Tam sinh tam thế Chẩm thượng thư - Phần I - Chương 04 - Phần 1
Chương
4
Phượng Cửu ngủ li bì không biết trời
biết đất, lúc tỉnh lại, nghe bên tai có tiếng gió rít ù ù, tưởng mình đang nằm
mơ, lại bình thản nhắm mắt ngủ tiếp. Hai mắt vừa khép lại, bỗng giật mình, lập
tức mở ra. Mão Nhật Tinh Quân điều khiển cỗ xe mặt trời, rắc ánh ban mai vàng
óng xuống khắp thế gian, tiến đến gần, nhìn thấy Đông Hoa, vội vàng xuống xe,
cúi lạy.
Những ngọn tiên sơn ẩn trong mây
trôi vụt qua dưới chân, vài đỉnh núi xanh thẫm nhô lên lọt vào tầm mắt. Phượng
Cửu ngơ ngẩn hồi lâu, vận khí run run nhấc tay lên, nhìn lại mình, quả nhiên vẫn
còn là chiếc khăn lụa. Dáo dác nhìn quanh, muốn biết vì sao tiếng gió lại nghe
rõ đến thế, hóa ra mình bị buộc vào chuôi kiếm Thương Hà, đeo ở thắt lưng Đông
Hoa, cùng chàng lướt gió cưỡi mây.
Nàng mơ màng nhớ lại đêm qua đáng
ra đã trốn ra ngoài rồi, tại sao lại ở đây, chẳng lẽ sau đó lại bị bắt trở về?
Nhưng cũng không nhớ gì về chuyện đó. Có thể là nàng chưa hề trốn đi, lúc Đông
Hoa thay xiêm áo xong lại đặt nàng vào trong ống tay áo rồi đi ngủ, nàng cũng
ngủ theo, sau đó tất cả đều là chiêm bao? Nàng cố giữ thân cho vững, càng nghĩ
càng thấy có lý, rồi lại thấy đó là một giấc chiêm bao đẹp, bỗng muốn rơi lệ…
Khi núi Phù Vũ hiện ra trước mặt,
cơn gió lạnh thê lương thổi qua, Phượng Cửu mới chậm chạp hiểu ra, hôm nay Đông
Hoa có trận giao chiến với Yến Trì Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc,
thì ra nàng bị đưa đến Nam Hoang này mà không biết gì.
Nói đến ân oán giữa Đông Hoa và Yến
Trì Ngộ phải tính từ ba trăm năm trước, theo đồn đại nguyên cớ là vì một thiếu
nữ. Tất nhiên lời đồn này chỉ lan truyền trong một số ít người, những ai hiểu
rõ nội tình đều cảm thấy Đông Hoa rất oan uổng.
Chuyện là, năm xưa Hú Dương, quân
vương của Xích chi, một trong bảy chi của Ma tộc, muốn liên hôn với Thần tộc, định
đem tiểu muội của mình là công chúa Cơ Hoành gả cho Thần tộc, chọn đi chọn lại,
cuối cùng chọn Đông Hoa Đế Quân ở cung Thái Thần. Nhưng Hú Dương đâu biết,
huynh đệ kết nghĩa của mình là Yến Trì Ngộ, quân vương của Thanh chi đã sớm có
tình ý với công chúa Cơ Hoành, vốn nổi tiếng có thể hiểu được tiếng nói của
loài hoa. Tuy nhiên công chúa Cơ Hoành bản tính đa cảm, dễ động lòng trước những
công tử phong lưu biết làm thơ sầu muộn, chơi cầm khúc bi ai. Đáng tiếc Yến Trì
Ngộ có cái tên phong lưu nhất Nam Hoang, thực ra lại là một kẻ lỗ mãng, công
chúa Cơ Hoành không mấy để ý đến chàng, lại thích Đông Hoa, người có phẩm vị
phi phàm mà ca ca nàng đã chọn hơn. Thậm chí có vài lần trước mặt Yến Trì Ngộ
còn tán dương Đông Hoa vài câu. Lời tán dương đó như mồi lửa ném vào cơn ghen
đã tích tụ bấy lâu của Yến Trì Ngộ. Chàng Yến tức khí đầy vơi, lại không nỡ
trút giận lên đầu mỹ nhân, liền hùng hổ hạ chiến thư đến cổng cung Thái Thần, đến
tìm Đông Hoa đòi quyết đấu. Lúc đó Đông Hoa đã ở ẩn trong cung nhiều năm không
bận tâm thế sự, nhưng thấy đối phương đã đưa chiến thư đến tận cửa nên cũng chấp
nhận. Núi Phù Vũ một trận ác chiến, đất trời biến sắc, cỏ cây tan tác, cuối
cùng do Yến Trì Ngộ chơi xấu nhân lúc Đông Hoa không đề phòng, dùng Tỏa Hồn Ngọc
nhốt chàng vào Thập Ác Liên Hoa Cảnh, cho nên Phượng Cửu mới có cơ hội ở bên bầu
bạn với Đông Hoa ba tháng.
Khi đó Phượng Cửu rất cảm kích Yến
Trì Ngộ, tưởng rằng bởi chàng ta phá đám nên việc liên hôn giữa Đông Hoa với Ma
tộc đương nhiên hủy bỏ, vậy là cũng phần nào an tâm. Hơn nữa, thấy Đông Hoa
cũng không mấy coi trọng chuyện liên hôn kia, dần dần buông lỏng cảnh giác, những
tưởng có thể kê cao gối ngủ yên.
Nào ngờ ba tháng sau, cung Thái Thần
chỉ sau một đêm muôn hoa đua nở, treo đèn kết hoa rực rỡ. Trong ánh chiều dương
ấm áp, chiếc kiệu đưa một đại đại quý nhân vào cửa chính cung Thái Thần. Vị đại
đại quý nhân này chính là nàng Cơ Hoành hồng nhan họa thủy. Trên cầu Bạch Ngọc,
giai nhân vén rèm xuống kiệu, ngón tay ngọc ngà yểu điệu vịn thành cầu chạm
chim phượng tao nhã, môi hồng răng trắng, mắt sáng đôn hậu, mặt hồ sóng xao phất
phơ khói biếc, mái tóc cuốn cao soi nghiêng đáy nước, chỉ nhẹ nhàng đứng đó liền
trở thành cảnh đẹp tuyệt thế lung linh mộng ảo.
Phượng Cửu tựa vào chân Đông Hoa,
ngẩn ra nhìn.
Cả cung Thái Thần, Phượng Cửu là
người cuối cùng biết tại sao lại có cảnh tượng trên cầu Bạch Ngọc, mà lại biết
qua miệng Tri Hạc, hóa ra Đông Hoa đã đồng ý hôn sự này, hình như còn rất thoải
mái. Chỉ vài câu nói đơn giản lọt vào tai nàng giống như tiếng sét ầm ầm giáng
xuống giữa trời quang, trong chớp mắt nàng cảm giác trời đất tối sầm.
Còn về chuyện ngày đại hôn, nương tử
xinh đẹp trùm khăn đỏ không hiểu sao lại biến thành Tri Hạc, mấy ngày cuối cùng
trước khi bỏ đi, đầu óc nàng cứ hỗn loạn u mê, không hiểu rõ lắm. Nhưng hồi đó
Tri Hạc có nói với nàng rằng ở phàm trần thường có những chuyện như thế, một
vài nam thanh nữ tú có tình với nhau, nhưng do tuổi trẻ bồng bột, khó mà hiểu
được lòng nhau, phải đợi đến lúc một trong hai người chuẩn bị kết hôn mới chợt
tỉnh ngộ, đó chính là ngưỡng mà những người hữu tình nên vợ nên chồng nhất định
phải trải qua, do vậy mới có câu hôn nhân là hòn đá thử vàng để biết ai chân
tình ai không, nàng ta và Đông Hoa cũng như thế.
Hồi đó Phượng Cửu còn chưa từng trải,
một lý do lạ lùng như vậy cũng tin. Nàng quá ngây thơ nên vô cùng tổn thương,
chỉ cảm thấy trong lời giải thích của Tri Hạc có duy nhất một chỗ không thỏa
đáng là tuổi của Đông Hoa chắc không thể dùng hai chữ “nam thanh”, cách ví von
đá thử vàng hình như cũng không dùng như vậy.
Bây giờ nghĩ lại, có thể tất cả đều
là Tri Hạc bịa đặt, nếu không cớ chi sau đó Thiên Quân nổi giận, đẩy nàng ta xuống
Hạ giới khổ tu để trừng phạt. Từng trải nhiều, đầu óc không còn ấu trĩ như trước,
về sau nàng ngẫm ra, rất ít khả năng Đông Hoa thích Tri Hạc. Nếu sau một hồi
vòng vèo ngoắt ngoéo chàng thực sự động lòng trước nghĩa muội hời hợt kia, thì
chàng cũng không xứng với tấm chân tình của nàng, với lòng ngưỡng mộ dành cho
chàng bấy nhiêu năm, ngay từ thuở nàng còn thơ bé.
Rốt cuộc chân tướng thế nào, nàng
có một suy đoán mơ hồ, lờ mờ cảm thấy sự thể có lẽ là như vậy, nhưng chuyện này
cũng không biết tìm ai để xác nhận. Chỉ cảm thấy năm đó Đông Hoa đồng ý hôn sự
với Cơ Hoành rất có thể là do thực lòng coi trọng Cơ Hoành. Thật ra, ngay con mắt
nhìn khắt khe của nàng cũng phải thừa nhận trong những tiên nữ, yêu nữ của tứ hải
bát hoang, công chúa Cơ Hoành là một nữ tử hiền lương, cương liệt hiếm có.
Không kể dung mạo xinh đẹp thế nào, đức độ, hiền lương, khiêm nhường thông tỏ lễ
nghĩa ra sao, chỉ riêng sự vô tư giúp Đông Hoa và nàng mấy lần trong Thập Ác
Liên Hoa Cảnh đã muôn phần đáng khen ngợi. Đông Hoa thích nàng ta cũng là chuyện
hết sức tự nhiên, dù năm xưa ở Thập Ác Liên Hoa Cảnh, Phượng Cửu cũng từng cứu
chàng, nhưng cho dù trong những vở kịch hoang đường nhất mà cô cô Bạch Thiển của
nàng sưu tầm được cũng không viết thế này: Một cô nương và một con thú cưng
cùng cứu chàng công tử nho nhã, về sau công tử lại thích con thú cưng, không
thích cô nương kia. Vậy nên thua Cơ Hoành, lòng nàng cảm thấy rất phục.
Trên đỉnh Phù Vũ gió lạnh gầm rít từng
trận, trong chớp mắt mây cuồn cuộn kéo đến dày đặc, mênh mông nhưng tiêu điều,
rất giống cảnh chiến trường. Phượng Cửu dứt mình khỏi chuyện xưa, lòng vốn hơi ủ
dột, nhìn thấy cảnh tượng trước mặt đột nhiên cao hứng hẳn.
Nàng sinh ra trong thời bình, mấy
trận chiến nổi tiếng ghi trong sử sách nàng chưa một lần chứng kiến, luôn phiền
não vì chưa tích lũy được kiến thức nào về mặt đó. Hiếm hoi mới có trận chiến
giữa cô phụ Dạ Hoa với Quỷ Quân Kình Thương hơn hai trăm năm trước, nghe nói là
một trận đại chiến, nhưng lúc ấy nàng xui xẻo bị mắc kẹt ở trần thế báo ân. Hai
trăm năm nay, mỗi dịp sinh nhật, nàng đều thành tâm cầu nguyện mong mấy vị đại
thần tiên nổi tiếng khắp thiên địa bất hòa mà đấu đá lẫn nhau, nhưng ông trời
không có tai, trái lại để họ tình cảm mỗi năm càng sâu đậm. Nàng vốn đã không
còn hy vọng gì được thỏa giấc mộng kia, ai ngờ hôm nay ngẫu nhiên thế nào lại
may mắn được tận mắt chứng kiến. Lòng nàng mừng khôn xiết.
Bất luận thế nào, vị Ma vương này từng
lừa được Đông Hoa, dù thủ đoạn có hơi bỉ ổi nhưng có thể thấy cũng có chút tài
năng, chắc là một đối thủ lợi hại. Nghe đồn chàng ta bản tính phóng khoáng,
không câu nệ tiểu tiết, nàng liền nghĩ chắc là một trang hảo hán tráng kiện,
tay vung đôi rìu Tuyên Hoa, giậm chân một cái là đất rung núi chuyển, hô một tiếng
là gió vũ mây vần. Trong tưởng tượng của Phượng Cửu, Yến Trì Ngộ kia phải có sức
mạnh như thế. Nàng vừa tưởng tượng, vừa bị tưởng tượng của mình khuất phục, nín
thở chờ Đông Hoa vén lớp sương mù dày đặc để nàng vinh hạnh được chiêm ngưỡng vị
anh hùng hào sảng kia.
Núi Phù Vũ nằm ở giao giới giữa Nam
Hoang thuộc quyền quản lý của Ma tộc và Đông Hoang lãnh thổ của Bạch hồ tộc, sừng
sững khuất trong mây, là ngọn núi nổi tiếng ở Tiên tộc và Ma tộc.
Mây mù dày đặc tản ra, trên đỉnh
Phù Vũ lại không hề có vị hảo hán tay cầm rìu Tuyên Hoa nào hết, chỉ thấy một
chàng trai rất trẻ xiêm áo đen tuyền, dáng mảnh khảnh ngồi xổm trên đỉnh núi
đang sốt ruột cắn hạt dưa, vỏ hạt dưa rơi đầy trên đất. Phượng Cửu nhìn quanh,
thầm nghĩ chắc Ma vương đến muộn vì lý do nào đó. Nhưng bỗng thấy chàng trai
đang cắn hạt dưa kia vọt lên một đám mây, xông thẳng đến chỗ họ. Thấy chàng
trai phong lưu, tuấn tú, tao nhã, môi hồng răng trắng, trông cũng đẹp trai,
không biết là thần tiên phương nào, nàng bất giác liếc nhìn.
Chàng trai tuấn tú cưỡi mây dừng
cách bọn họ mấy chục trượng, không biết từ đâu rút ra một thanh trường kiếm,
sát khí đằng đằng chỉ vào Đông Hoa, quát lớn: “Bà tổ ngươi, đồ Mặt lạnh, làm mỗ
đợi chết mệt suốt nửa ngày, mỗ chúa ghét kẻ lề mề, hay là ngươi sợ mỗ rồi! Mau
rút binh khí ra, mỗ cùng ngươi tốc chiến, hôm nay không đánh cho ngươi rụng sạch
răng trả mối thù lần trước thì mỗ đây không còn là mỗ nữa!”.
Phượng Cửu ngớ người.
Nàng sửng sốt nhìn chàng trai đẹp
mã luôn mồm xưng mỗ kia, nuốt nước bọt, hiểu ra chắc chàng ta chính là Yến Trì
Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc. Nhưng có điều không hiểu, những
tin đồn về Yến Trì Ngộ nàng nghe được đều nói tên ma đầu này là một kẻ lỗ mãng
không hiểu phong tình cho nên công chúa Cơ Hoành mới không ưng. Lẽ nào những kẻ
lỗ mãng của Ma tộc đều bạch diện thư sinh, da dẻ mịn màng như thế? Nàng bất
giác lại hình dung, vậy thì những trang quân tử nho nhã nghe đồn rất mực phong
lưu của Ma tộc trông sẽ thế nào? Khi nàng hình dung ra một đại hảo hán tráng kiện
râu ria bờm xờm tay cầm quạt, hướng về mặt trời lặn sầu muộn ngâm mấy câu thơ
bi lụy, đột nhiên dạ dày nàng cuộn lên.
Thái độ của Đông Hoa hoàn toàn
không có gì đáng ngạc nhiên, sau đoạn mở màn hùng hồn của Yến Trì Ngộ, chàng chỉ
nho nhã giơ tay nói: “Mời!”. Thái độ thờ ơ rõ ràng đó khiến Yến Trì Ngộ nổi
đóa, trừng mắt lộ bản chất lưu manh: “Mỗ mời bà tổ ngươi!”. Lời vừa dứt, cuồng
phong tức thì nổi lên thổi bạt ma chướng mờ mờ xoáy tròn sau lưng chàng ta, lộ
ra mặt nước rộng ngút ngàn, trên mặt sóng đen cuồn cuộn là một đội giáp binh
tay cầm binh khí xếp thành hàng.
Phượng Cửu chưa từng thấy cảnh tượng
như thế này, giật nảy mình. Đông Hoa lại rất bình tĩnh, còn giơ tay vuốt lại
chiếc khăn là nàng bị gió thổi cuộn lại, khiến nàng có thể bám chắc vào chuôi
kiếm của chàng.
Yến Trì Ngộ cười khẩy, mặt diễm sắc
như hoa xuân dưới trăng, lạnh lùng hừ một tiếng: “Mỗ dám một mình quyết đấu với
ngươi là đã chuẩn bị vẹn toàn”. Phượng Cửu lại nghĩ miên man, Cơ Hoành không
ưng họ Yến kia, có lẽ còn ẩn tình khác, có thể nàng ta cảm thấy không nên lấy một
phu quân có ngoại hình đẹp hơn mình, nếu sánh vai bên nhau e là mất thể diện. Lại
thấy Yến Trì Ngộ chỉ tay vào đội giáp binh dưới chân cười vô cùng đắc ý, nụ cười
khiến gương mặt chàng ta càng thêm rạng rỡ. Phượng Cửu thầm gật đầu, phải rồi,
Cơ Hoành không ưng chàng ta, đa phần vì lý do này.
Yến Trì Ngộ sau khi cười đắc ý xong
lập tức nghiêm mặt, lạnh lùng buông lời đe dọa hùng hồn: “Đã nhìn thấy chưa,
pháp trận yểm ma này mỗ vừa nghiên cứu thành công, được luyện từ bảy nghìn sinh
linh cõi trần, tốn bao nhiêu tâm huyết của mỗ. Mặc dù đều là ác linh, nhưng nếu
ngươi đả thương chúng là vĩnh viễn cắt đứt đường cải tà quy chính chuyển kiếp
luân hồi của chúng. Mỗ muốn xem xem Thiên tộc các ngươi tự nhận là từ bi làm thế
nào phá trận pháp này của mỗ!”. Trong chớp mắt, khi Yến Trì Ngộ vừa dứt lời, đội
giáp binh luyện từ bảy nghìn sinh linh người phàm mang theo mưa to gió lớn lao
vào họ hết lớp này đến lớp khác, tất cả vẫn trong hình hài con người, nhưng ánh
mắt dữ tợn tham lam như mắt sói đói, binh khí trong tay tỏa sát khí lạnh lẽo
quyết đưa người ta vào chỗ chết.
Trong cuồn cuộn sóng nước mênh
mông, bảy nghìn sinh linh chen chúc, người trước ngã xuống người sau lao lên, cảnh
tượng thực khủng khiếp. Phượng Cửu run bần bật nép vào thắt lưng Đông Hoa, từ
nhỏ nàng mắc chứng sợ đông đúc chật chội, đột nhiên nhìn thấy cảnh đó chỉ thấy
toàn thân nổi da gà, quên luôn chuyện trải nghiệm cái mới, chỉ nghĩ cách làm
sao thoát thân dưới mắt Đông Hoa.
Vẫn chưa nghĩ ra được gì, thanh kiếm
Thương Hà đã tự động rời khỏi bao nằm chắc trong tay Đông Hoa, cao ngạo bay
trên đỉnh Phù Vũ. Trong chớp mắt ánh sáng bạc bùng ra như pháo hoa chiếu khắp
vùng đất dài trăm dặm(*), nuốt chửng lớp lớp khí đen ngùn ngụt, hiện ra hàng vạn
bóng kiếm giống nhau. Phượng Cửu bàng hoàng bị bao vây giữa trùng trùng bóng kiếm
loang loáng ánh bạc, chỉ thấy trước mắt một màu sáng chói, đầu choáng váng. Phượng
Cửu không nhìn rõ những bóng kiếm đó bay ra thế nào, chỉ thấy hình như mình
cũng đang bay loạn xạ, đầu càng choáng váng. Bên tai toàn những thấy tiếng rền
rĩ thê thảm lẫn trong tiếng gió rít và mây đen cuồn cuộn, khi định thần trở lại
đã thấy trở về trong tay Đông Hoa, sắc máu đỏ tím nhuộm sóng nước thành một màu
kỳ dị, thỉnh thoảng có đám sương máu bay lên bờ nhưng lại giống như độc dược cực
mạnh, chạm vào cây cỏ, cây cỏ liền hóa thành làn khói xanh. Sau đó giọng nói
không chút cảm xúc của Đông Hoa vang lên: “Phá rồi!”.
(*)
Dặm: Đơn vị đo độ dài cổ Trung Hoa, bằng 500 mét.
Phượng Cửu đầu óc choáng váng, thầm
nghĩ phá cái gì?
Ồ, là trận pháp thất đức mà Yến Trì
Ngộ tốn bao công sức tạo ra đã bị Đông Hoa phá.
Nàng vừa ôm Thái Dương định thần trở
lại, mắt vừa quen với ánh sáng bình thường, liền thấy Yến Trì Ngộ cầm thanh kiếm
nặng trịch, mặt hầm hầm xông đến: “Bảy nghìn ác linh do mỗ luyện mặc dù phạm
Thiên đạo nhất định sẽ bị trừng phạt, nhưng cũng phải do thiên lôi nhà trời trừng
phạt, các ngươi là thần tiên chẳng phải nên hết lòng phổ độ cho chúng sao? Hôm
nay kiếm của ngươi nhuốm máu chúng, sẽ chỉ gánh thêm danh hiếu sát, ngươi ra
tay dứt khoát như vậy, không sợ có ngày bị trời trừng trị tội hiếu sát ư?”.
Phượng Cửu sức cùng lực kiệt lẩm nhẩm
niệm Phật, cầu mong ông trời phù hộ để lưỡi kiếm của Yến Trì Ngộ chém trúng vào
thân kiếm Thương Hà, không chệch một phân một tấc. Nhưng nhìn thế kiếm hung hãn
kia, nàng lại ở gần chỗ hai kiếm giao nhau như vậy, kể cả họ Yến kia ra tay
không chệch một phân một tấc, có thể nàng cũng bị kiếm khí đả thương. Nhất thời
bỗng thấy tủi thân, thầm nghĩ Đông Hoa sao có thể thất đức đến vậy, chẳng qua
nàng chỉ nói đùa một câu là chàng biến thái vậy mà cũng để bụng. Rồi lại có tâm
lý buông xuôi, mặc kệ, nếu hôm nay thực sự bị chàng hại chết, xem chàng ăn nói
thế nào với Thanh Khâu, ăn nói thế nào với gia gia, nãi nãi (bà nội), phụ thân,
mẫu thân, với bá phụ, bá mẫu, cô cô, cô phụ, tiểu thúc, tiểu thúc phụ của nàng!
Đang hào hứng nghĩ bỗng một tia chớp
xẹt qua khiến nàng giật thót, nhìn thấy một tia sáng bạc đột ngột hiện lên phía
chân trời, mây đen dạt ra, bóng kiếm trắng như tuyết chém thẳng vào đó, tiếng
binh khí chạm nhau chói tai. Sau vài chiêu qua lại, Yến Trì Ngộ đột nhiên đau đớn
kêu lên một tiếng, chân lảo đảo lùi lại cả trượng, Đông Hoa lạnh lùng hỏi lại:
“Tội hiếu sát ư?”. Giọng dù lãnh đạm nhưng khí thế nặng nề: “Bản quân mười vạn
năm nay không tham chiến, ngày trước bản quân nắm trong tay sinh tử của lục giới,
phong cách thế nào ngươi quên rồi ư?”.
Tiếng gió ù ù thổi làm Phượng Cửu lại
choáng váng đầu óc. Đông Hoa ngày trước. Ôi, Đông Hoa ngày trước.
Nhắc đến chuyện này, Phượng Cửu còn
nắm chắc hơn nắm gia bảo, nguồn gốc Thanh Khâu, gia phả nhà ngoại nàng chẳng
thuộc chút nào nhưng quá khứ của Đông Hoa nàng có thể thao thao bất tuyệt kể liền
ba ngày đêm. Có thể nói hồi đi học nàng luôn đứng đầu môn lịch sử thượng cổ
trong tiên sử, tất cả đều nhờ phúc của Đông Hoa. Hôm nay nàng cho rằng chẳng
còn duyên nợ gì với Đông Hoa, đầu óc quay cuồng thử nhớ lại, tất cả những truyền
thuyết về Đông Hoa nàng vẫn nhớ rành rành.
Tương truyền, khi Bàn Cổ dùng một
nhát rìu phân tách thiên địa, phần nhẹ, trong, bay lên làm trời; phần nặng, đục
hạ xuống làm đất, thế giới không còn là một khối tròn như quả trứng nữa, có tạo
hóa âm dương, hóa sinh ra rất nhiều tiên, yêu, ma, quái, tranh giành chỗ tu
thân ở tứ hải bát hoang. Hồng hoang thời viễn cổ không phì nhiêu, phong phú như
bây giờ, trên trời dưới đất cũng không nhiều luật lệ quy chế như vậy, phần lớn
thời gian là loạn lạc, thường xuyên xảy ra tranh giành, đánh giết, ngay các vị
thần tiên ngày nay rất coi trọng lấy lòng từ bi phổ độ chúng sinh, sát khí cũng
rất nặng nề.
Thời đó, Nhân tộc cùng một bộ phận
Yêu tộc còn chưa bị đày xuống Đại Thiên Thế Giới ở Phàm thế, nhưng trời đất hóa
sinh ra họ thực sự nhỏ bé, yếu ớt bất đắc dĩ phải phụ thuộc vào Thần tộc và Ma
tộc lớn mạnh, sống những ngày ăn nhờ ở đậu bí bách ở tứ hải bát hoang.
Vạn vạn năm vụt trôi, trời đất đã mấy
phen đổi chủ, khi Ma tộc làm bá chủ, lúc Thần tộc cai quản càn khôn, thi thoảng
cũng có lúc Quỷ tộc may mắn được làm chủ, nhưng tộc nào bá chủ thời gian cũng rất
ngắn.
Mọi người đều rất mong xuất hiện một
vị anh hùng khiến lục giới đều khuất phục, cam tâm tình nguyện cúi đầu, chấm dứt
thời kỳ loạn thế, để các tộc được sinh sống bình yên. Mà tộc nào cũng hy vọng vị
anh hùng đó giáng sinh vào tộc mình. Đó là thời đại chúng sinh đều rất chất
phác, hầu như không hề có tâm địa gì, ngây thơ cho rằng sinh càng nhiều thì
càng có khả năng sinh được anh hùng. Vì vậy trong mấy năm ngắn ngủi, sáu tộc
Tiên, Quỷ, Thần, Ma, Nhân, Yêu, tộc nào cũng vô cùng đông đúc, con đàn cháu đống.
Nhưng khi nhân khẩu quá đông rắc rối
cũng nảy sinh, thấy đất đai không đủ, chiến tranh giành giật đất đai giữa các tộc
ngày càng ác liệt. Nhưng ông trời luôn như vậy, ý trời không thể lường được.
Chính lúc các tộc tiếp tục ngày đêm nỗ lực sinh sản mong sinh được anh hùng,
lao vào cuộc chiến tranh giành đất đai không có thời gian kêu ca thì vị anh
hùng đã ra đời ở Bích Hải Thương Linh, nơi tận cùng của trời, không cha không mẹ,
được trời đích thân sinh ra.
Nơi sinh là vùng hồ hoa lệ rực rỡ của
Đông Hoang, lấy hai chữ trong đó, định ra tôn hiệu là Đông Hoa. Chính là Đông
Hoa Đế Quân.
Mặc dù Đông Hoa sinh ra là để trở
thành anh hùng của thời đại đó và truyền thuyết của những thời đại về sau,
nhưng không giống thái tử Dạ Hoa của Thiên tộc hiện nay, là người gánh vác sứ mệnh
lớn lao do trời chỉ định, lúc Đông Hoa ra đời lại vô cùng lặng lẽ, chẳng hề có
những điềm báo đại loại như cả thiên địa đều tỏa hào quang, bốn mươi chín con
chim ngũ sắc bay lượn trên Bích Hải Thương Linh gì đó. Lặng lẽ đến mức mọi người
đều không biết Đông Hoa sinh ra như thế nào.
Chỉ có một đoạn trong sử sách viết
rằng, Đế Quân nhận thiên trạch, uống nước nguồn, hội tụ tinh hoa vạn vật mà
thành linh thai. Nhưng trời đã sinh chàng ra sao, là từ trong tảng đá bay ra
hay một ông lão đốn trúc đột nhiên phát hiện ra chàng ngồi trong thân cây trúc
bèn mang về nuôi dưỡng, sử sách chỉ có một đoạn sơ lược như vậy, không có ghi
chép nào cụ thể hơn.
Đông Hoa mặc dù từ nhỏ đã phải gách
vác trọng trách nặng nề, nhưng hồi nhỏ sống rất bình thường, cô độc lớn lên ở
Bích Hải Thương Linh, không có thân tộc bảo vệ che chở, thường chịu sự ức hiếp
của các tiên yêu ma quái xung quanh. Hồng hoang viễn cổ không như bây giờ, muốn
học gì đều có thể tìm thầy chỉ dạy. Mọi bản lĩnh của Đông Hoa đều dựa vào quả đấm
mà ngộ ra, chiến tích cả đời cũng có được qua từng trận ác chiến thực sự.
Suối thiêng vạn năm không cạn của
Bích Hải Thương Linh không biết đã nhuộm đỏ bao lần, chàng trai áo tím tài năng
trác việt giẫm lên chồng chất xương khô cuối cùng đứng trên đỉnh cao nhất của lục
giới, thống nhất lục giới tứ hải lục hợp làm yên lòng chúng sinh bát hoang.
Con đường thành tài của chàng khác
với thượng thần Mặc Uyên cai quản âm nhạc và chiến tranh mấy vạn năm trước,
càng không giống Dạ Hoa Quân chiến tích lẫy lừng thời gian gần đây. Hai vị đó,
một vị từ nhỏ đã được Phụ Thần, người tạo ra trời đất nuôi dưỡng dạy dỗ; một vị
được Nguyên Thủy Thiên Tôn của Đại La Thiên Thượng Thanh Cảnh cùng với Quan Thế
Âm đại từ đại bi của Tây Phương Phạn Cảnh hợp lực điểm hóa, đó là cách nuôi dạy
truyền thống của các thế gia.
Phượng Cửu hồi nhỏ càng ngưỡng mộ
Đông Hoa hơn, trước hết bởi chàng từng cứu mạng nàng, nhưng sâu xa hơn là do
lòng sùng bái tôn kính, nàng cảm thấy mọi sự chàng đều dựa vào nỗ lực bản thân,
lại có thể một mình kết thúc thời loạn thế, xoay chuyển càn khôn thuở hồng
hoang, quả thực quá thần kỳ.
Có thể ngồi vững trên ngôi vị bá chủ
thiên địa trong thời sát phạt hỗn chiến hồng hoang thật không dễ, chỉ cần hơi mềm
lòng, nhẹ tay, bên dưới sẽ lập tức hỗn loạn, chỉ có máu lạnh, vô tình trấn áp mới
giữ được bình yên. Cho dù sau này Thần tộc dần dần lớn mạnh, Đông Hoa dần dần
nhường quyền cai quản cho Thiên Quân lúc đó còn nhỏ, lui về cung Thái Thần ở Nhất
Thập Tam Thiên hưởng thú thanh nhàn, nhưng uy danh máu lạnh năm xưa vẫn lưu
truyền khắp lục giới. Bởi vậy lần này Yến Trì Ngộ những tưởng có thể dùng bảy
nghìn sinh linh áp chế chàng, hèn chi chàng chỉ lạnh lùng hỏi một câu, có phải
đã quên phong cách cai trị lục giới năm xưa của chàng. Đông Hoa thực sự không
phải là một vị tiên tâm bồ đề đại từ đại bi. Xưa nay vẫn vậy.
Thật ra, Đông Hoa rốt cuộc có được
tính là tiên không, điều này còn phải bàn lại.

