Tam sinh tam thế Chẩm thượng thư - Phần II - Chương 02 - Phần 1
Chương
2
Ngày hôm sau, mới sáng sớm Phượng Cửu
đã đến tông học, muốn hỏi đồng môn phu tử rốt cuộc có tên húy là gì. Nàng quả
thực không ngờ muốn xu nịnh người khác lại khó khăn như vậy, hơn nữa tên của vị
phu tử này lại bị giấu kỹ hơn cả khuê danh của các tiểu thư. Trong tông học, nửa
năm nay, ngoài Yến Trì Ngộ, Phượng Cửu chỉ giao hảo với nhị hoàng tử Tương Lý
Manh, nhưng khi đến chỗ Manh thiếu gia hỏi thăm, ngay Manh thiếu gia cũng không
thể nào biết được tôn húy của lão phu tử.
Giờ Mão (từ năm giờ đến bảy giờ
sáng), trên trời một vầng trăng đơn độc tỏa ánh sáng trong trẻo, thông thường
lúc này chỉ có mấy học trò con nhà quan nghèo chuyên cần dùi mài kinh sử, nhưng
hôm nay từ xa đã nghe thấy tiếng ồn ào trong tông học, tiếng nói tuy không to,
nhưng âm thanh như vậy không phải một, hai người có thể tạo ra được. Phượng Cửu
lờ mờ cảm thấy có trò hay để xem, lập tức hết buồn ngủ, rảo bước đi đến lòng thầm
nghĩ, chim dậy sớm có sâu ăn, hôm nay ngủ ít một canh giờ quả không thiệt.
Không biết ai đã hiến mấy viên dạ
minh châu, cả học đường rộng lớn sáng trưng, Phượng Cửu lặng lẽ lẻn vào từ cửa
sau, ngước mắt thấy đa số đồng môn đều có mặt, hơn nữa còn tấp nập qua qua lại
lại, hình như đang bố trí cạm bẫy ngầm gì đó quanh học đường.
Người chống eo cầm tờ sơ đồ rách chỉ
huy mọi người chính là đường muội (em họ) của Manh thiếu gia, quận chúa Khiết Lục.
Phượng Cửu đứng bên cạnh một lúc,
trong thời gian đó có hai, ba đồng môn đi vào, có mấy người giao hảo với Khiết
Lục bước lên thăm dò, Phượng Cửu nghe được đại khái.
Thì ra hôm nay vốn có một tiên quân
nào đó ở Cửu Trùng Thiên đến giảng về trà đạo cho họ, chiều qua khi tan học lại
nghe phu tử nói tiên quân đó bận việc lần này không đến được, sai một vị tiên
bác đến thay, hôm nay chính là ngày vị tiên bác đó đến giảng. Kế hoạch của bọn
Khiết Lục là dùng những cái bẫy này đuổi vị tiên bác kia đi, như thế môn trà đạo
không có ai giảng, có thể vị tiên quân trên trời biết bọn họ tha thiết mong chờ
ngài như vậy sẽ đích thân đến giảng bù cho họ. Phượng Cửu cảm thấy họ nghĩ như
vậy quả thực quá ư ấu trĩ, ngây thơ.
Phượng Cửu đến tông học này chưa
lâu, chỉ nghe nói vài lời đồn về vị tiên quân này. Trong những lời đồn ấy, mọi
người do cung kính đều không nhắc đến danh hiệu của vị này, hình như là một bậc
tiên giả vô cùng tôn quý. Vị tiên tôn quý đó nghe nói có địa vị rất cao ở Cửu
Trùng Thiên, Phật duyên cũng rất dày, nhưng xưa nay chưa từng nạp đệ tử, nghe
đâu năm xưa Thiên Quân có ý đem thái tử Dạ Hoa đến cầu vị đó nhận làm đệ tử
cũng bị từ chối. Tóm lại, đó là một nhân vật lớn rất lợi hại, một nhân vật lợi
hại như vậy lại coi trọng bộ tộc Tỷ Dực Điểu bé nhỏ này, bằng lòng đến giảng dạy
ở tộc của họ, mặc dù mười năm mới đến một lần, hơn nữa mỗi lần cũng chỉ lưu lại
nửa tháng, một tháng, cũng khiến cả bộ tộc cảm thấy vinh hạnh. Điều duy nhất
đáng tiếc là bộ tộc này xưa nay không giao du với bộ tộc khác để đến nỗi vinh hạnh
chói lọi đó bị bưng bít trong cốc, không có chỗ tỏa sáng, khiến người ta không
khỏi thấy tiếc.
Khi Phượng Cửu mới nghe nói về vị
tiên kia, trong đầu liền điểm qua một lượt những vị thần tiên nàng biết ở Cửu
Trùng Thiên, chọn ra được hai người, một là Đông Hoa, hai là Thái Thanh Đạo Đức
Thiên Tôn trong Tam Thanh Tứ Ngự(*), còn gọi là Thái Thượng Lão Quân. Từ chối
không nhận Dạ Hoa làm đệ tử quả thực là chuyện Đông Hoa có thể làm ra, nhưng lại
nghĩ Đông Hoa không phải là người thích gây rắc rối cho bản thân, đến đây giảng
bài trong khi nơi này có nhiều nữ đệ tử phiền phức như vậy, trước đây chẳng phải
chính vì chàng sợ bị các nữ tử của Ma tộc đeo bám mới từ bỏ Ma đạo sao? Trái lại
Thái Thượng Lão Quân của cung Đâu Suất có vẻ là một ông lão rất thi vị, nhưng
Lão Quân lại có nhiều người ở Phạn Âm Cốc ngưỡng mộ như vậy là điều Phượng Cửu
không ngờ tới.
(*)
Tam Thanh Tứ Ngự chỉ ba vị thiên thần có địa vị cao nhất trong Đạo giáo là
Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn, Đạo Đức Thiên Tôn và bốn vị đại đế
là Bắc Cực Đại Đế, Trường Sinh Đại Đế, Thiên Hoàng Đại Đế, Hậu Thổ Hoàng Địa Chi.
Trời rạng dần, có thể nhìn thấy
ngoài cửa sổ những ngọn núi như được đẽo gọt mà thành, sương mù trên đỉnh núi
tan đi, cây cối xanh ngắt, lộ ra chút sinh khí trong gió tuyết.
Các đồng môn đã bố trí xong cạm bẫy
ngầm, đang giải lao đứng thở thì Manh thiếu gia lặng lẽ đi vào, nhìn thấy cảnh
đó sững ra một lúc. Phượng Cửu thấy bộ dạng chàng ta như định khuyên đường muội
điều gì, liền nhích về phía họ hai bước dỏng tai ghe.
Manh thiếu gia quả nhiên thở dài
nói với quận chúa Khiết Lục: “Bản thiếu gia biết muội có tình ý rất sâu với vị
đó, nhưng người ta biết được bao nhiêu, có từng bận tâm đến muội không? Luận tuổi
tác vị đó xứng là lão tổ tông của lão tổ tông của lão tổ tông muội, muội như vậy
có khi còn làm phiền người ta, từ đó người ta không đến tộc ta giảng bài nữa”.
Lại thở dài lần nữa: “Thực ra chuyện đó với ta thì không sao, nhưng mẫu quân sẽ
trị tội muội rất nặng, lúc đó có khi muội lại trách ta không nói đỡ cho muội. Vả
lại, mấy ngày trước ta nghe nói ở Cửu Trùng Thiên vị đó đã tìm được hiền thê, mặc
dù chưa bái thiên địa nhưng đã đối xử như với phu nhân của mình, nghe đồn ngài
rất coi trọng rất cưng sủng nữ tử đó, thậm chí hai người còn tắm chung ngủ
chung với nhau… Này này này, muội khóc cái gì, đừng khóc nữa…”.
Quận chúa Khiết Lục nói khóc là
khóc luôn, không chút nể mặt đường huynh (anh họ) của mình. Tiếc là Manh thiếu
gia có bộ dạng phong lưu nhưng lại không biết ứng phó với nước mắt của nữ nhân,
ngây người không biết làm gì.
Phượng Cửu quay người đi, giơ tay
khép lại cái quai hàm vừa rồi ngạc nhiên quá rớt xuống, chống tay vào bàn từ từ
ngồi xuống tự rót cho mình cốc trà lạnh uống cho bớt kinh ngạc: Ở Cửu Trùng
Thiên người phong lưu nhất phải kể đến tam hoàng tử Liên Tống của Thiên Quân,
nhưng ngay Liên Tống cũng chưa thấy bị đồn đại chưa bái thiên địa đã tắm chung,
mà cho dù có làm chuyện đó cũng nên bưng bít cho kín, vậy là mình đã xem thường
Thái Thượng Lão Quân rồi. Chà chà, thì ra Thái Thượng Lão Quân không hề ăn
chay, ngài quá thẳng thắn, quá lợi hại, quá xuất chúng.
Phượng Cửu đang cắn ngón tay út thầm
khâm phục cảm thán, lại nghe thấy quận chúa Khiết Lục nức nở nói: “Huynh cố
tình, huynh thầm yêu đế cơ Thanh Khâu mà không có được nàng, mới mong thiên hạ
ai cũng cả đời cô quả như huynh, tôn thượng ngài thanh cao như vậy sao có thể
dính dáng tới tin đồn thế tục. Những gì huynh nói về ngài, muội không tin một
chữ nào”. Nói xong giậm chân bỏ đi.
Phượng Cửu ngước nhìn thấy sắc mặt
Manh thiếu gia như tái nhợt, bốn chữ “đế cơ Thanh Khâu” mà Khiết Lục vừa nói
nàng nghe rất rõ, đầu tiên là hơi ngạc nhiên, sau đó bàng hoàng. Lòng thầm nghĩ
cô cô của mình mặc dù đã xuất giá vậy mà tiếng thơm vẫn không kém năm xưa, ở một
nơi xa xôi thế này vẫn có chàng thiếu niên bị cô cô làm cho hồn xiêu phách lạc,
thật là làm cho nhà họ Bạch nở mày nở mặt. Nhưng Manh thiếu gia quá non so với
cô phụ, cho dù chàng ta có cơ duyên đến trước mặt cô cô, cô cô chắc chắn cũng
không để mắt đến chàng ta. Phượng Cửu nhìn Manh thiếu gia đang đứng ngơ ngẩn
phía xa, vô cùng thông cảm lắc đầu, đúng lúc chàng ta ngoái lại liếc về phía
nàng, hai ánh mắt gặp nhau.
Hai người nhìn nhau một lát, Manh
thiếu gia cầm bản sơ đồ rách quận chúa Khiết Lục cầm lúc trước, vẫy nàng đến:
“Cửu Ca, lại đây, việc bố trí cạm bẫy công chúa thạo nhất, ta thấy sơ đồ này của
Khiết Lục có nhiều chỗ chưa ổn, nàng ta đã muốn làm bẫy này, tốt nhất là để vị
tiên bác đến giảng thay kia rơi vào bẫy hai, ba ngày cũng không ra được, không
thể giảng bài thay thì tốt. Công chúa xem nên bố trí lại thế nào?”.
Tiếng “Cửu Ca” này Phượng Cửu biết
là đang gọi nàng, ở Phạn Âm Cốc, nàng mượn thân phận cửu công chúa của bộ tộc Dạ
Kiêu, khuê danh của cửu công chúa chính là Cửu Ca. Manh thiếu gia đúng là một
người anh họ tốt, bị em họ chế giễu như vậy mà vẫn nghĩ cho nàng ta, thật là rộng
lượng. Phượng Cửu bê cốc trà lạnh ghé lại nhìn sơ đồ trong tay chàng ta, chẳng
qua chỉ là mấy trò đơn giản sơ sài, có thể hại vị tiên bác xúi quẩy đến giảng
bài lần này bị dính ít nước, ngã mấy cái, ăn ít vôi mà thôi, theo kinh nghiệm đấu
trí nhiều năm của nàng với các phu tử thì thật chẳng đáng kể.
Phượng Cửu giơ tay chỉ vào học đường:
“Những chỗ khác nên dỡ đi, chỗ này dùng pháp thuật làm một cái giếng sâu thông
với sông Tư Hành ở ngoại thành rồi dùng phép che mắt, đảm bảo vị đó một khi giẫm
lên là “rầm” một cái rơi xuống, chắc chắn mười ngày nửa tháng không thể xuất hiện
trước mặt hai chúng ta”.
Manh thiếu gia suy nghĩ một lúc rồi
trả lời: “Như vậy có ác quá không? Nếu vị tiên bác đó quay lại trách tội…”.
Phượng Cửu uống ngụm trà: “Hoặc
cũng có thể xem xét đào một cái hố sâu ở chỗ này, bên dưới cắm đao nhọn truyền
đầy thần lực, đợi ông ta rơi xuống, “xử” ông ta luôn, thế là xong. Đương nhiên
so với cách trước thì việc vứt cái xác hơi phiền phức một chút”.
Manh thiếu gia cầm bản sơ đồ hồi
lâu: “... Ta thấy cách ban đầu tốt hơn”.
Đỉnh núi Phù Vũ đá sừng sững, rừng
rậm rạp, mặc dù đã vào đông, nhưng cây cối vẫn chưa nhuốm màu khô héo, cây lá vẫn
rậm rạp tỏa bóng, chỉ loáng thoáng lộ ra vài mảnh trời xanh be bé. Thinh không
vẳng qua tiếng hạc tiên lảnh lót cùng với tiếng vỗ cánh vun vút, vừa nhìn đã biết
là một ngọn tiên sơn không bình thường.
Trọng Lâm, vị tiên trông coi sổ
sách của cung Thái Thần đứng ở trước vách đá của Phạn Âm Cốc, vô cùng lo lắng
thở dài. Bắt đầu từ hơn hai trăm năm trước khi Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh hỗn loạn
không yên, cứ mười năm Đế Quân lại mượn danh nghĩa dạy học vào Phạn Âm Cốc một
lần, khử sạch khí đục tam độc từ Tuệ Minh Cảnh tràn ra. Đế Quân bí mật đến đây,
lần nào cũng do ông đi theo, lần này không có ông, không biết Đế Quân ngài sống
ở đó liệu có quen.
Sự tồn tại của Diệu Nghĩa Tuệ Minh
Cảnh ngoài thần sáng thế thời thượng cổ, không có mấy người biết, mặc dù mang một
cái tên của nhà Phật, thực ra nó không phải là nơi đất lành. Ngay từ thuở hồng
hoang, sau khi thiên địa như quả trứng gà vỡ vỏ hóa ra mới có tứ hải lục hợp
bát hoang để chúng tiên, ma sinh sống, và rất, rất nhiều năm sau sinh ra hàng tỷ
Đại Thiên Phàm thế. Phàm thế là nơi con người sinh sống, nhưng con người bản
tính phàm tục đã gieo mầm nghiệp, chưa quá trăm năm, vô vàn Phàm thế đã tích tụ
bao nhiêu khí đục do ba thứ độc tham, sân, si kết thành. Bị thứ khí độc nặng nề
này quấy nhiễu khiến các Phàm thế lễ giáo băng hoại, chiến loạn triền miên,
sinh linh lầm than, có cơ diệt vong. Để bảo vệ Phàm thế, Đông Hoa đã bế quan bảy
đêm tạo ra một thế giới khác trong thiên địa để thu hết khí đục từ tam độc mà
các giới không thể chịu đựng, đó chính là Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh sau này. Mấy
chục vạn năm vụt trôi như bóng câu qua cửa, do Tuệ Minh Cảnh như chiếc vại lớn
chứa hết tam độc mà thế gian không thể chứa đựng, thiên địa mới trở nên thanh
bình.
Nhưng đến một ngày nếu Diệu Nghĩa
Tuệ Minh Cảnh sụp đổ sẽ là đại nạn của cả con người và thần tiên.
Trọng Lâm trộm nghĩ, điều bất hạnh
là cái ngày đó thực ra đã đến từ ba trăm năm trước, nhưng may thay, Đế Quân bỏ
chút thời gian sửa chữa nó, khiến các vị thần tiên tránh được kiếp nạn mà không
hề hay biết. Bất hạnh hơn là sự cứu vãn của Đế Quân thực ra chỉ là kéo dài thêm
thời hạn sụp đổ của nó, rốt cuộc có thể kéo dài được bao lâu không ai biết. Vả
lại, hơn hai trăm năm nay, khí đục tam độc trong Tuệ Minh Cảnh bắt đầu lan dần
ra ngoài, may có Phạn Âm Cốc vẫn là nơi đất sạch không bị vẩn đục bởi hồng trần
đặc biệt thu hút khí đục phát tán, mới khiến Đế Quân không cần phí nhiều công sức
gom chúng lại bèn có thể một lần tịnh hóa chúng, cũng may là bộ tộc Tỷ Dực Điểu
có thể chất đặc biệt, khí đục tam độc này không gây hại cho họ như khí đục hồng
trần.
Trọng Lâm chống vào tảng đá thở dài
lần nữa. Rất nhiều người lầm tưởng Đế Quân ở trong cung Thái Thần là ẩn dật hưởng
phúc, đương nhiên, phần lớn thời gian ngài quả thực là đang hưởng phúc thanh
nhàn, nhưng vào lúc quan trọng này, Đế Quân vẫn rất hữu dụng, rất đáng tin cậy.
Có điều, hôm nay Trọng Lâm đứng đây
thở dài không chỉ vì những đại sự của thiên địa này, hôm nay Đế Quân có vẻ bất
thường khiến ông hết sức băn khoăn. Do tối qua Phật Đà ở Tây Thiên Phạn Cảnh đại
giá, bề ngoài là luận đàm kinh Phật với Đế Quân thực chất là bàn về Tuệ Minh Cảnh.
Là một tiên bộc trung thành và tận tâm, Trọng Lâm cảm thấy đại sự can hệ đến sự
tồn vong của thiên địa, hai vị tôn thần tất phải đàm luận cân nhắc rất lâu, vậy
thì hôm nay chuyến đi đến Phạn Âm Cốc giảng bài vốn đã định của Đế Quân có lẽ
phải hoãn lại. Trước đó cũng từng có chuyện vào ngày đã định Đế Quân lại có việc
khác và đều cử một vị tiên bác khác đi thay, thế là ông vừa trung thành vừa
tinh ý chuyển lời đến Phạn Âm Cốc, tạm thời có một tiên bác thay Đế Quân đến giảng
bài. Hôm nay ông cùng với một tiên bác trong cung rất am hiểu trà đạo cưỡi mây
đến đỉnh núi Phù Vũ, lại đã thấy Đế Quân dáng tiên như ngọc đứng trên đỉnh Phù
Vũ, đang giơ tay vạch một đường huyền quang, theo đường huyền quang đó đi vào
Phạn Âm Cốc.
Trọng Lâm cảm thấy, mặc dù Phạn Âm
Cốc quả thật kỳ quái, chỉ có mỗi năm trong vòng hai tháng bắt đầu từ Đông Chí,
một vị tiên pháp lực cao cường dùng ngoại lực mở cốc mới không khiến nó nhuốm
khí đục hồng trần, mà hôm nay là ngày Đông Chí, là ngày đầu tiên an toàn mở cốc
nhưng cũng không cần phải vội. Hơn nữa, Đế Quân xưa nay không phải là người vội
vàng, hai tháng liền sau ngày hôm nay ngài có thể tự do ra vào cốc. Nhưng ngài
lại bỏ mặc Phật Tổ vẫn đang làm khách ở cung Thái Thần, bất chấp vạn dặm xa xôi
bay đến núi Phù Vũ, lẽ nào chỉ vì có thể lập tức vào cốc giảng bài cho cái tổ Tỷ
Dực Điểu con đó hay sao. Đế Quân ngài có tư tưởng tình cảm cao sang thuần khiết
đến thế ư?
Trọng Lâm băn khoăn nghĩ mãi không
hiểu căn nguyên, đành chặc lưỡi nghĩ bụng cứ cho là hai năm nay tư tưởng tình cảm
của Đế Quân ngày càng cao sang thuần khiết đi, liền cùng vị tiên bác cùng đến
cưỡi mây quay về cung Thái Thần.
Tông học của Tỷ Dực Điểu cho đến
nay đã có lịch sử rất lâu đời, nghe nói do một vị tiên cao minh kiến tạo, không
chỉ địa thế đẹp, cảnh trí trong trường cũng rất đặc sắc. Trong khuôn viên rộng
thênh thang với mười thư trai bao bọc xung quanh này còn có một dòng suối trong
trẻo rất thi vị. Nước suối chảy theo địa thế cao thấp từ phía đông khuôn viên
sang phía tây khuôn viên, từ địa thế cao thấp không đều đục thành những bậc
thang lát đá xanh, phía trên hoặc dưới bậc thang đều trồng hòe xanh và cây tùng
già, mùa hè soi bóng nước, cảnh sắc phảng phất ý Thiền. Mùa đông như lúc này bị
tuyết phủ kín, khoác trên mình bộ đồ màu bạc, trông chúng có vẻ thi vị thanh tịnh
cô liêu mà khoáng đạt.
Phượng Cửu vốn rất thích cảnh sắc ở
đây, thường đến đây dạo chơi, hôm nay lại không có hứng, chỉ mang theo mấy cuộn
kinh thư chép tối qua, nàng cau mày men theo dòng suối đi xuống.
Một canh giờ trước, Phượng Cửu bỏ
buổi học trà đạo, trốn ra ngoài tìm Tế Hàn phu tử, bởi nghe nói trước giờ học
chiều, phu tử sẽ tuyên bố danh sách những người được vào vòng trong năm nay.
Nàng vốn định thực thi sách lược mưa dầm thấm lâu, từ từ gây thiện cảm với phu
tử, nhưng thời gian quá gấp, đành dùng một liều thuốc mạnh, dứt khoát bỏ học đi
lấy lòng phu tử, có thể phu tử thấy nàng lấy lòng một cách chân thành sẽ cảm động.
Thực ra nàng cũng rất muốn chứng kiến cảnh tượng vị tiên bác được Thái Thượng
Lão Quân phái đến rơi xuống bẫy, cho nên trước lúc ra ngoài còn thầm thì với Yến
Trì Ngộ dặn chàng ta lúc về kể mọi chi tiết hay ho cho nàng nghe.
Nàng cứ tưởng hai việc đó đều sắp xếp
ổn thỏa, ai dè Tế Hàn phu tử thường ngày hành tung luôn ổn định, hôm nay lại
tìm mãi không thấy bóng dáng. Bên ngoài gió tuyết lớn như vậy, Phượng Cửu chạy
tứ phía tìm kiếm, đã càng ngày càng mất hứng, lại mỗi lúc một lạnh thêm. Nhìn về
phía học đường, không biết vị tiên bác kia đã bị sập bẫy chưa, nếu vị đó có đầu
óc, không mắc bẫy, bây giờ mình quay lại học đường có thể tránh gió, nhưng cũng
không tránh được tội trốn học, nhất định sẽ bị trách phạt. Nghĩ trước nghĩ sau,
cảm thấy vẫn nên ở bên ngoài, vừa đợi vừa nghĩ nếu không phải nịnh Tế Hàn phu tử,
lúc này đốt mấy cuộn kinh thư trong tay áo mà sưởi thì tốt biết mấy. Nhưng mình
chép những mười cuộn, đốt một cuộn chắc cũng không sao nhỉ?
Phượng Cửu đang ngồi xổm dưới một
cây tùng già, tay nhấc ống tay áo đắn đo suy nghĩ thì bị ai đó vỗ vai, ngoái đầu
lại thấy Tiểu Yến tráng sĩ tay cầm một con dao nhọn ướm vào gương mặt nõn nà của
mình xoay ngang xoay dọc, sắc mặt thâm trầm nói với nàng: “Muội xem, mỗ nên rạch
một đường thế này, hay một đường thế này, hay là rạch đường thế này trước rồi mới
rạch đường thế này sau? Theo ý nữ nhi các người, nên rạch như thế nào để khuôn
mặt của mỗ trông anh tuấn hơn?”.
Phượng Cửu tỏ vẻ cao thâm giơ tay vẽ
một chữ “vương” (王)(*) lên trên trán chàng ta: “Muội thấy
vẽ thế này sẽ anh tuấn hơn”.
(*)
Giống ba vạch trên trán hổ. Người Trung Quốc có tục vẽ chữ “vương” lên trán trẻ
con với mong muốn đứa trẻ lớn lên khỏe mạnh, dũng mãnh như hổ.
Tiểu Yến sát khí đằng đằng nhìn
nàng một hồi, ảo não quẳng dao đi, cũng ngồi xổm dưới cây tùng cạnh nàng: “Muội
cũng cảm thấy vạch hai nhát dao trên mặt thực ra cũng không được coi là đặc biệt
anh tuấn ư?”. Nói đoạn rầu rĩ thở dài: “Vậy muội thấy mỗ để râu thì sao, râu
quai nón hình như rất hợp với kiểu mặt của mỗ...”.
Những lời tào lao của Yến Trì Ngộ lọt
tai Phượng Cửu vào tai trái ra tai phải, nàng mừng vì cuối cùng Tiểu Yến đã ngộ
ra các thiếu nữ không thích chàng ta là bởi khuôn mặt chàng ta quá đẹp, nhưng đồng
thời từ tận đáy lòng cũng cảm thấy nếu có ngày Tiểu Yến thực sự để râu quai
nón, trên trán còn khắc chữ “vương”, tạo hình như thế thực ra không hề được các
thiếu nữ thích thú hơn bộ dạng chàng ta bây giờ.
Trên cây có hai đám tuyết đọng đè gẫy
cành cây, Phượng Cửu hắt hơi, ngắt lời Tiểu Yến: “Trên đường đến đây huynh
không nhìn thấy phu tử à, không biết hôm nay ông ta rong ruổi nơi đâu, làm người
ta tìm mãi không được”.
Tiểu Yến quay phắt lại kinh ngạc
nhìn nàng: “Muội không biết à?”.
Phượng Cửu giật nảy mình, lùi lại một
bước, lưng dán vào thân cây: “Cái... cái gì, muội phải biết cái gì?”.
Tiểu Yến bực bội gãi đầu: “Mỗ thấy
muội ở đây vừa buồn vừa chán, còn tưởng tan học được một tuần hương, Manh huynh
đã đến báo với muội chuyện đó rồi”. Gãi đầu nói tiếp: “Cũng không phải chuyện
gì lớn, đối với muội thực ra là buồn vui lẫn lộn, muội xem mỗ dùng thành ngữ
này có chuẩn không? Muội đừng sốt ruột, mỗ sẽ từ từ kể cho muội nghe, buồn là
cái bẫy mà muội đặt ra, người cần sập thì không sập, nhưng vị phu tử muội đang
cần tìm… đây là phần vui này, khi phu tử dẫn vị nào đó đi vào, không để ý giẫm
lên đó, sa vào bẫy của muội...”. Tiểu Yến dừng lại đợi nàng phản ứng, nói tiếp:
“Manh huynh đoán có lẽ phu tử là người bản địa thông thạo thủy lộ ở đây, cũng
không cho muội thời gian chạy trốn, nửa canh giờ đã từ dưới sông Tư Hành bò
lên, còn tuyên bố sẽ lột da muội. Theo phân tích của Manh huynh về sắc mặt của
phu tử lúc đó thì rất có thể ông ta sẽ làm vậy thật”. Nói đến đây lại hoảng hốt
nhìn nàng: “Mỗ còn thấy lạ là muội đã biết chuyện này sao không lập tức trốn
đi, còn ngồi đây chờ gì nữa, một khắc trước mỗ đã thầm nhận định muội là một
anh hùng hảo hán, hóa ra là do muội chưa biết tin”.