Tam sinh tam thế Chẩm thượng thư - Phần II - Chương 05 - Phần 3
Suy
nghĩ đang phiêu du trong đêm tối, chiếc giường đột nhiên hơi trũng xuống, chiếc
giường này đã khá cũ, kêu cót két một tiếng, trong tiếng cót két đó, Phượng Cửu
cảm thấy có một bàn tay lành lạnh đặt lên trán mình khẽ vuốt ve, cái u sưng to
do bị ngã lúc tập luyện ban ngày bị vuốt qua, cảm giác hơi đau, lòng thầm nghĩ
sao giấc mơ này lại chi tiết, chân thực như vậy, đau quá hít một hơi, miệng nói
mơ câu gì, lại trở mình, bàn tay đó rụt lại, lát sau có mùi hương mộc phù dung
thanh nhã át mùi hương an thần bay vào mũi. Nàng hắt hơi một cái, lại lẩm bẩm
xoay người lại, bàn tay vừa nãy quệt thứ gì như cao dược (thuốc dạng kem) bôi
lên cái u trên trán nàng, ngón tay nhẹ nhàng xoa cùng thuốc, nàng thấy vô cũng
dễ chịu, thì ra đây là một giấc mơ đẹp, bất giác chìm vào giấc ngủ sâu hơn.
À,
đó là cao hoa mộc phù dung, nàng nhớ ra rồi!
Cao
hoa mộc phù dung là loại thuốc tốt có thể thông kinh huyệt, giảm đau, tán huyết
tụ, Phượng Cửu biết rõ điều đó. Ngày trước ở cung Thái Thần, khi còn là tiểu hồ
ly, vào những ngày gió êm, trời ấm nàng thường một mình chạy đến khu vườn nhỏ
hái hoa mộc phù dung. Hồi đó cạnh bức tường mọc kín bồ đề vãng sinh trong vườn
có mấy cây mộc phù dung trồng làm cảnh, nhưng cánh hoa rất yếu ớt gặp gió thổi
là hoa rơi đầy đất, nàng dùng móng nhặt những cánh hoa gói vào chiếc túi lụa do
Trọng Lâm tặng, tích đủ số hoa liền dùng răng thắt dây ở miệng túi lại, phấn khởi
chạy đến con suối nhỏ gần đó, ngâm cánh hoa trong nước làm thành bột hoa, vui
sướng mang đến cho Đông Hoa đắp vào vết thương. Hồi đó không hiểu sao, tay Đông
Hoa thường bị cắt do rất nhiều nguyên nhân kỳ lạ. Nàng đem bột hoa tặng cho
chàng, Đông Hoa vuốt tai nàng, Phượng Cửu liền thấy rất vui, nàng vốn học dốt
là thế mà còn làm một câu thơ nhỏ rất văn chương để kỷ niệm tâm trạng đó của
mình, “Hoa nở hoa tàn hoa hóa bột, thuận hòa yên ấm mãi bên nhau”. Khi nàng
dùng móng viết lại câu thơ đó đưa cho Ti Mệnh xem, Ti Mệnh ôm bụng cười ngặt
nghẽo, giễu nàng làm thơ quá sến, nàng hứ hứ hai tiếng dùng móng viết một câu:
“Ngươi thấy sến chứ ta không thấy sến”, sau đó chẳng bận tâm mà vui sướng ngọt
ngào vẫy đuôi bỏ đi. Nghĩ lại cả đời nàng chỉ làm duy nhất một câu thơ tình như
vậy mà chưa kịp đọc cho người ấy nghe. Trong mơ đột nhiên nàng thấy lạnh lẽo và
đau khổ.
Bỗng
cánh tay bị nhấc lên, chiếc áo lụa mỏng bị kéo đến tận bả vai, cái lạnh trong
lòng bỗng chốc lan đến ngón tay. Phượng Cửu là nữ thần, không câu nệ lễ giáo
nam nữ thụ thụ bất thân như người phàm, nhưng thụ thụ đến mức này quả thật hơi
quá, đến khi ngón tay hơi lạnh của người đó giữ vai nàng, xoa cao khắp cái vai
bầm dập do va đập ban ngày, Phượng Cửu thấy rùng mình. Giấc mơ này có gì rất thật.
Ý thức hỗn độn bỗng tỉnh ra mấy phần sau cái rùng mình đó, nhưng khi nàng thử mở
mắt lần nữa vẫn rất mơ màng. Tuy mí mắt vẫn nặng trịch, nhưng trong tầm nhìn dần
xuất hiện một tia sáng. Cảm giác này càng giống trong mơ.
Bóng
người rõ dần trong tầm nhìn của nàng quả nhiên là Đế Quân, chàng hơi cúi người,
tay vẫn để trên vai nàng, mái tóc dài màu trắng như ánh trăng đổ xuống chăn gấm,
tóc mái hơi rối khiến cho khuôn mặt anh tú dưới ánh nến có phần hơi biếng nhác,
ánh mắt đó thư thái nhìn nàng.
Đế
Quân có thói quen bất luận lúc mới ngủ, tư thế ngủ ngay ngắn thế nào cũng đều
có thể làm cho mái tóc màu trắng rối tung lên. Trước đây Phượng Cửu cảm thấy điểm
này của chàng rất đáng yêu. Lúc này lòng lại thầm nghĩ nếu đây đúng là giấc mơ
thì giấc mơ này thực đến khó tin. Tuy nhiên, dù là giấc mơ cũng phải có nhân quả.
Nàng
muốn hỏi Đông Hoa nửa đêm đến thăm có việc gì quý hóa, lại tự trả lời trong
lòng, có lẽ đến giúp nàng bôi thuốc lên vết bầm lúc ban ngày. Lại muốn hỏi, tại
sao nhất định phải đến vào giờ này, rồi lại tự trả lời, trị thương bằng mộc phù
dung nên tiến hành vào nửa đêm lúc cơ thể thư thái hoàn toàn mới cho hiệu quả tốt
nhất. Lại muốn hỏi, tại sao phải cởi xiêm y của nàng, lẽ nào không biết lễ giáo
nam nữ thụ thụ bất thân, lòng lại thở dài tự trả lời, chàng quả thực không để ý
đến những chuyện này, mình chủ động nói ra hình như còn tỏ ra mình làm bộ làm tịch.
Nhưng ngoài mấy câu đó nàng không có gì để hỏi nữa.
Lẽ
ra, nàng nên đột ngột kinh ngạc hét lên rồi lùi lại phía sau, quấn chặt chăn
vào người, ra vẻ thánh nữ bị xúc phạm, phẫn nộ quắc mắt nhìn Đế Quân. Điều này
không phải nàng chưa nghĩ đến, nhưng như vậy không phải càng tỏ ra làm bộ làm tịch
càng khiến người ta chê cười sao?
Phàm
việc gì gặp phải Đế Quân cũng không thể hành xử theo lẽ thường, phải dửng dưng,
phải ung dung, phải chú ý đến sự độ lượng, phong độ.
Phượng
Cửu cứng người mặc cho tay Đế Quân đặt trên bờ vai hơi sưng của mình, thầm nhẩm
bảy lần hai từ độ lượng, phong độ, rồi cứng nhắc cất tiếng: “Tiểu bối tỉnh rồi”.
Trong
ánh nến, Đông Hoa chăm chú nhìn nàng một lát, thu tay về lấy một ít bột trong
chiếc bát sứ trắng ướm lên vai nàng, nói: “Vừa hay, tự cởi hai nút áo ở cổ đi,
ngươi cài kín như vậy, ta không bôi được bả vai”.
Chàng
lại có thể thản nhiên bảo nàng cởi cúc áo như vậy, Phượng Cửu quả thực sửng sốt
mất một lúc, lát sau lặng lẽ kéo chăn, trở mình quay lưng lại: “Tiểu bối lại ngủ
đây”.
Đang
trở mình được nửa chừng thì bị Đông Hoa giơ tay cản lại, tay chàng giữ vai trái
không bầm dập của nàng, nghiêng người ghé lại gần nàng nói: “Ngươi sợ ta làm gì
ngươi sao?”. Giọng nói thoáng có gì buồn cười thú vị, Phượng Cửu kinh ngạc
ngoái lại thấy mặt Đông Hoa cách mình chỉ hơn một thốn, viên bảo thạch màu lam
tối trên chiếc đai trên trán chàng phản chiếu bóng nến, quả nhiên ánh mắt cười
cười. Nàng ngớ ra.
Trong
khoảng cách đó, Đế Quân điềm nhiên nhìn nàng đánh giá một lượt từ trên xuống dưới:
“Ngươi bị thương như vậy, ta còn có thể làm gì?”.
Phượng
Cửu cố co người lùi về phía sau, nghĩ một lát, hấm hứ nói: “Ngài đã biết tiểu bối
bị thương không nhẹ, sao ban ngày không giúp tiểu bối?”. Đang lúc nửa tỉnh nửa
mơ, giọng nói của nàng mềm mại như bột mỳ nhão, bồi thêm: “Lúc này lại đến giả
làm người tốt”. Khi đầu ngoẹo về phía sau, chạm vào vết thương trên vai, khẽ
kêu một tiếng, vừa rồi không nhận thấy giờ mới phát hiện các vết bầm trên người
đều đã được xử lý, chỉ còn ở bả vai là chưa, so với những chỗ còn lại càng thấy
đau nhức hơn.
Đế
Quân hơi nhích ra xa một chút, nói: “Cái gọi là tu hành đương nhiên bắt buộc
ngươi phải tự đứng dậy sau mỗi lần ngã, như thế mới có hiệu quả, ta không thể
lúc nào cũng ở bên giúp ngươi gặp dữ hóa lành”. Nói xong, giơ tay hất cúc cổ áo
nàng ra, lại lấy gối chèn vào lưng kê cao người nàng lên một chút, một loạt động
tác chàng làm rất nhanh gọn tự nhiên, không chút chần chừ, khi lớp cao dược bôi
lên vết bầm tím trên bả vai trắng như tuyết của nàng, Phượng Cửu lại cứng người.
Thực
ra, Đông Hoa nói rất có lý, đó mới là suy nghĩ chín chắn, mặc dù trong lòng tin
phục, nhưng vì sĩ diện nàng vẫn cứng cổ hừ một tiếng: “Nói cứ như tiểu bối là đồ
bỏ đi, tiểu bối rơi xuống Phạn Âm Cốc này không có ngài giúp chẳng phải vẫn sống
rất tốt đó sao?”. Lại thêm một câu: “Thậm chí trước khi gặp lại ngài còn không
hề bị thương! Gần đây thương tích đầy mình đều là do ngài gây ra!”.
Đông
Hoa hình như cố ý để tay lâu hơn trên bả vai nàng, nhướn mày: “Không có lồng
Thiên Cương của ta trên người, khi ngươi rơi từ miệng Phạn Âm Cốc xuống đã thịt
nát xương tan rồi, đâu cần ta giày vò nữa”.
Phượng
Cửu không phục, phản bác: “Đó là do Tiểu Yến có tình có nghĩa giúp tiểu bối...”.
Mới nói đến đó liền im bặt, trong Phạn Âm Cốc, ngoài một số nơi được quy định,
tất cả những nơi khác đều không thể thi triển pháp thuật ví dụ như miệng cốc chỗ
họ rơi xuống, nàng và Tiểu Yến hai lần rơi xuống từ vách đá, trong đó ngoài lần
thứ hai rơi trúng vào Manh thiếu gia khiến chàng ta ngất xỉu ra, quả thật đều
không có gì trở ngại, điều này quả là bất thường. Trước kia nàng cảm thấy là do
mình may mắn hay Tiểu Yến may mắn nên không suy nghĩ kỹ về chuyện đó, thì ra là
do lồng Thiên Cương của Đông Hoa bảo vệ ư? Phát hiện này khiến Phượng Cửu có phần
bối rối, cắn môi không biết nên nói gì. Thì ra không phải Đế Quân bỏ mặc nàng,
lồng Thiên Cương đối với tôn thần quan trọng thế nào nàng cũng đã nghe nói, vậy
mà chàng lại để ở chỗ nàng, bảo vệ nàng bình an, thật là có tình có nghĩa, nhưng
sao chàng không nói sớm? Hơn nữa, một vật quan trọng như vậy để ở chỗ nàng cũng
không thỏa đáng, nàng chỉ nhìn thấy lồng Thiên Cương một lần trong trận đấu giữa
Đông Hoa và Tiểu Yến, trông nó rất hoành tráng, không biết bình thường giấu ở
chỗ nào trên người nàng. Phượng Cửu rất băn khoăn, ngẩng đầu hỏi Đế Quân: “Vậy
nó... ở chỗ nào?”. Lại bối rối ho khan một tiếng, ngoảnh mặt đi: “Lồng Thiên
Cương bảo vệ tiểu bối lâu như vậy tiểu bối rất cảm kích, nhưng một thứ quý giá
quan trọng như thế để ở chỗ tiểu bối e là không thỏa đáng, vẫn nên lấy ra trả lại
ngài”.
Tay
Đế Quân cầm cây nến, vừa xem xét vết thương đã được bôi thuốc trên bả vai nàng
vừa nói: “Trả ta làm gì, vật đó chỉ là vật sinh ra từ tiên lực của ta, khi ta
vũ hóa tự khắc tiêu tan”.
Chàng
nói rất tự nhiên, Phượng Cửu mơ màng một lúc, hỏi vẻ sững sờ: “Ngài cũng sẽ vũ
hóa sao? Vì sao phải vũ hóa?”.
Mặc
dù nói thần tiên tuổi thọ ngang trời, nhưng chỉ được như vậy nếu thiên địa
không có đại họa. Tuy nhiên, trong tứ hải bát hoang, trên Cửu Trùng Thiên, dưới
phàm trần có biết bao kiếp nạn, tự cổ đến nay rất nhiều tôn thần vũ hóa đều có
căn nguyên từ kiếp nạn của tạo hóa.
Phượng
Cửu từng nghe nói cuối thời đại hồng hoang, giữa thiên địa sinh ra vô số Phàm
thế của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Nhân tộc yếu đuối bị đuổi đến Phàm thế,
nhưng vì Phàm thế mới kiến tạo, có bao nhiêu hành luật không được kiểm soát, hồng
hoang hạn hán, nóng nực, băng tuyết thay phiên hoành hành khiến Nhân tộc khó bề
sinh sống, Phụ Thần, thần sáng thế trước thời Đông Hoa một chút do điều tiết
quy luật tự nhiên, bốn mùa thuận hòa cho Nhân tộc an cư, cuối cùng thần lực cạn
kiệt mà vũ hóa trở về với hỗn mang, đến nay tứ hải lục hợp bát hoang không còn
thấy dấu vết của Phụ Thần. Phượng Cửu cũng lờ mờ hiểu những vị thần viễn cổ thời
hồng hoang như họ do tiên lực cao siêu nên phải gánh vác trọng trách nặng nề
nguy hiểm hơn người khác, hơn nữa đa phần phải vũ hóa thân mình mới hóa giải được
kiếp nạn của trời đất. Nhưng Đông Hoa vẫn sống đến ngày nay, nàng tưởng chàng
khác họ, cho dù có ngày chàng vũ hóa cũng là chuyện cực kỳ xa vời, giờ nghe
chàng nói vậy, tưởng như chuyện sắp xảy ra, không biết tại sao nàng bỗng thấy
kinh hãi, toàn thân lạnh ngắt, cổ họng khô rát, liếm môi, khản giọng nói: “Nếu
nhất định phải thế… khi nào ngài sẽ vũ hóa?”.
Hương
an thần rất đậm, có mấy con đom đóm lọt vào qua khe cửa chưa đóng kín và ô cửa
sổ mở rộng, hình như Đông Hoa hơi ngạc nhiên trước câu hỏi của nàng, giơ tay
cài cúc cổ cho nàng, nghĩ một lát mới nói: “Từ khai thiên lập địa đến nay, vẫn
chưa có kiếp nạn nào của tạo hóa nguy hại đến sự tồn vong của tứ hải bát hoang,
nếu có ngày xảy ra đại kiếp như vậy có lẽ chính là ngày ta vũ hóa”. Nhìn nàng một
hồi, mắt chàng hiện lên ánh cười: “Có điều chuyện này ít nhất cũng mấy chục vạn
năm nữa, bây giờ ngươi chưa cần lo đến phát khóc”.
Bị
hấp dẫn bởi mùi hương an thần đặc chế này, đom đóm bay vào phòng mỗi lúc một
nhiều, trong màn đêm tối tăm trông như những viên ngọc xinh đẹp điểm xuyết trên
chiếc trường bào đen. Đông Hoa thường bị Yến Trì Ngộ gọi là Mặt lạnh (những người
chàng ta không ưa đều bị gọi như vậy, Đông Hoa đứng đầu trong số đó), thực ra rất
có lý, không phải chỉ tính cách chàng lạnh lùng, mà chỉ khuôn mặt hiếm khi cười
của chàng lúc làm khó người khác cũng vẫn một vẻ tĩnh lặng như nước. Nhưng đêm
nay chàng cười nhiều như vậy, mặc dù chỉ là ánh cười trong mắt hoặc giọng nói ẩn
chứa nụ cười cũng khiến Phượng Cửu choáng váng. Vừa rồi chàng nói gì nàng vẫn
nghe rất rõ, yếu ớt phản bác: “Tiểu bối không thèm lo lắng”. Nhưng thấy chàng
nói vậy lại thầm thở phào. Thấy Đông Hoa cười mà như không, im lặng không nói
gì, nàng vội lảng sang chuyện khác: “Nhưng mà gần đây tiểu bối thấy tay ngài
không có vết thương nào nữa, sao lại mang bột mộc phù dung bên người?”.
Đông
Hoa nghe nàng hỏi, im lặng một lát mới nói: “Sao ngươi biết tay ta hay bị
thương?”.
Trán
Phượng Cửu liền toát mồ hôi lạnh, lẽ ra chuyện tay chàng thường có vết thương
ngoài người hầu thân cận và con tiểu hồ ly năm xưa không ai biết, ngay đến cô
cô Bạch Thiển của nàng có quan hệ thân thiết nhất với Cửu Trùng Thiên cũng chưa
từng nghe nói, huống hồ là nàng, may lúc nguy cấp lại sinh mưu trí vội nói chữa:
“À, hoa mộc phù dung chẳng phải chuyên trị vết cắt ở mu bàn tay sao?”. Sau đó
giả bộ thò đầu ngó chiếc bát sứ trắng trên tay chàng: “Bột hoa này là ngài tự làm
ư? Trộn rất đều”.
Đông
Hoa vừa đảo chỗ bột hoa còn lại trong bát vừa cúi nhìn nàng, trả lời: “Trước
đây ta có nuôi một con tiểu hồ ly, bột này là nó làm”.
Phượng
Cửu làm trái lòng tự khen mình để đổi hướng chú ý của Đông Hoa: “Con hồ ly đó
móng vuốt cũng khéo thật, bột hoa làm thật là thơm… sao ngài lại xoa lên mặt tiểu
bối?”.
Đông
Hoa hơi cúi người dùng bột hoa thư thả vẽ bừa lên mặt nàng, vô cùng thản nhiên
đáp: “Còn thừa một ít, nghe nói thứ này có công dụng làm đẹp, không nên lãng
phí”.
Phượng
Cửu vừa giãy giụa tránh tay Đông Hoa vừa quệt bột hoa trong bát sứ trắng lao đến
trả thù, nhe răng cười: “Nào, có phúc cùng hưởng, ngài cũng bôi một ít…”, thuận
thế đè Đông Hoa xuống, tay kia xoa bột phù dung lên trán Đế Quân, lại nhìn thấy
mắt chàng ánh lên vẻ cười mà như không ấy. Mấy con đom đóm đậu trên vai chàng,
mấy con khác đậu trên bức bình phong phía trước, khiến bức họa đầm sen đìu hiu
mùa sen tàn trở nên sinh động. Phượng Cửu quỳ trên người Đông Hoa, một tay đè
cánh tay chàng xuống chăn, ngón trỏ bàn tay kia đẩy chiếc đai trên trán chàng
ra điểm lên giữa hai hàng lông mày của chàng, lần đầu tiên nhìn mắt Đông Hoa ở
khoảng cách gần như vậy, đây là vị thần tôn quý nhất thế gian, người nàng từng
sùng bái nhất. Đột nhiên nàng kinh hoàng nhận ra hai người trong tư thế này thật
không ổn, người nàng cứng đờ. Đế Quân bị nàng đẩy cũng không lấy làm ngạc nhiên
thong thả nói: “Không phải vừa nói có phúc cùng hưởng sao? Sao không bôi nữa?”.
Vừa nói vậy vừa ung dung dùng bàn tay còn lại nắm cổ tay nàng, đặt ngón tay
nàng định rút lại lên mặt mình, trong suốt quá trình luôn thản nhiên chăm chú
nhìn vào mắt nàng.
Phượng
Cửu cảm thấy mặt mình đỏ bừng, một hồi lâu sau mới hốt hoảng bò khỏi người
chàng, chân tay luống cuống lủi vào góc giường, trùm chăn kín người, gối lên
chiếc gối sứ, cả người nằm thu lu trong góc, giả bộ ngáp: “Tiểu bối buồn ngủ
quá, phải ngủ đây, ngài đi ra nhớ đóng cửa giúp”. Giọng run run.
Đế
Quân hình như tiếc rẻ nói: “Chưa rửa tay đã định đi ngủ sao?”.
Phượng
Cửu: “… Không cần, ngày mai giặt chăn”.
Đế
Quân đứng dậy, lưu lại trong phòng một lát, một cơn gió nhẹ thổi vào, ngọn nến
bỗng tắt phụt, giống như có tiên pháp trùm lên, Phượng Cửu hơi căng thẳng, cảm
thấy hơi thở của Đế Quân lại gần, tóc đã chạm vào má nàng, nhưng không có hành
động nào khác, hình như chỉ định kiểm tra xem rốt cuộc nàng buồn ngủ thật hay
giả bộ.
Trong
bóng tối tiếng bước chân xa dần, đến khi nghe thấy tiếng cửa mở rồi đóng lại,
nàng mới thở phào, quay người lại mở mắt nhìn mấy con đom đóm còn ở trong
phòng, chúng đậu trên bàn ghế, chập chờn chứ không hoạt bát như lúc trước, hình
như chúng cũng buồn ngủ.
Phượng
Cửu cảm thấy Đông Hoa đêm nay rất khác, nghĩ lại những gì vừa diễn ra tim bỗng
đập thình thình, vội ấp tay lên ngực, chợt nhớ ra tay vừa rồi còn quệt bột hoa,
nàng cụp mắt nhìn, trong ánh đom đóm lập lòe thấy đôi tay trắng muốt, làm gì có
bột hoa, có lẽ do trước lúc đi Đông Hoa dùng tiên thuật. Khóe miệng nàng hơi
cong lên mà bản thân nàng cũng không biết, nhắm mắt niệm một hồi “Đại định
thanh tâm chú”(*) mới chìm sâu vào giấc mộng.
(*) Bài chú để lòng thanh tĩnh.
Cuối
giờ Dần (từ một giờ đến ba giờ đêm), Phượng Cửu bị ai lay mạnh, mắt lờ đờ vừa
trở mình vừa lẩm bẩm: “Đế Quân, đêm nay đừng có lắm chuyện, có để cho người
ta…”, chữ “ngủ” chưa kịp nói đã chìm nghỉm trong ánh mắt long lanh sáng rực của
Tiểu Yến đang đứng tựa đầu giường.
Sao
mai treo tít trên trời, miệng Tiểu Yến há to đến nỗi có thể nhét vừa quả trứng
vịt, ngập ngừng hỏi: “Muội và Mặt lạnh đã… đã tiến triển đến bước đó rồi ư?”. Đập
tay cái bốp: “Quả nhiên mỗ không nhìn nhầm hắn!”. Rồi vui sướng nói với Phượng
Cửu: “Vậy là Cơ Hoành cũng nên dứt tình với hắn rồi, mỗ biết hắn không chung
tình như mỗ mà, chắc chắn không cưỡng nổi mỹ nhân kế của muội”. Nói xong phấn
khởi gãi đầu: “Lúc này mỗ nên đi an ủi Cơ Hoành thế nào để nàng bất chấp tất cả
lao vào lòng mỗ đây?”.
Trong
phòng chỉ có một viên dạ minh châu chiếu sáng, Phượng Cửu thấy Tiểu Yến đứng tựa
chân giường ngước nhìn ánh trăng, lúc vui, lúc tư lự, lúc lo lắng đăm chiêu, đầu
nàng đặc quánh không hiểu chuyện gì, nàng dụi mắt giơ tay véo Tiểu Yến một cái,
hỏi: “Đau không?”.
Tiểu
Yến nhảy dựng lên: “Đừng véo ta, muội không nằm mơ đâu! Mỗ cố tình chọn thời cơ
này mở một lối nhỏ lẻn vào kết giới của Mặt lạnh là để đưa muội đi khuyên giải
bằng hữu của chúng ta!”.
Tiểu
Yến hình như cuối cùng cũng nhớ ra mục đích đến đây, vẻ mặt nghiêm túc nói: “Muội
có biết Manh thiếu gia xảy ra chuyện rồi không?”.
Phượng
Cửu bị nhốt ở Tật Phong Viện ba ngày, đến cả một con muỗi bên ngoài nàng cũng
không thể kết giao được, đương nhiên là không biết, nhưng giọng điệu nghiêm trọng
của Tiểu Yến lập tức xua hết nửa cơn buồn ngủ, nàng ngạc nhiên hỏi lại: “Manh
thiếu gia á?”.
Thần
sắc Tiểu Yến càng nghiêm trọng hơn: “Tướng quân Thường Thắng mà chàng ta yêu
thương nhất vừa qua đời tại phủ đệ, chàng ta vô cùng đau buồn thương tiếc uống
rượu ở Túy Lý Tiên chẵn một ngày một đêm rồi, không ai khuyên can được. Cô em họ
Khiết Lục của chàng ta sợ hoàng huynh say chết ở đó, không biết làm thế nào, chạy
đến tìm mỗ nhờ khuyên giải, nhưng muội xem, mỗ trông giống người biết khuyên giải
người khác không? Những chuyện nữ nhi đó suy cho cùng vẫn là nữ nhi các muội
làm thì hợp hơn...”.
Phượng
Cửu khoác áo ngoài, lặng lẽ hỏi: “Chưa nghe nói Manh thiếu gia còn nuôi cả trai
ở trong phủ đệ, chàng ta có sở thích đó vậy mà trước đây chúng ta lại không
phát hiện ra, thực không xứng là bạn bè. Haizz, người trong lòng đột ngột tạ thế,
bất luận thế nào cũng là một sự đả kích, Manh thiếu gia quả là đáng thương”. Vừa
nói xong lại sực nhớ ra chuyện xảy ra nửa đêm về trước, vẫn không biết là mơ
hay thực, bèn đến cạnh chiếc án cao sát tường nhấc lư hương hình kỳ lân bằng đồng
đưa lên ngửi, không thấy mùi hương an thần, lại mượn viên dạ minh châu của Tiểu
Yến soi kỹ, cũng không thấy tàn hương mới, nhìn vào gương đồng, trên góc trán
không còn vết bầm tím nữa nhưng cũng không có dấu vết bột hoa mộc phù dung. Hay
đúng là nằm mơ? Nhưng sao lại mơ như vậy?
Tiểu
Yến cầm viên dạ minh châu nàng trả, ngạc nhiên hỏi: “Muội sao thế?”.
Phượng
Cửu trầm ngâm một lát, nói: “Vừa có một giấc mơ”. Dừng một lát lại tiếp: “Không
có gì”. Khi đi ra gần cửa lại quay lại mở chiếc tủ nhỏ cạnh cửa sổ lấy ra một
bình sứ màu xanh, nói: “Bình mật ong thượng hạng này mới xin từ chỗ Manh thiếu
gia đợt trước, định làm bánh ngọt, ai dè chưa kịp làm đã phải trả để giải rượu
cho chàng ta, tiếc quá, tiếc quá!”.
Tiểu
Yến chau mày: “Mật ong là bình bên phải, chiếc bình trong tay muội vẫn còn ghi
hai chữ xì dầu kìa”. Nhìn nàng một hồi, thở dài vẻ chín chắn: “Ta thấy hôm nay
muội rất kỳ cục, hay là muội cứ ngủ tiếp đi, nếu quả thực không khuyên giải được
Manh thiếu gia, mỗ sẽ một gậy đánh ngất chàng ta, tình cảm nhi nữ cũng cần phải
dứt khoát chứ!”.
Phượng
Cửu day Thái Dương, nói: “Có lẽ ngủ không đủ nên đầu hơi váng, đã tỉnh rồi muội
vẫn nên đi một chuyến”. Do dự một lát lại tiếp: “Nhưng mà, muội thấy nhân tiện
chúng ta vẫn nên mang theo cái gậy”.
Nhờ
ánh sao đêm đi một mạch tới Túy Lý Tiên, Manh thiếu gia nước mắt, nước mũi hòa
với rượu đang nhìn thi thể tướng quân Thường Thắng nằm trong một chiếc lọ, một
đám thị nữ, thị tùng, thị đồng quỳ xung quanh, nước mắt ngắn dài khuyên giải
chàng ta rằng dù gì người cũng đã chết nên sớm cho tướng quân Thường Thắng nhập
thổ an nghỉ, hoàng tử điện hạ cần phấn chấn lên sống cho thật tốt mới có thể
khiến tướng quân đã đi trước một bước được yên lòng. Manh thiếu gia mắt đỏ hoe,
ba hồn bảy vía cơ hồ chỉ còn một chút du hồn, vẫn đăm đăm nhìn tướng quân Thường
Thắng, nước mắt, nước mũi hòa với rượu, cảnh tượng đau đớn đến nát lòng!
Phượng
Cửu ngớ ra, Tiểu Yến cũng ngớ ra. Thì ra tướng quân Thường Thắng khiến Manh thiếu
gia đau buồn đến mức muốn chết theo, uống rượu quên sầu lại là một con dế đầu đỏ
to tướng.
Quận
chúa Khiết Lục được hai hầu nữ dìu đến, Tiểu Yến gãi đầu hồi lâu, bối rối nói:
“Manh huynh tâm hồn nhạy cảm đến mức vì một con dế mà đau lòng đến vậy, quả thực
ta không biết nên khuyên giải thế nào”.
Phượng
Cửu liếc chiếc lọ sành để thi thể tướng quân Thường Thắng, cảm thấy chiếc lọ đó
không hiểu sao có vẻ quen quen, trên thân lọ vẽ chùm hoa vũ thời giống đồ dùng
của các tiểu thư, rất không hợp với những nam nhi như Manh thiếu gia. Nhìn kỹ lần
nữa, tướng quân Thường Thắng chân duỗi cứng đờ nằm trong lọ, từ di thể của nó
có thể nhận ra lúc còn sống nó là một con dế dũng mãnh uy phong. Phượng Cửu cau
mày nói với Khiết Lục: “Có phải con dế này sống lâu trong cốc, hút được linh
khí tiên tu, nửa đêm biến thành thiếu niên mỹ miều gì đó mới được Manh thiếu
gia yêu mến như vậy không?”.
Khiết
Lục kinh ngạc kêu lên một tiếng rồi vội bịt miệng lại, trợn mắt nói: “Công chúa
dám xúc phạm thanh danh đường huynh ta như vậy à?”.
Phượng
Cửu bất lực nói: “Ta cũng muốn đoán con dế này nửa đêm biến thành một thiếu nữ
xinh đẹp, nhưng đây lại là con dế đực… a, vương huynh nhìn xem, có phải là dế đực
không?”.
Tiểu
Yến nghe lời, ghé lại nhìn, nói với Khiết Lục: “Theo kinh nghiệm chọi dế lâu
năm của mỗ con dế đầu đỏ này đích thực là dế đực!”.

