cho phép thịt
150 con. Còn phải mua bổ sung 50 con nửa. 500 con gà có thể kiếm dễ như trở bàn
tay. Nhưng 50 con chim ở vung quê, lùng cho đủ khó ngang với việc đãi vàng.
Hàng ngày kén khách lắm, nên sản xuất nó không được kinh tế bằng gà, mặc dù là
thứ quí. Một con gà luộc xếp đầy đĩa sắt tây. Muốn được một đĩa chim như thế phải
mất 4 con, 2 con chim giá bằng 1 gà. Như vậy đĩa chim đắt gấp đôi. Nhưng món
chim không thể đơn giản luộc lên như gà được, phải rô-ti mà màu vẫn cứ đen
thui, sánh sao được màu vàng ngậy của gà. Khi tết nhất, giỗ chạp, gà luộc vẫn cứ
là món thịnh hành trên các mâm cỗ vùng quê. Vậy nên không mấy người mua loại
gia cầm này. Thành thử bao giờ nó vẫn là loại hàng hiếm. Mà hiếm ắt phải đắt.
Cho nên, chỉ thiếu có 5 chục chim mà phái cả chục người tỏa sang mấy làng bên
lùng kiếm mấy hôm liền, dĩ nhiên phải chịu giá cắt cổ.

Sau đó đến mùi soa(1) cho khách ăn bằng phin nõn có thêu chim và
hoa. Ăn xong, khách của anh Hân ra sân nhảy đầm, ban nhạc mời từ Hải Phòng về.
Dân làng mấy xã bên hay tin kéo đến xem nhảy đầm còn đông hơn cả đi xem hội làng dạo năm ngoái.

Khi quyết định lập gia thất cho anh Hân, ông Bá cho người ra Hải Phòng tìm
anh về, bàn tính đại sự. Anh nói:

- Con ít khi ở nhà, lấy người ta về rồi có gây nghĩ ngợi cho người ta không?

- Nghĩ ngợi cái gì? Sao lại sinh nghĩ ngợi? Anh có đi đâu thỉnh thoảng cũng
phải về nhà, chứ chả nhẽ đi biệt. Thế thì có gì ngãng trở tác thành duyên phận
này?

Anh Hân đưa ra lý do thế để thoái thác khéo, mà không dám nói thẳng. Anh thừa
biết tính gia trưởng của cha. Từ chối thẳng thừng hoặc bàn dùn, bàn ngãng ra,
chỉ gây bất lợi cho anh. Vậy tốt hơn là anh cứ a dua theo, ít nhất còn được sự
vui vẻ của cha.

Nhưng với anh Hân, người Tây có học, thì việc chung sống với hai người vợ
dù xinh đẹp cũng chỉ là nét đẹp quê mùa, lại ít học, thì khác nào một hình phạt.
Bị chi phối bởi phong cách từ lâu đã thấm đẫm tân thời văn minh,
cộng thêm Pháp văn thành thạo, anh giao du với nhiều người
ở tầng lớp cao của xã hội, cũng như với không ít người Pháp (mà ở quê vẫn quen
gọi “ông Tây bà đầm”) anh cũng có tâm lý chung như người đời là muốn với cao.
Và anh đã với tới được.

______________________________________

(1) Mouchoir:
Khăn tay
 

Nói theo kiểu của Dịp là “anh Hân lơn được con đầm non”. Và cuộc tình đó nó
cho ra đời một thằng Tây lai. Ông bố bà mẹ Tây ngậm đắng nuốt cay đưa con đến
nhà thương sinh cháu ngoại xong rồi đưa hai mẹ con về biệt thự cấm cung cho đỡ
dơ mặt với bạn bè. Khi tình hình Hải Phòng có dấu hiệu bất ổn, họ chuẩn bị về
Pháp. Cô đầm hở tin đó cho tình lang hay. Anh lo mất hẳn con, liều thú thật với
cha.

Ông Bá đem bốn gia nhân, tức tốc băng đêm tối, gần như chạy bộ ra Hải Phòng
để làm một việc tày đình: Tập kích vào tư thất nhà người Pháp kia, quyết dành lại
cháu nội. Khi quyết định ông cảm thấy quá sức, như một đô vật hạng trung phải đấu
với đô vật hạng nặng. Nhưng vẫn phải đấu, không thể khác. Làm sao có thể ngồi
nhìn máu thịt của mình bị cướp đi. Sau này làm sao sang Tây để tìm cháu!

Vào lúc xuất phát, ông thấy con rùa được nuôi từ thời cụ Hội – đang ì ạch
bò trên sân, bèn nảy ra một kế vặt, bèn lệnh cho đem nó theo.

Đến Hải Phòng vào lúc nhọ mặt. Đèn đường đã bật vàng ệch như thuốc kí
ninh. Đội gồm È, Cuộc, Dịp, Phưỡn, mỗi người từ lâu được đặt cho một biệt hiệu
theo đặc điểm ngoại hình. Mấy năm nay, không hiểu sao má È xuất hiện hai mảng
trắng lốp như màu lợn cạo, trông cứ như mặt hề tuồng, gọi
là È – bạch – tạng, ngắn gọn là Bạch tạng. Phưỡn, bụng hơi to hơn bình thường,
đặc điểm nổi bật là khi đi không bao giờ vung tay, mà tay trái quặt sau lưng nắm
lấy tay kia buông thõng, gọi gà Phưỡn Khóa – tay. Còn Cuộc – tanh – tách là từ
đặc điểm đang ngồi đứng lên đi là các khớp xương phát ra âm thanh lách tách, ngồi
càng lâu, tiếng nổ càng rộ, nghe như chảo ngô rang. Còn một nhân vât khá đặc biệt,
hiện không có mặt là Miên – hãm – phanh: Chuyện vui khiến anh cười đổ hồi,
nhưng tắt lịm được ngay, kèm theo vẻ mặt tỉnh khô như không hề có chuyện gì trước
đó.

Ông tạt vào gọi anh Hân
rồi tìm một phòng trọ cho quân nghỉ tạm. Sau khi ăn một bữa “cơm tỉnh’ mà sau
này tấm tắc khen mãi mỗi khi nhớ lại, chúng nói nhỏ với nhau: “Giá mà có thêm
vài cút cay thì không còn chê vào đâu được!” Nhưng ông cấm ngặt vì say khướt sẽ
làm hỏng việc. Ừ, “nam vô tửu như kỳ vô phong” thật, nhưng “tửu nhập ngôn xuất”,
mà cái “ngôn” có mùi rượu thường là “ngôn” bậy. Ấy là chưa tính đến “tửu nhập
ngôn cuồng”. Ông vào nghỉ ở đây cốt lấy chỗ kín đáo để bài binh bố trận cho
quân gia, không có ý định qua đêm tại Hải Phòng, vì kế hoạch để đến mai mới tiến
hành sẽ không được “thiên thời”. Hoạt động phi pháp phải làm ban đêm mới đắc
sách, lỡ bị lộ còn dễ luồn lách thoát thân.

- Nào, nghe tao nói
đây. Anh Hân đi xe đạp dẫn đường. Tao và bốn chúng mày đi hai xe tay(1).
Một thằng bê con rùa vào cửa nhà nó gạ bán.

___________________________________________________________

(1) Xe có phần ngồi giống xích lô, có
càng phía trước để người kéo.

- Có ai biết nói tiếng
Tây đâu ạ.

- Không cần. Nói tiếng
ta nó cũng hiểu. Vừa gạ vừa chìa con rùa ra là nó hiểu hết. Cho con rùa bò mấy
bước để nó xem. Hễ thấy thằng bé Tây lai ra xem, thì một thằng bế thốc lấy nó.
Hẳn nó sẽ khóc, mồm há ra thì ấn luôn cái khăn này vào, chạy nhanh ra xe đợi sẵn.
Ngồi trên xe, phải kìm chặt kẻo nó giãy giụa lăn xuống đường. Người của nhà Tây
sẽ đuổi theo thì một đứa chặn lại, giật cho ngã, không thì nó cướp người lại mất.
Nếu nó chồm dậy được và đuổi theo, một thằng khác chờ sẵn ở mép đường cho nó đo
đường lần nữa. Có hiểu đo đường là gì không?

- Thưa có ạ.

- Được rồi. Thế đứa nào
nhận làm người bán rùa?

- Ông để con lo – lông
– mũi nhanh nhẩu.

- Mày không làm việc
này được. Tây đầm trong thấy bộ lông mũi của mày thò ra như cặp đuôi cáo thế
kia, chúng nó sợ mất hồn, thụt vào trong mất. Mày được cái mồm mép, làm việc
này cũng hợp. Hay cắt tạm đuôi cáo đi, dăm bảy hôm, cùng lắm nửa tháng mọc lại
như cũ thôi.

- Ối giời! Con lạy ông.
Cắt đi thì nguy lắm ông ạ. Thầy Koóng dạy thế đấy. Ông cho con làm việc ngáng
chân thằng Tây. Con giã vờ chạy vội, nên xô vào vờ ngã rồi chìa chân ra khoèo cẳng
nó. Đang chạy mà bị khoèo thì đến cụ nó cũng phải ngã chổng vó. Bán rùa thì để
anh Tanh – tách làm thì hơn, ông ạ.

- Được. Thằng Phưỡn làm
việc chộp Tây con nhá.

- Ấy, ông ơi. Anh Khóa
– tay trông có vẻ thành thật, nhưng bụng anh ấy thế kia, bị giảm mất cái nhanh
hẹn.

Phưỡn tức khí, trả đũa
liền:

- Vâng, bụng mày nhỏ
thon. Giá mà không có hai búi lông chó ở mũi, chắc trông đẹp giai nhất tổng đấy.

- Thôi – ông Bá quát –
Có câm mẹ mồm chúng mày đi không! Việc đại sự thế này mà còn cãi nhau được! Tao
không hiểu chúng mày là đồ con gì nữa. Thôi, để thằng Phưỡn bán rùa vậy. Chộp
Tây con giao thằng È.

- Dạ thưa ông -  Dịp vội cắt ngang, song sực nhớ ra là không
nên nói công khai, ghé rỉ tai ông – Tây con nom thấy mặt Bạch – tạng sợ lẩn vào
nhà mất.

Ông gật đầu:

- Thế thì thằng È đánh
đòn ngáng chân thứ nhì. Thằng Cuộc chộp Tây con – Bạch – tạng tuy không được
sáng dạ lắm, song cũng đoán được điều Dịp vừa rỉ tai ông Bá, lườm nó một cái rõ
dài. Ông Bá trình bày tiếp chiến thật:

- ... Việc này hệ trọng
đấy, Cuộc ạ. Này cầm lấy cái khăn tay, đừng đút túi, nhỡ rơi mất. Nếu để thằng
Tây con khóc suốt đoạn đường tháo chạy là hỏng bét đấy. Từ phút này, cứ lăm lăm
cái khăn trong tay cho tao. Anh Hân đưa thêm cái khăn của anh cho nó đút túi,
phòng khi cuống đánh rơi cái kia. Chộp sao cho chớp nhoáng, gọn như đại bàng quắp
công chúa trong truyện Thạch Sanh ấy. Mà không bay được như đại bàng thì chân
phải chạy như biến.

Anh Hân, vẻ phờ phạc,
vô hồn, lòng đau xé nghĩ đến người tình tâm đắc vài hôm nữa phải ngậm sầu dứt bỏ
anh. Thế là vĩnh viễn mất em rồi! Anh buộc lòng phải giữ lại đứa con chung. Anh
hứa sẽ nuôi dạy nó nên người. Sau này yên bình, thế nào chúng mình cũng tìm được
nhau, dù có trùng khơi cách trở. Niềm tin son sắt của anh là mẹ con em sẽ đoàn
tụ. Hãy rộng lòng tha thứ cho anh về cái việc anh sắp làm đây, cũng chỉ vì con
chúng mình thôi. Anh thẫn thờ nói:

- Thầy ạ, làm thế khổ thằng bé quá. Nó quá sợ sẽ hỏng người mất. Chẳng khác
nào bắt giặc!

- Thôi được, anh thương con thì thầy cũng biết. Nếu anh nghĩ được cách gì dụ
êm nó thì tôi
cho tụi này lui gót ngay. Thế nào?... Không làm được chứ gì? Cực chẳng đã thôi,
con ạ. Việc làm cũng nhanh thôi mà. Khi ta rút qua cầu Niệm thì coi như đâu vào
đấy. Từ lúc ấy, mình dỗ dành nó. Thôi, xuất quân! Nhớ là khi xe tao bốc chạy rồi,
ba thằng kia nhanh chân luổn vào đám đông, ngõ ngách rồi tìm đường ra cầu Niệm.
Chúng tao đợi ở chân cầu bên kia. Nói dại, ai không may bị tóm, cấm khai ra việc
này. Khai là em anh Hân 70A Ben-gích. Ben-gích, nhẩm kỹ vào, ra tỉnh chơi, bị lạc. Nếu nó không thả ra
thì sáng mai anh Hân đến đồn cảnh binh xin ra.

Ông Bá thuê hai xe tay trực sẵn ở lề đường đối diện số 16 Bis, phố Paul Bert, thường gọi
là phố Tây, chính là tư thất sắp bị quân biệt động của ông đánh đòn bất ngờ.
Ông ngồi trên xe sau, đưa mắt quan sát trận địa lần nữa xem còn gì phải nhắc nhỡ
không... thì quân của ông đã xung trận. Không ngờ trận mở màn lại trôi chảy đến
thế. Thằng Tây con đang đứng ở cổng đợi ông nó, vừa thấy con rùa Phưỡn chìa ra,
đã vội sấn tới, trố mắt nhìn như đóng đinh con mắt vào, liền bị Tanh – tách chộp gọn. Thằng bé mới chửi được mỗi câu “Merde, Salaud” thì
cái khăn được tống vào mồm. Nó kêu “ú ú” trong cuống họng, quẫy đạp tung hoăng,
nhưng bị cắp gọn ra xe. Khách chưa kịp an tọa thì càng xe đã cất lên rồi lăn
bánh thục mạng. Xe sau bám theo xe trước, giữ khoảng cách từ cột đèn này đến cột
đèn kia.

Ông Tây vừa dắt xe đến cổng, thấy cháu bị bắt cóc, tức thì quay ngoắt xe, nhảy phốc lên yên. Lông- mũi chưng hửng đứng nhìn.
Nó không chạy để ngáng chân thì xô cho xe đổ, có thế mà không linh hoạt ứng
phó. Đầu óc tay này chậm như rùa, chỉ xà xẻo là nhanh như chớp. Ông Tây cắm cổ đạp thục mạng với tốc độ
có thể một cuarơ(1) cũng chỉ được đến thế. Ông Bá nghe phía sau có
tiếng Tây xì xồ quát tháo ỏm tỏi, chuông xe kính koong liên hồi mỗi lúc một gần,
ngoái lại, trong ánh đèn đường đang quét loang loáng do các chao đèn bị gió lộng
đung đưa, thấy ông Tây đang trợn mắt phun không ngớt những tiếng mà mấy lần ông
nghe ông Chiểu và anh Hân cãi nhau. Chắc là câu chửi. Ông hô khẽ:

- Giữ phần lấy ra giữa đường, nới rộng phần bên phải!

Phu xe y lệnh và xe đang chiếm tuyến thượng phong. Ông Tây định vượt lên
phía bên trái cho đúng luật thì xe tay đã tranh mất đường, đành đánh sang vượt
bên phải. Đợi xe lết rướn lên ngang với xe tay, ông reo thầm: “Chết rồi con ơi!
Con đang vượt trái luật”, rồi hô giật giọng:

- Tạt sườn!

__________________________

(1)
Tay đua
 

Bất thần phu xe đánh càng sang phải một góc thước thợ. Ông Tây có tài thánh
cũng không
phanh kịp, xô vào xe tay mạnh đến mức khung gãy rời và tay xe đổ kềnh, đè lên
chân ông Tây. Tình huống không được lường trước. Lại thêm tiếng Tây không biết,
ông lúng túng giây lát, rồi đầu óc bất thần bừng sáng làm vọt ra một cách xử
trí mà sau này ông không thể giải thích được. Ông
đến sát ông Tây hỏi vừa tiếng ta vừa tiếng Tây đá gà
nhau, thứ tiếng Tây bồi ông học lỏm qua những lần anh Chiểu dạy thằng Bỉnh:

- Toa đau quá! Moa sa voa toa đau. Cu li ma lat, cu li tòm bê. Pạc đồng
mông sia. Mao đền toa, pay ê lác giăng cho toa. Com biểng?(1)

Ông Tây đang ôm chân nhăn nhó ngẩng người lên chửi:

- Conchon! Fermez ta gueule!(2)

Vừa lúc ấy một ông Tây lái xe bình bịch ba bánh(3) của cảnh sát
nhà binh xịch đỗ.

Ông Tây đau chân gọi giọng đồng hương, chắc là nhờ chở lên nhà thương. Chờ
bình bịch đi xa, ông Bá gọi phu xe:

- Dậy thôi, nó quên mày và tao rồi. Tao giúp mày một tay dựng xe lại xem có
hỏng gì không... Vênh vành, gãy đũa đúng không?

- Vâng.

- Đây, tao đền tiền xe 3 đồng. Tiền chữa hết bao nhiêu?

- Hỏng nặng thế này, nhà xe nó chém sâu đấy.

- Tao đưa hẳn 2 chục này.

- Vâng, con đội ơn ông.

Ông gọi xe khác. An tọa rồi, ông buông tiếng thở cái “phù” như thể trút sạch
mọi âu lo, giờ ông mới có thời gian nhớ lại diễn biến của trận đánh. Một nụ cười
bỗng nở trên môi. “Phúc cho tổ mày là mày bị thương. Nếu không mày mà xông vào choảng tao, hẳn ăn được miếng “độc cước vu hồi”,
toi đời là cái chắc.”

__________________________________________________________________

(1)
Ông đau quá. Tôi biết ông đau. Phu xe ốm, nó bị ngã. Xin lỗi. Tôi đền tiền ông,
trả tiền cho ông. Bao nhiêu?

(2) Đồ
con lợn, câm mẹ mồm lại!

(3) Môtô
thùng.

11 giờ đêm, ông mới tới được địa điểm tập kết. Anh Hân và các gia nhân đang
chờ sẵn. Câu đầu ông hỏi anh Cuộc về chiến tích giành được vẫn còn nằm trên
lưng.

- Thằng cháu hết sợ rồi hả? Bỏ khăn trong mồm cháu ra chưa?

- Vâng, lấy ra rồi. Nó không khóc nữa, nhưng có vẻ vẫn hơi sờ sợ.

Ông cố nhớ chữ “đói” của tiếng Pháp mà thằng Bỉnh vẫn nói với ông tỏ vẻ giỏi
tiếng Tây. À “phanh”, đúng “phanh”. Ông vỗ vai cháu mấy cái:

- Moa phanh. Còn toa, toa có phanh không?(1)

Cháu ông ngẩng phắt đầu khỏi vai anh Cuộc, nhìn thẳng vào mặt ông, giọng
hùng hổ:

- Non, je n’ai pas. Cochon!

A, thế là nó hiểu điều ông hỏi, dù ông nói tiếng bồi, lại tạp pí lù Tây ta
lộn xộn. Thừa nhận thằng này sáng dạ.

- Anh Hân, thằng con anh nói gì thế?

- Nó bảo “Tao không đói”. Chúng mày là đồ con lợn! – quay sang nhìn thằng
con – Đừng có nói láo thế, con. Đây là ông nội người đẻ ra tao, cũng như tao đẻ
ra mày. Đây là các chú trong nhà, rất yêu quí con – Ai nấy cùng phì cười khoái
chí. Có lẽ lần đầu tiên trong đời họ cười với người vừa chửi rủa mình. Đây cũng
là lần đầu tiên trong đời họ gặp thằng bé lạ đến thế, vừa bị họ bắt cóc xong,
tưởng phải nhiều ngày nữa vẫn chưa hoàn hồn, thế mà chỉ sau một lúc nó đã khảng
khái vênh mặt chửi đốp lại. Thằng bé này vừa hồn nhiên vừa can đảm, đến bụt cũng
phải nhếch mép cười nếu thấy hành động của nó vừa rồi. Riêng ông Bá thì niềm
vui vừa rồi còn bắt nguồn từ một miềm mênh mông trong tâm thức. Giờ đây, dòng họ đã làm được
một việc mà có lẽ tiền nhân cũng
chưa hề mơ tới: Đưa một dòng máu lạ về hòa với huyết thống họ Đào để sáng tạo
nên một dòng máu khác, chắc hẳn ưu việt hơn nhiều. Dòng máu từ bên trời Tây chảy
trong những con người đã làm nên những sự kiện lạ kỳ như phép thần thông, mà
ông từng nghe kể.

___________________________________________

(1) Ông
đang đói. Còn cháu có đói không?

Ông lại gần, ghe xem thằng bé ngủ chưa.

- Cháu ông gắng thêm một chốc nữa nhá. Về đến nhà, ông dành giường
nệm ngủ cho êm lưng nhá. Nằm úp
mặt lên vai chú Cuộc này, rập
rình, rập rình, khoái phải biết. À, ông nhớ ra rồi “ngủ” là “đoóc mia”. Toa
đoóc mia nhá.

- Qu’est ce que dormir? Cochon!(1)

Anh Cuộc ngoái lại bảo nó:

- Mày láo quá, lại rủa ông là đồ con lợn? Ngủ đi!

Lần thứ hai ông không thể nhịn cười. Thôi được, dù ông có thành con lợn cả
trăm lần cũng không sao. “Cô sông” cũng đúng thôi. Nó đang sống yên lành với mẹ
và ông bà, bỗng dưng cái lão già này dẫn người đến bắt đi, bắt phải úp mặt vào
cái lưng hôi như chuột trù, lại còn nhăn nhở dỗ dành mãi. Thế không phải “cô
sông” thì là gì? Hay lắm, sợ chó gì mấy thằng “ăn cướp” này, cháu cứ chỉ thẳng
vào mặt ông mà rủa “cô sông”, ông càng vui, vì thằng bé con mang dòng máu họ
Đào này có chất
anh hùng. Là con cháu ông thì phải thế. Bây giờ cháu chưa biết ông là ai, cháu
chưa cảm nhận được tấm lòng của ông đối với cháu rộng lớn và sâu sắc như thế
nào, thì cháu còn rủa “cô sông”, chứ sau này khi ông đã hiểu rồi á... thì chắc chắn không còn “cô
sông” nữa mà là “bông bông”, “bông giua”(2).
Tiếc thật, nếu biết có đứa cháu Tây thế này thì ông đã học tiếng Tây rồi, giờ
đây ông cháu mình thỏa sức pác-lê phăng-xe(3)
chính hiệu, chẳng phải nói tiếng bồi ăn đong thế này. Ông lại ghé xem nó ngủ hay vẫn thức. Nhờ chút ánh sáng bàng bạc hắt
từ mặt sông, ông thấy mắt nó mở thao láo.

- Qu’est ce que tu voix? Conchon!(4)

- Đã bảo không được hỗn cơ mà – anh Hân vỗ vào vai nó.

_____________________________

(1) Ngủ
cái gì? Đồ con lợn!

(2)
Bon bon, bonjour: Tốt tốt, cháu chào ông.

(3)
Parler Francais: Nói tiếng Pháp.

(4) Nhìn
cái gì? Con lợn!

 

- Á à, lại cho ông thêm câu chửi nữa! Ông biết mình “cô sông” rồi – quay
sang anh Hân – Anh có phải quay lại Hải Phòng không?

- Thưa thầy, mai con có việc bận ạ.

- Ừ, thế về đi. Còn chúng mày theo tao: Hồi dinh! Trận tập kích đại thắng.
Mai, tao trọng thưởng chúng mày.

Ông bước thoăn thoắt trên vệ đê, cảm nhận mát lạnh nơi bàn chân trên lớp cỏ
ươn ướt sương. Lòng ông vui như mở hội. Trong đời, đã nhiều lần ông đón nhận niềm
vui, song quả thật lần này không gì sánh được. Trong lòng, cảm giác chộn rộn,
lâng lâng, háo hức và kiêu hãnh trộn lẫn nhau, thành một cảm giác tổng hòa như
men say. Ông đi trong mịt mùng đêm, nhưng trong tâm trí lại bừng sáng hình ảnh
khu vườn trang viên họ Đào: mướt xanh như ngọc, bỗng như có phép lạ: một cây
mang lá đỏ rực vươn lên giữa vườn. Màu xanh bên cạnh màu đỏ đẹp lên trông thấy.
Vẻ đẹp của màu đỏ độc đáo cũng được tôn lên gấp bôi. Khu vườn màu xanh và đỏ ấy
đang rộn ràng trong gió của buổi bình minh, giữa không gian tinh khiết đến nao
lòng.

Thằng Tây lai được ông đặt cho cái tên Hoan để vần với tên cha nó, cũng nhằm
để kỉ niệm niềm vui đặc biệt ở trang viên. Ông chọn chị Tàm có đức cẩn thận,
chu đáo và cái chính là phúc hậu làm vú nuôi cho thằng Hoan.

Mấy ngày đầu ngôn ngữ bất đồng, hai vú con trao đổi thông tin khó như đánh
vật. Nó đòi uống nước, vú lại đi lấy cơm. Nó lắc đầu, vú lấy chuối,
lại lắc. Vú mở hộp bích
qui, nó hất hàm:

- Cochon!

Vú ẵm đặt nó xuống đất để chạy nhảy cho đỡ buồn thì nó co
chân lên và nói một tràng tiếng Tây, tay trỏ vào chân. Vú đoán nó bị đau chân liền gọi ông Bá:

- Ông ơi, hình như cháu Hoan bị đau chân.

Ông đang ăn cơm, vội đặt bát, chạy xuống xem. Ông sờ nắn kỹ nhưng không thấy
xây xát, sưng tấy gì. Ông cho nó đứng thử trên giường, nó đứng được, còn nhẩy
nhẩy mấy cái. Vú bế đặt nó xuống đấy lần nữa, nó co chân lên:

- Cochon! Cochon!

- Từ nãy cháu cứ luôn mồm “cô sông”, như là nó bực tức cái gì.

- Nó bảo mày là đồ con lợn đấy. Hình như nó không quen đi đất. Mày xỏ giầy
cho nó xem nào.

Quả nhiên ông đoán đúng. Xỏ giầy xong, nó chạy huỳnh huỵch ra sân đuổi chim
đang tụ tập chờ ăn.

- Tây nó không biết đi đất như mình. Mày nhớ lấy. Không biết tiếng nó thì
phải đoán, hoặc ra hiệu. Tao làm thử một lần cho mày xem. Hỏi nó có khát không
nhá – ông cầm chén ra chỗ Hoan, đưa chén lên miệng uống không khí, rồi giơ chén
ra và gật gật với nó, ý nói: uống nhá. Đấy, mày thấy nó gật đầu chưa? Đi pha
cho nó chén nước chanh, nhanh lên!

Ông cho nó uống xong, giơ chén hỏi:

- Uống cháu gọi là gì? Măng-giê(1) hả?

- Non, boir(2).

________________________

(1)
Ăn.

(2)
Không phải – Uống.

- Đấy, “boa” là “uống”, nghe thấy chưa? “Uống” là “boa”. Mày có thấy nó
sáng dạ, tinh khôn không? Hỏi thế nào mà nó cũng đoán ra. Con cháu họ Đào không
thể dốt nát được...! – ông kéo dài chữ “được” bằng cái âm thanh người ta vẫn
dùng để diễn đạt một sự việc hiển nhiên.

- Thưa ông, vâng. Nhưng thưa ông, con bón cơm, nó không chịu ăn. Suốt ngày
ăn bích qui với chuối trừ bữa, thì lớn sao được.

- À, tao quên lặng đi. Tây nó quen ăn bánh Tây. Từ mai bảo thằng Dịp lên tỉnh
mua bánh Tây cho nó. Mỗi ngày làm trứng ốp cho nó, hai ngày ăn một con chim hầm hay rô-ti
cũng được, thỉnh thoảng thay chim bằng gà, ghà mái ghẹ ấy. Cứ để nó ăn kỳ chán
thì thôi, không được hà tiện. Không biết làm thì nhờ bà Bá cả dạy cho, hay là
nhờ chị Chiểu cũng được. Tao miễn tất cả các việc cho mày rảnh tay mà chăm nuôi
nó. Không được rời mắt khỏi cháu một khắc nào, nghe chưa?

- Thưa ông, vâng.

- Ao chôm nước cả, để cháu tha thẩn bờ ao, lỡ sa chân xuống là mất người
như bỡn. Có vớt kịp thì cũng bĩnh bụng nước rồi, không còn ra hồn người nữa. Nó là Tây,
nhưng máu mủ lại thuộc họ Đào này. Mày thấy cả gầm trời này, đào đâu ra một người
như nó. Nó quí hơn vàng ngọc, hơn cả tao.

- Ông cứ nói! Nó là cháu, sao hơn ông được ạ?

- Về thứ ngôi, tao hơn nó. Về dòng máu, tao chỉ có một, nó có những hai, mà
cái máu Tây của nó mới là máu quí. Tây họ làm được ôtô, tầu bay từ lâu rồi, ta
làm được đâu. Người ta bảo hai thứ máu này trộn vào nhau sẽ đúc ra con người
tinh khôn hơn cả Tây gốc cơ. Nó hơn tao ở cái nghĩa ấy.

- Vâng, con hiểu rồi.

 

Báo cáo nội dung xấu