Suối Nguồn - Chương 10 part 1

Ralston Holcombe bị rụt cổ và cái
cằm của ông làm nhiệm vụ thay cho cái cổ. Cằm và hàm ông tạo thành một đường
vòng cung liền nét, ngự trên bộ ngực.

Gò má ông hồng, mềm mềm, với vẽ nhũn nhẽo không cưỡng lại được
của tuổi tác, giống như vỏ của một trái đào đã bị trần qua nước sôi. Mái tóc
bạch kim dày phủ trước trán và trùm cả xuống vai ông tạo thành một bờm tóc kiểu
Trung cổ. Nó rắc gàu lên đằng sau cổ áo ông.

Ông đi bộ qua những đường phố của New York, đội một chiếc mũ
rộng vành, mặc một bộ com-lê công sở sẫm màu, một chiếc áo sơ mi sa-tanh màu
xanh lá cây nhạt, một chiếc áo vét nhung trắng thêu kim tuyến, một cái nơ to bự
lộ ra từ dưới cằm ông, và ông cầm một cái ba toong – không phải một cái gậy nhỏ
– mà là một cái ba toong bằng gỗ mun, cao, một đầu gắn vàng ròng. Cứ như thể
cái thân hình đồ sộ của ông đã thu vén cả vào những món trang sức thông thường
của một một nền văn minh dung tục và những thứ vải vóc xám xịt của nền văn minh
ấy; nhưng vòm ngực và khoanh bụng hình ô-van của ông vẫn nhô ra phía trước, để
lộ những sắc màu của tâm hồn bên trong.

Những điều này là hoàn toàn phải phép với ông, bởi ông là một
thiên tài. Ông còn là chủ tịch của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ.

Ralston Holcombe không tán thành những quan điểm của các đồng
nghiệp trong hiệp hội. Ông không phải là một nhà xây dựng, đơn thuần làm công
việc đào xới đất, cũng chẳng phải là một doanh nhân. Ông là – ông dõng dạc
tuyên bố – một con người của những lý tưởng.

Ông lên án tình trạng kiến trúc tồi tệ của nước Mỹ và chủ
nghĩa chiết trung vô nguyên tắc của những người tạo ra các công trình kiến trúc
đó. Ông tuyên bố rằng trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào thì những kiến trúc sư
cũng xây dựng trên tinh thần của thời đại họ sống và không sử dụng các thiết kế
của quá khứ; chúng ta chỉ có thể trung thực với lịch sử bằng cách tuân theo quy
luật của nó – quy luật đó đòi hỏi chúng ta phải gieo trồng các hạt mầm nghệ
thuật của mình trên thực tại đời sống. Ông công khai chỉ trích sự ngu dốt của
việc xây dựng các tòa nhà kiểu Hy Lạp, Gothic hay La Mã; hãy để chúng ta – ông
nài nỉ – được hiện đại và được xây theo phong cách thuộc về thời đại chúng ta.
Ông đã tìm được phong cách đó. Đó là phong cách Phục hưng.

Ông nói rõ lý do của mình. Ông chỉ ra
rằng vì chưa có sự kiện lịch sử quan trọng nào xảy ra trên thế giới từ thời kỳ
Phục hưng đến nay nên chúng ta nên tự coi mình vẫn đang sống trong thời kỳ đó;
và tất cả những biểu hiện bên ngoài của sự tồn tại của chúng ta vẫn nên trung
thành với những kiệt tác kiến trúc vĩ đại của thế kỷ 16.

Ông không có kiên nhẫn với một số ít
những người có quan điểm khác ông về kiến trúc hiện đại; ông phớt lờ họ; ông
chỉ nói rằng những kẻ muốn đoạn tuyệt với mọi
thứ của quá khứ là những kẻ ngu dốt lười biếng, và rằng người ta không thể
đặt Cái Mới lên trên Cái Đẹp. Giọng ông run lên một cách cung kính khi nói từ
cuối cùng đó. Ông không chấp nhận bất kỳ thứ gì ngoại trừ những hợp đồng xây
dựng thực sự lớn. Ông chuyên thiết kế các công trình vĩnh cửu và tượng đài. Ông
xây dựng rất nhiều đài kỷ niệm và các tòa nhà trụ sở chính quyền bang[1].
Ông thiết kế cho các Hội chợ Quốc tế.

Ông xây dựng như một nhà soạn nhạc
ứng tác dưới một sự thôi thúc thần bí. Ông có những cảm hứng bất thình lình.
Ông có thể cho xây thêm một mái vòm khổng lồ lên mái bằng của một công trình đã
được hoàn thành, có thể cho khảm một mái vòm dài bằng những cái lá mạ vàng, hay
phá bỏ một mặt tiền đá vôi để thay bằng đá cẩm thạch. Các khách hàng của ông ta
chỉ biết xanh xám mặt mày, lắp bắp và trả tiền. Nhân cách uy nghi của ông khiến
ông giành chiến thắng trong bất kỳ cuộc đối đầu nào với tính tằn tiện của một
khách hàng; hỗ trợ cho ông là cả một sự cả quyết vững chắc, không lời và mạnh
mẽ rằng ông là một Nghệ sĩ. Uy tín
của ông rất lớn.

Ông sinh trưởng từ một gia đình được đề
cập trong cuốn Danh bạ thân hữu[2].
Ở tuổi trung niên ông cưới một phụ nữ trẻ mà gia đình cô không có tên trong Danh bạ thân hữu nhưng thay vào đó lại
làm ra rất nhiều tiền trong một đế chế kẹo cao su được truyền lại cho một cô
con gái độc nhất.

Giờ đây Ralston Holcombe 65 tuổi, cái
tuổi mà ông đã tăng thêm vào đó vài năm vì những lời khen ngợi của bạn bè ông
về thể lực tuyệt vời của ông; còn bà Ralston Holcombe thì 44 tuổi và bà đã giảm
tuổi mình đi khá nhiều.

Bà Ralston Holcombe vẫn duy trì các
buổi gặp mặt thân mật cho giới văn nghệ sĩ vào mỗi chiều Chủ nhật. “Tất cả
những người có tên tuổi trong giới kiến trúc đều đến” bà nói với bạn bè bà như
vậy. “Họ nên!” bà nói thêm.

Vào một buổi chiều Chủ nhật tháng Ba,
Keating lái xe đến biệt thự Holcombe – một công trình mô phỏng cung điện
Florentine – một cách mẫn cán, nhưng cũng hơi miễn cưỡng. Anh đã trở thành vị
khách quen ở những buổi họp mặt như thế và anh đã bắt đầu cảm thấy chán vì anh
đã biết tất cả những người có thể mong đợi ở đó. Tuy nhiên anh cảm thấy mình
nên đi lần này vì đây là buổi chúc mừng việc Ralston Holcombe vừa hoàn tất một
tòa nhà trụ sở chính quyền cho một bang nào đó.

Một đám đông đáng kể đang tụ tập
trong phòng khiêu vũ của nhà Holcombe và đứng rải rác thành những nhóm nhỏ trên
khoảng đất rộng vốn dành cho các buổi tiếp tân ngoài trời. Khách khứa đứng
quanh, vừa làm ra vẻ suồng sã, vừa gắng sức để mình nổi bật. Tiếng bước chân
trên nền đá cẩm thạch tạo ra những tiếng vọng như trong một nhà mồ. Những ánh
lửa từ những cây nến cao đối chọi một cách thảm hại với ánh sáng xám của ngọn
đèn đường – ánh đèn làm ánh nến bị lu mờ, trong khi ánh nến lại khiến cho ban
ngày ở bên ngoài nhuốm một vẻ hoàng hôn quá sớm. Một mô hình thu nhỏ của công
trình trụ sở bang mà Holcombe mới hoàn thành được đặt trên một cái kệ ở giữa
phòng, lấp lánh với những bóng đèn điện nhỏ xíu.

Bà Ralston Holcombe chủ trì bên bàn
trà. Mỗi vị khách nhận một chiếc tách mỏng manh bằng sứ trong suốt, khẽ hớp hai
hớp và biến mất về hướng quầy bar. Hai người giúp việc oai vệ đi lại xung quanh
để thu lượm những chiếc tách đã được dùng xong.

Bà Ralston Holcombe, như một bà bạn
của bà đã miêu tả, “nhỏ nhắn, nhưng có trí tuệ.” Vóc người nhỏ bé là một nỗi
buồn thầm kín của bà, nhưng bà đã học được cách bù đắp cho nó. Bà có thể nói
chuyện về – và thực sự đã làm – việc bà mặc váy cỡ 10[3]
và mua sắm trong các cửa hàng dành cho trẻ em. Bà mặc quần áo của học sinh
trung học và đi tất ngắn trong mùa hè, để lộ đôi cẳng chân khẳng khiu nổi những
mạch máu xanh đậm. Bà ngưỡng mộ những người nổi tiếng. Đấy là sứ mệnh của đời
bà. Bà săn lùng họ ráo riết; bà đối diện với họ với sự ngưỡng mộ ra mặt và nói
về sự tầm thường của mình, về sự khiêm nhường của bà trước những thành tựu; bà
nhún vai, mím môi và hằn học bất kỳ khi nào một ai trong số họ không tỏ ra quan
tâm đúng mức đến những quan điểm riêng của bà về cuộc sống sau khi chết, về
thuyết tương đối, về kiến trúc Aztecm, về phòng tránh thai và về phim ảnh. Bà
có rất nhiều bạn nghèo và khoe khoang về điều đó. Nếu một người bạn may mắn cải
thiện được tình hình tài chính của mình thì bà lập tức ruồng bỏ anh ta với cảm
giác anh ta đã phản bội lại bà. Bà căm ghét người giàu với tất cả sự chân
thành: họ chỉ có chung với bà cái vẻ thượng lưu bề ngoài. Bà coi kiến trúc là
lĩnh vực của riêng bà. Bà được đặt tên thánh là Constance nhưng thích được gọi
là “Kiki” – một biệt danh mà bà bắt các bạn bà phải gọi khi bà đã qua cái tuổi
30 được khá lâu rồi.

Keating chưa bao giờ cảm thấy thoải
mái khi có mặt bà Holcombe bởi vì bà ta cười với anh quá dai và nhận xét về
những lời bình phẩm của anh bằng cách nháy mắt và nói: “Ôi, Peter, cậu cứ đùa!”
khi anh chẳng hề có ý đùa chút nào. Tuy thế, chiều nay, anh vẫn cứ cúi hôn tay
bà như thường lệ và bà ta mỉm cười từ sau ấm trà bạc. Bà mặc một chiếc váy dài
vương giả bằng nhung màu ngọc lục bảo, đeo một dải ruy-băng đỏ tía trên mái tóc
ngắn ngang vai, phía trước là một chiếc nơ nhỏ xinh xắn. Da bà ta rám nắng và
khô, với những lỗ chân lông to trên hai cánh mũi. Bà ta đưa cho Keating một
chiếc tách, một viên ngọc lục bảo hình vuông lấp lánh trên ngón tay bà ta trong
ánh nến.

Keating bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình
với tòa trụ sở liên bang rồi lỉnh ra xem xét mô hình thu nhỏ của nó. Anh đứng
trước cái mô hình trong một khoảng thời gian hợp lý, làm bỏng cả môi mình với
thứ chất lỏng nóng có mùi đinh hương. Holcombe, người chẳng bao giờ nhìn về
phía cái mô hình nhưng không bao giờ bỏ qua bất cứ ai đứng ngắm nó, đã vỗ vai
Keating và nói một điều gì đó thích hợp về việc các kiến trúc sư trẻ tuổi cần
học hỏi vẻ đẹp của phong cách Phục hưng. Rồi Keating đi loanh quanh, bắt tay
với vài người một cách thờ ơ, và anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay để xem khi nào
thì thích hợp cho việc ra về. Rồi anh bỗng khựng lại.

Anh thấy, phía sau một cái cổng vòm
rộng, trong một thư viện nhỏ, với ba thanh niên đứng cạnh, là Dominique
Francon.

Cô đang đứng dựa vào một cái cột, tay
cầm một cốc rượu cốc-tai. Cô mặc một bộ vét bằng nhung đen; chất vải nặng không
phản quang đã neo cô lại với thực tại bằng cách chặn đứng cái ánh sáng đang
chảy tràn tự do trên da thịt của bàn tay, cổ và gương mặt cô. Một tia sáng
trắng lóe lên giống như một cây thánh giá kim loại lạnh lẽo trong cái cốc cô
đang cầm, như thể cái cốc đó là một thấu kính hội tụ lại ánh sáng tỏa ra từ làn
da cô vậy.

Keating băng về phía trước và tìm
thấy Francon trong đám đông.

“À, Peter!” Francon vui vẻ nói. “Có
muốn tôi lấy cho cậu cái gì uống không? Không nóng mấy,” ông ta thêm vào, hạ
thấp giọng xuống, “nhưng làm một ly Manhattan cũng không tệ.”

“Không ạ,” Keating nói, “cảm ơn bác.”

“Giữa bác cháu với nhau,” Francon
nói, nháy mắt về phía cái mô hình trụ sở liên bang, “thật là một đống hổ lốn,
đúng không?”

“Vâng ạ,” Keating nói. “Những tỷ lệ
khốn khổ... Cái cổng vòm đó trông như khuôn mặt của Holcombe đang mô phỏng mặt
trời mọc trên mái nhà vậy...”

Họ dừng lại ở vị trí có thể nhìn bao
quát cả thư viện và mắt Keating dán vào cô gái mặc bộ đồ đen với dụng ý khiến
Francon phải chú ý; Keating muốn cho Francon vào bẫy.

“Và cái thiết kế mặt bằng nữa chữ!
Trời đất! Cậu có thấy cái đó trên tầng hai... Ồ!” Francon nói và nhận ra.

Ông nhìn Keating, rồi nhìn vào thư
viện, rồi lại nhìn đến Keating.

“Thôi được” cuối cùng Francon nói,
“sau này đừng có trách tôi đấy. Chính cậu muốn thế đấy nhé. Nào đi nào.”

Họ cùng bước vào thư viện. Keating
dừng lại một cách đúng mực nhưng lại cho phép mắt anh được chăm chú một cách
quá mức trong khi Francon tươi cười với một sự vui vẻ không được thuyết phục:

“Dominique! Cha xin giới thiệu đây là
Peter Keating – cánh tay phải của cha. Peter – đây là con gái tôi.”

“Xin chào cô.” Keating khẽ nói.

Dominique cúi chào một cách trang
trọng.

“Tôi đã đợi để được gặp cô từ rất lâu
rồi, thưa cô Francon.”

“Cái này thú vị đây,” Dominique nói.
“Anh sẽ muốn đối tốt với tôi, tất nhiên rồi, nhưng như thế thực ra lại không
khôn ngoan lắm đâu.”

“Ý cô là gì, cô Francon?”

“Cha thì muốn anh xử tệ với tôi hơn. Cha
và tôi không hợp nhau chút nào.”

“Ồ, cô Francon, tôi...”

“Tôi nghĩ nên công bằng mà nói với anh
điều này ngay từ đầu. Anh có thể rút lại một vài kết luận.” Keating đang tìm
Francon nhưng ông đã biến mất. “Không,” cô khẽ nói, “Cha tôi không thạo những
việc như thế này. Ông ấy quá lộ liễu. Anh nhờ ông giới thiệu nhưng ông lẽ ra
không nên để tôi nhận thấy chuyện ấy. Nhưng thế cũng chẳng sao vì cả hai chúng
ta đều thừa nhận. Anh ngồi xuống đi.”

Cô trượt vào một chiếc ghế và anh ngoan
ngoãn ngồi xuống cạnh cô. Người thanh niên mà Keating không quen biết đứng
quanh đó vài phút, cố tham gia vào cuộc chuyện trò bằng những nụ cười trống
rỗng, rồi anh ta lảng đi. Keating thở phào nghĩ không có gì đáng sợ về cô gái
cả; chỉ có một sự tương phản kỳ quặc giữa những lời lẽ của cô và sự trong sáng
tự nhiên của cái cách mà cô nói những lời ấy; anh không biết phải tin vào điều
nào.

“Tôi thừa nhận là tôi đã xin bác giới
thiệu,” anh nói, “Dù sao thì như thế cũng là lộ liễu, đúng không? Ai mà lại
không xin được giới thiệu cơ chứ? Nhưng chẳng nhẽ cô không nghĩ là những kết
luận tôi sẽ rút ra có thể chẳng có liên quan gì đến cha cô?”

“Đừng nói là tôi đẹp và tinh tế và không
giống bất kỳ ai anh đã từng gặp và rằng anh rất sợ là anh sắp yêu tôi. Rút cục
thì anh sẽ nói thôi nhưng hãy hoãn lại đã. Ngoài cái đó ra, tôi nghĩ là chúng
ta sẽ hợp nhau.”

“Nhưng cô đang cố làm khó cho tôi đúng
không?”

“Đúng thế. Lẽ ra cha tôi nên cảnh báo
anh.”

“Bác ấy đã.”

“Đáng lẽ anh nên nghe lời ông ấy. Hãy tử
tế với cha tôi. Tôi đã gặp rất nhiều cánh tay phải của ông ấy và tôi đã bắt đầu
hoài nghi. Nhưng anh là người đầu tiên được giữ lại lâu. Và có vẻ như ông ấy sẽ
giữ anh lại lâu đấy. Tôi đã nghe rất nhiều về anh. Chúc mừng!”

“Tôi đã mong được gặp cô từ lâu rồi. Và
tôi đã đọc cột báo của cô một cách rất...” Anh ngừng lại. Anh biết mình lẽ ra
không nên đề cập đến nó; và hơn thế, lẽ ra anh không nên ngừng lại.

“Rất sao cơ?” cô nhẹ nhàng hỏi.

“... rất thích thú.” anh hoàn thành nốt
câu nói, hy vọng cô sẽ chấp nhận câu chuyện như thế.

“Ồ vâng,” cô nói. “Cái nhà của
Ainsworth. Anh đã thiết kế nó. Tôi xin lỗi. Anh không may lại là nạn nhân của
một trong những cơn nói thật hiếm hoi của tôi. Tôi không lên cơn thường xuyên
lắm. Như anh biết đấy, nếu anh có đọc bài của tôi hôm qua.”

“Tôi đã đọc rồi. Và – được rồi, tôi sẽ
noi gương cô và sẽ hoàn toàn thẳng thắn. Cô đừng coi đó là một lời than phiền
nhé – một người không bao giờ được phép than phiền về lời bình phẩm của một ai
đó. Nhưng mà nói thực nhé, cái nhà trụ sở bang của Holcombe còn tồi hơn nhiều
nếu xét về tất cả những mặt mà cô đã chỉ trích chúng tôi. Tại sao cô lại dành
cho ông ta những lời tán tụng hào phóng như thế hôm qua? Hay cô buộc phải làm
thế?”

“Đừng tâng bốc tôi. Tất nhiên tôi không buộc
phải làm thế. Chẳng lẽ anh nghĩ có ai ở tòa báo lại chú ý đến một cột báo về
trang trí nhà cửa đến nỗi phải quan tâm tôi nói gì trong đó à? Thêm nữa, tôi
thậm chí không có nhiệm vụ phải viết về các nhà trụ sở bang nữa kia. Chỉ là tôi
đang thấy chán chuyện trang trí nhà cửa.”

“Vậy sao cô lại khen ngợi Holcombe?”

“Tại vì cái nhà đó quá kinh khủng đến
nỗi phê phán gay gắt nó sẽ có tác dụng ngược. Thế nên tôi nghĩ, sẽ rất thú vị
nếu tâng bốc nó đến tận mây xanh. Và đúng thế thật.”

“Đấy chính là cách cô làm việc sao?”

“Đó chính là cách tôi làm việc. Nhưng mà
chẳng ai đọc cột báo của tôi, chỉ trừ mấy bà nội trợ chẳng bao giờ đủ tiền để
trang trí nhà cửa, thế nên chẳng sao cả.”

“Nhưng cô thực sự thích cái gì ở kiến
trúc?”

“Tôi chẳng thích bất kỳ cái gì ở kiến
trúc hết.”

“Ồ, tất nhiên là cô biết tôi sẽ không
tin điều đó. Cô viết làm gì nếu cô chẳng có gì muốn nói cơ chứ?”

“Thì để có thứ gì đó mà làm. Thứ gì đó
kinh tởm hơn nhiều thứ khác mà tôi có thể làm. Và thú vị.”

“Thôi nào, đó không phải là một lý do
tốt.”

“Tôi chẳng bao giờ có bất kỳ lý do tốt
nào.”

“Nhưng cô hẳn phải thích công việc của
mình.”

“Tôi có thích. Anh không thấy tôi thích
nó sao?”

“Cô biết không, tôi thật sự ghen tỵ với
cô đấy. Làm việc cho một hãng khổng lồ như các tờ báo của Wynand. Tập đoàn lớn
nhất trong nước, tập hợp những cây bút giỏi nhất và...”

“Nghe này” cô nói, nghiêng mình về phía
anh một cách bí mật, “để tôi giúp anh. Nếu anh mới gặp cha tôi, và ông ấy đang
làm việc cho Wynand thì đúng là anh phải nói những điều vừa rồi. Nhưng mà tình
hình lại không như thế. Tôi đã đoán là anh sẽ nói thế, mà tôi thì lại không
thích nghe cái điều tôi đã đoán. Sẽ hay hơn nhiều nếu anh nói là các tờ báo của
Wynand là một đống hổ lốn đáng khinh của một thứ báo chí lá cải và các tất cả
các cây bút của chúng gộp lại chẳng đáng đến một xu.”

“Cô thực sự nghĩ thế về họ sao?”

“Không. Nhưng tôi không thích những
người cứ chỉ nói những gì mà họ cho là tôi nghĩ.”

“Cám ơn. Tôi sẽ cần đến sự giúp đỡ của
cô. Tôi
chưa bao giờ gặp ai... À, không, tất nhiên đó là điều cô không muốn tôi nói.
Nhưng tôi đã nói thật về những tờ báo mà cô đang làm việc. Tôi vẫn luôn ngưỡng
mộ Gail Wynand. Tôi đã luôn mong được gặp ông ấy. Ông ấy là người như thế nào?”

“Đúng như lời Austen Heller gọi ông ta –
một gã quý tộc vô lại.”

Keating cau mày. Anh nhớ lại anh đã nghe
Austen Heller nói điều đó ở đâu. Ký ức về Catherine dường như nặng nề và thô
kệch trước sự hiện diện của cái bàn tay trắng trẻo thon thả đang đặt trên thành
ghế trước mặt anh.

“Nhưng, ý tôi là,” anh hỏi, “mặt đối mặt
thì ông ấy là người thế nào?”

“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ gặp
ông ta.”

“Cô chưa
bao giờ?”

“Chưa.”

“Ồ, tôi nghe nói ông ấy rất thú vị!”

“Chắc chắn là thế. Khi nào tôi có hứng
về một cái gì đó suy đồi, có thể tôi sẽ gặp ông ta.”

“Cô có biết ông Toohey không?”

“Ồ,” cô nói. Keating nhìn thấy điều mà
anh đã nhìn thấy trong mắt cô trước đây, và anh không thích sự tươi tỉnh ngọt
ngào trong giọng nói của cô. “Ồ, Ellsworth Toohey. Tất nhiên là tôi biết ông
ấy. Ông ấy thật là tuyệt vời. Ông ấy là một người mà tôi luôn thích nói chuyện
cùng. Ông ấy thật là một kẻ đê tiện hoàn hảo.”

“Ôi, cô Francon! Cô là người đầu tiên
từng...”

“Tôi không cố làm anh bị sốc đâu. Tôi
thật sự muốn nói thế. Tôi ngưỡng mộ ông ấy. Ông ấy thật hoàn hảo. Chẳng mấy khi
gặp được sự hoàn hảo trên thế giới này – dù hoàn hảo kiểu nào, đúng không? Và
ông ấy đúng như thế. Hoàn hảo thuần khiết theo cách riêng của ông ấy. Mọi người
khác đều không trọn vẹn, bị vỡ thành quá nhiều phần không hợp với nhau. Nhưng
Toohey không thế. Ông là một hòn đá tảng. Đôi lúc, những khi tôi cảm thấy cay
đắng trước thế giới này, tôi lại tìm được niềm an ủi khi nghĩ rằng thế cũng
được, rằng tôi sẽ bị trừng phạt, rằng thế giới sẽ nhận được cái đang xảy đến
với nó – bởi vì có Ellsworth Toohey.”

“Cô muốn bị trừng phạt về cái gì kia?”

Cô nhìn anh, mí mắt nhướng lên trong một
giây lát, và đôi mắt vì thế không có vẻ hình chữ nhật nữa mà mềm mại và trong.

“Anh rất thông minh,” cô nói. “Đó là
điều thông minh đầu tiên anh nói đấy.”

“Vì sao cơ?”

“Vì anh biết phải nhặt ra điều gì từ cái
mớ nhảm nhí mà tôi nói. Thế nên tôi sẽ phải trả lời anh. Tôi muốn bị trừng phạt
về cái việc tôi chẳng có gì để mà bị trừng phạt. Giờ hãy nói tiếp về Ellsworth
Toohey.”

“À, tôi luôn nghe mọi người nói ông ấy
như kiểu một vị thánh, một người lý tưởng hóa thuần khiết, hoàn toàn không thể
bị mua chuộc và...”

“Khá đúng. Cứ làm một kẻ ăn hối lộ thì
dễ hơn nhiều. Nhưng Toohey thì giống như một viên đá thử cho mọi người vậy. Anh
có thể hiểu về họ qua quan điểm của họ về ông ấy.”

“Vì sao? Ý cô thực sự là gì?”

Cô ngả người ra chiếc ghế, và duỗi hai
cánh tay xuống đầu gối, vặn cổ tay, hai lòng bàn tay hướng ra ngoài, những ngón
tay cô đan vào nhau. Cô cười một cách thoải mái.

“Chẳng có ý gì đáng để bàn bạc ở một
tiệc trà cả. Kiki đã đúng. Bà ấy ghét trông thấy tôi nhưng vẫn thỉnh thoảng
phải mời tôi. Và tôi thì không thể không đến, vì bà ấy tỏ quá rõ là không muốn
tôi đến. Anh biết đấy, tối nay tôi đã nói với Ralston tôi thực sự nghĩ gì về
cái nhà trụ sở bang của ông ta, nhưng mà ông ta không tin. Ông ta chỉ cười và
bảo tôi là một cô bé dễ thương.”

“Thì, cô là thế, đúng không?”

“Là gì?”

“Một cô bé dễ thương.”

“Không. Không phải hôm nay. Tôi đã làm
anh hoàn toàn không thoải mái. Nên tôi sẽ đền bù cho anh. Tôi sẽ nói anh biết
tôi nghĩ gì về anh, vì anh sẽ lo lắng về điều đó. Tôi nghĩ anh thông minh, an
toàn, rõ ràng và khá tham vọng và anh sẽ tiến xa với tính cách đó. Và tôi thích
anh. Tôi sẽ nói với cha là tôi duyệt cánh tay phải của ông. Anh thấy đấy anh
chẳng có gì phải lo về con gái sếp; mặc dù thực ra sẽ tốt hơn nếu tôi chẳng nói
gì với cha tôi, vì ý kiến của tôi sẽ có tác dụng ngược với cha.”

“Tôi có thể nói điều duy nhất mà tôi
nghĩ về cô không?”

“Tất nhiên. Mấy điều cũng được.”

“Tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu cô không nói là
cô thích tôi. Như thế tôi sẽ có nhiều cơ hội biến nó thành sự thật hơn.”

Cô cười to.

“Nếu anh hiểu được thế,” cô nói, “thì
chúng ta sẽ rất hợp nhau đấy. Thế thì điều đó cũng có thể thành sự thật.”

Gordon L. Prescott xuất hiện ở cổng tò
vò của phòng khiêu vũ, tay cầm cốc. Ông ta mặc một bộ vét xám và một chiếc áo
len cổ rùa bằng len bạc. Khuôn mặt trẻ con của ông được lau rửa sạch sẽ và ông
ta vẫn có cái mùi xà bông, kem đánh răng và bụi đường như thường lệ.

“Dominique thân yêu!” ông kêu lên, huơ
huơ chiếc cốc của mình. “Chào Keating,” ông nói thêm cụt lủn. “Dominique, cô
trốn ở đâu thế? Tôi nghe bảo cô ở đây và tôi tìm mãi không thấy cô!”

“Chào anh, Gordon,” cô nói. Cô nói điều
ấy khá vừa phải; chẳng có gì xúc phạm trong giọng nói lịch sự điềm tĩnh của cô;
nhưng sau cái nốt thăng nhiệt tình của ông ta thì giọng cô vang lên một nốt
giáng chết chóc bởi sự thờ ơ của nó – như thể hai âm thanh đó hòa quện với nhau
tạo thành một đối ấm rành mạch, làm nền cho một giai điệu du dương là sự khinh
miệt của cô.

Prescott không nghe thấy tiếng cô. “Cô bé” ông nói, “mỗi lần
gặp cô, trông cô lại càng đáng yêu hơn. Ai mà nghĩ là chuyện này lại có thể.”

“Lần thứ bảy.” Dominique nói.

“Gì cơ?”

“Lần thứ bảy anh nói thế khi gặp tôi, Gordon. Tôi đang đếm
chúng.”

“Cô không bao giờ chịu nghiêm túc cả, Dominique. Cô không bao
giờ nghiêm túc.”

“Thế sao, Gordon? Tôi vừa mới có một cuộc nói chuyện rất
nghiêm túc với người bạn tôi đây, Peter Keating.”

Một quý bà vẫy Prescott và ông ta chấp nhận cơ hội đó để lỉnh
đi, trông rất ngu ngốc. Và Keating vui mừng với ý nghĩ cô đã đuổi một tay khác
vì một cuộc trò chuyện mà cô muốn tiếp tục với “người bạn” của mình là Peter
Keating.

Nhưng khi anh quay sang cô thì cô lại ngọt ngào hỏi: “Chúng
ta đang nói đến đâu rồi, anh Keating?” Và rồi cô lại nhìn chằm chằm một cách
hết sức thích thú ngang qua căn phòng vào dáng vẻ héo hon của một người đàn ông
nhỏ bé đang đứng ho bên một ly whisky.

“À,” Keating nói, “chúng ta đang...”

“Ồ, Eugene Pettingill kia rồi. Một người
tôi rất yêu thích. Tôi phải đến chào Eugene.”

Và cô đứng dậy, đi ngang qua căn phòng,
thân hình ngả về phía sau khi cô bước đi. Cô tiến về phía người đàn ông tứ tuần
xấu xí nhất quả đất kia.

Keating không biết anh đã bị cô sung vào
hàng ngũ những người như Gordon L.Prescott hay là đây chỉ là sự tình cờ.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3