Phần II: Ấn Độ - Nepal - Chương 50 - 51- 52

50. Vỡ mộng với trại trẻ mồ côi

“Trời ơi, mình làm cái quái gì ở Nepal thế
này?”.

Đó là câu đầu tiên tôi thốt ra khi xuống xe ở
Kathmandu lúc năm giờ sáng. Tự nhiên tôi thấy mình ngu ghê gớm. Đùng đùng giữa
trời đông lạnh chọn đi đâu không chọn lại chọn lên Himalaya. Lạnh, lạnh, lạnh,
lạnh, lạnh. Chưa bao giờ tôi thấy lạnh đến như thế. Không khí lạnh đến mức hít
thở thôi cũng đã là một cực hình. Tôi mặc bộ quần áo nỉ Asenla may cho rồi mặc
áo len mà Asenla tặng làm quà Giáng sinh vào bên trong, mặc thêm áo khoác bên
ngoài mà vẫn lạnh. Da tôi cứng lại, tay chân không cử động được. Đầu óc tôi
cũng đông đặc lại, chẳng nghĩ được gì. Không xe bus xe biếc gì hết, tôi phóng
tay bắt taxi về trại trẻ mồ côi.

Các bé mở cửa ra chạy ùa đến ôm lấy tôi. Tôi
được bố trí một căn phòng riêng. Phòng đối diện là hai tình nguyện viên khác
đến từ châu u, tôi không nhớ chính xác là nước nào. Vào nhà rồi vẫn lạnh. Sau
hai ngày hai đêm vật vã từ biên giới về đây, tôi chỉ muốn tắm gội cho sạch hết
bụi bẩn trên đường đi, nhưng trời lạnh đến mức động vào nước còn sợ nói gì đến
tắm. Ở đây không có nước nóng mà phải kéo nước từ giếng đào sâu dưới đất. Các
bé một tuần chỉ tắm gội một lần vào trưa chủ nhật khi mặt trời lên cao.

Buổi chiều, Maya phóng ô tô đến thăm. Việc đầu
tiên chị làm là đưa cho tôi danh sách dài dằng dặc những thứ cần mua cho trại
trẻ mồ côi. Tôi xem qua phát hiện ra trong danh sách đó có việc mua mười thùng
đựng rác cho trại trẻ. Tôi hỏi những thùng rác mà mẹ con bác người Hà Lan mua
cho đâu, Maya nói là không biết. Tôi hỏi hai bạn tình nguyện thì các bạn bảo
mấy buổi đầu tiên các bạn ấy đến thì có thấy, nhưng rồi tự nhiên chúng biến
mất. Nói chuyện với các bạn một hồi tôi còn tìm hiểu thêm được nhiều thông tin
cực sốc. Trong số năm mươi trẻ em mồ côi ở đây, khá nhiều trong số đó không
phải là trẻ mồ cô thật mà là con cháu họ hàng của Maya. Bác người Hà Lan mua
cho trẻ ở đây rất nhiều đồ chơi, nhưng bác vừa đi một cái là phần lớn đồ chơi
bị Maya tịch thu chỉ cho con cháu của mình chơi. Và rồi là Maya suốt ngày hỏi
đến tiền. Cái này thì tôi cũng cảm nhận rất rõ. Vừa lĩnh lương, tôi đã đóng góp
tiền mua thịt hàng tuần cho các bé, nhưng Maya bắt đầu hỏi đến đủ các loại tiền
khác. Thứ nhất, tôi cũng chẳng có nhiều tiền đến vậy. Thứ hai, tôi nhận ra rằng
ban quản lý trung tâm này cũng tham nhũng như rất nhiều những trại trẻ mồ côi
khác. Hai bạn tình nguyện viên kia đã cất công sang tận Nepal làm tình nguyện
rồi mà tự nhiên bỏ đi cũng không biết đi đâu. Mặc dù rất quý các bé ở đây, tôi
không muốn ở lại làm việc cho bộ máy tham nhũng này nên lấy lý do này kia về
lại thành phố, tìm cách thiết thực hơn để giúp đỡ các bé.

Không có chỗ ở, tôi phải ở tạm khách sạn. Đi
cả ngày trời hỏi han tất cả các nhà nghỉ ở Thamel, tôi tìm được phòng ở Nepal
Guest House, một nhà nghỉ ngay cạnh Irish Pub, với giá chỉ 300Rs ($1 lúc bấy
giờ tương đương 70 Nepali Rupees). Tôi đã nghĩ khách sạn ở Myanmar là rẻ, khách
sạn ở Nepal còn rẻ hơn nữa. Chỉ với $4, tôi có thể thuê được phòng đẹp nhất của
khách sạn với tường và nền lát gỗ, giường đôi to vật vã, bàn làm việc, cửa sổ
to thoáng, nhà tắm riêng với nước nóng, lại bao gồm cả wifi. HR, bác chủ khách
sạn, bảo rằng bây giờ đang là mùa vắng khách nên mới cho tôi thuê với giá đó.

Lúc ra ngoài ăn tối, thấy biển quảng cáo tiệc
Giáng sinh, tôi mới chợt nhớ ra là Giáng sinh sắp đến rồi. Tự nhiên, tôi thấy
thương mình ghê gớm. Một thân một mình ở đây, không quen biết ai thì đón Giáng
sinh thế nào? Tôi nhớ đến các bé ở trại trẻ mồ côi. Không biết các bé ấy đã bao
giờ được đón Giáng sinh chưa?

Một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu tôi. Tôi
lên nhóm Nepal trên CouchSurfing post một tin nói rằng tôi muốn tổ chức một bữa
tiệc Giáng sinh nho nhỏ cho năm mươi bé ở trại trẻ mồ côi, ai chưa có kế hoạch
gì cho Giáng sinh đều được chào đón. Mọi người có thể đóng góp một khoản tiền
tùy tâm để mua quà cho các bé. Sau đó khi các bé đi ngủ, cả nhóm có thể về lại
Thamel nhậu nhẹt để ăn mừng Giáng sinh kiểu người lớn. Kathmandu có lẽ có nhiều
trái tim bơ vơ. Trong một ngày tôi đã nhận được sáu trả lời, quyên góp được gần
$100. Ở Nepal, đây là một khoản tiền khá lớn. Chúng tôi mua bánh kẹo, sô-cô-la,
hoa quả, bóng bay, rồi bắt xe bus đến đấy. Vắng khách hay sao đó (vắng theo
tiêu chuẩn của Nepal thôi chứ vẫn có khách phải đứng), xe lượn lờ từ đầu này
đến đầu kia thành phố, gần hai tiếng mới đến trại trẻ mồ côi. Đến nơi thì chúng
tôi hay hung tin là các bé vừa bị bắt đi ngủ. Tôi biết giờ này các bé chưa ngủ
đâu. Không có Maya ở đấy, tôi đành phải tự quyết định. “Đánh thức các bé dậy”,
tôi bảo mấy tình nguyện viên ở đấy. Thế là chúng tôi vào gõ cửa từng phòng. Các
bé mặt ngơ ngác không biết chuyện gì đang diễn ra, nhưng vốn nghe lời, các bé
ngoan ngoãn ngồi thành hàng trong căn phòng mọi khi được dùng là phòng ăn kiêm
phòng học. Không khí ban đầu có vẻ kì cục vì chẳng ai biết mình đang làm gì.

“Các bé biết đêm nay là đêm Giáng sinh không?”

Một vài bé gật.

“Đã ai từng đón Giáng sinh chưa?”.

Tất cả đều lắc.

Chúng tôi vừa hỏi vừa trả lời về Giáng sinh.
Mấy bạn đi cùng tôi cũng được cái vui tính, bắt đầu làm trò: hát hò nhảy múa.
Các bé cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi phát quà. Còn thừa quà, chúng tôi nảy ra
ý định cho các bé thi văn nghệ. Các bé nhiệt tình hưởng ứng. Tất cả hát hò,
nhảy múa như phát cuồng. Lúc chúng tôi ra về, các bé tranh nhau ôm tôi. Một số
bé thổn thức khóc bởi chưa bao giờ được tham gia một bữa tiệc như thế. Bé này
ôm xong lại đứng vào hàng ôm tiếp. Riêng cái màn ôm này đã mất hơn nửa tiếng.
Quả thực, đấy là Giáng sinh vui nhất từ trước đến giờ của tôi.

51. Chiến lược “Kebano”

Trong số những người trả lời tôi vụ Giáng sinh
hôm đó, có một anh chàng mà tôi chỉ nhận được tin nhắn khi mà tôi đang trên xe
bus đến trại trẻ mồ côi rồi. Người đó là Asher. Anh chàng gửi tôi một tin nhắn
cũng thảm thiết không kém: “Tao đang héo hon vì buồn chán ở Kathmandu đây, mày
có trò gì vui đến giải cứu cho tao”. Tư tưởng lớn gặp nhau, chúng tôi nhanh
chóng kết thân.

Sau hơn một tuần ở Kathmandu, tôi vẫn chưa
biết mình đang làm cái quái gì ở đây. Kế hoạch ban đầu của tôi là ở tạm đây một
thời gian tập trung viết cho Walyou, nhưng kế hoạch cứ ngày một ảm đạm vì lạnh
đến mức tôi thậm chí còn chẳng bỏ tay ra khỏi chăn mà viết được. Cho đến một
ngày, tinh thần của tôi xuống thấp đến mức tôi quyết định gọi cho Asher hy vọng
rằng trí tuệ Do Thái của anh có thể cho tôi thêm một ít động lực.

“Tao đi chết đây. Bao nhiêu deadline mà tao
chẳng tập trung được vào cái gì”.

“Hừm, trong trường hợp này thì cách tốt nhất
là sử dụng chiến lược Kebano”.

“Là sao?”

“Là mày nói Kệ bà nó, tắt máy tính, rồi ra
ngoài đi chơi”.

Và đấy chính xác là những gì tôi làm sau đó.

Asher gọi bạn của anh và bốn đứa chúng tôi leo
lên hai con xe máy già nua, long sòng sọc luồn lách qua làn xe cộ nổi tiếng
điên khùng của Kathmandu. Sau gần một tiếng, cuối cùng chúng tôi cũng đến được
miền đất hứa: Một quán ăn giữa chốn đồng không mông quạnh. “Ở đây có chhaang
rất ngon”, Binod hồ hởi giới thiệu. Căn nhà nhỏ dựng lên ngay giữa cánh đồng
lúa với một kiến trúc khá kỳ cục cho phép khách hàng có thể ngồi bất cứ đâu:
trong phòng, trên cầu thang, trên gác xép. Từ mái nhà nơi chúng tôi ngồi, bạn
có thể phóng tầm mắt ra xa tít tận chân trời. Bò thong thả đi dạo trong sân. Gà
thong dong cục tác trên mái. Một cảm giác thanh bình đến lạ. Mọi thứ đang diễn
ra suôn sẻ thì tự nhiên, người bạn bác sĩ của chúng tôi nhận được một cuộc gọi
khẩn cấp từ bệnh viện. Anh nhìn có vẻ hết sức bối rối, nhưng rồi quyết định tắt
máy và nói:

“Kệ bà nó”.

Ha, chiến lược Kebano là nhất. Giá như anh
chàng này mà nghĩ sâu xa rồi bất chợt bỏ về thì chúng tôi lại phải kẹp ba mà
về.

Chúng tôi gọi chhaang và rosy (vodka của
Nepal) với đủ loại đồ ăn vặt Nepal: đậu phộng muối, thịt trâu khô, khoai tây
xay nhuyễn nấu masala, trứng rán đậu lăng, cá mặn, măng. Cảnh, gió, rượu khiến
tôi cảm giác hơi ảo. Tôi phát hiện ra một cái lồng với những dải dây dài treo
bên trong.

“Ớt à?”.

“Không, thịt khô đấy”.

“Mình lấy được không?”.

“Mình có thể đặt người ta nướng ngay cho bây
giờ”.

“Không, nó muốn ăn trộm cơ”. Ha, chỉ có Asher
là hiểu tôi. Mua thì còn gì thú vị.

“Lồng bị khóa mà”.

“Để em thử. Canh chừng cho em nhé”.

Tôi chạy đến, khéo léo mở khóa rồi luồn ngón
tay của mình vào trong, lôi ra mấy mẩu thịt nhỏ. Cả nhóm còn chuẩn bị báo
Kantipur. Chúng tôi tự nhiên cười lăn lộn khi thấy Asher cẩn thận gói thịt vào
trong giấy báo, nhét vào trong túi. Trời ạ, chúng tôi cứ như là kẻ trộm chuyên
nghiệp vậy.

“Chỗ này khoảng bao nhiêu tiền?”. Tôi hỏi.

“Khoảng 100Rs. Có thể hơn”.

“Mình nên để lại 100Rs tiền tip”.

“Khoooooong”. Binod nhiệt tình phản đối.
“Không ai để tiền tip ở Nepal cả. Kỳ cục lắm”.

Tôi phải giải thích thêm rằng tip không phải
là chuyện phổ biến ở Nepal. Nhà hàng thường tính 10% hay 15% phí dịch vụ. Tôi
đã có một lần vô cùng xấu hổ vì cả gan dám tip. Tôi đưa cho cậu bé làm việc ở
khách sạn 100Rs vì xách ba lô lên phòng cho tôi, cậu nhìn tôi như thể bị xỉ
nhục.

“Tiền này để làm gì?”.

“Không có gì”. Tôi chạy vào phòng, đóng sầm
cửa lại để giấu khuôn mặt đỏ bừng bừng. Từ đó về sau, tôi không bao giờ tip ai
ở đây nữa.

Chúng tôi rời nhà hàng với chiến lợi phẩm, cảm
giác như một băng đảng tội phạm. Thỉnh thoảng cũng phải phạm một tội gì đó vô
hại để thấy rằng mình vẫn là con người.

Chúng tôi về lại thành phố và tụ tập ở Sam’s
bar. Tôi rất thích bar này vì nó có đống lửa rất ấm cúng. Tất cả mọi người có
thể ngồi quây quần quanh đó. Asher bẻ một que tre từ ban công, xiên thịt vào đó
rồi nướng. Khách Sam’s bar hôm đấy được một phen cười bể bụng vì hai đứa dở người
dí sát mặt vào đống lửa, vừa ăn xiên thịt nướng cháy đen vừa tấm tắc khen như
thể nó ngon lắm.

Tôi trở về khách sạn, tràn đầy sinh khí và
động lực. Ít nhất tôi cũng đã có thể bỏ tay ra khỏi chăn để viết bài này. Chiến
lược Kebano thật là hiệu quả. Trí tuệ Do Thái cấm có sai.

52. Tìm gặp Kumari của Nepal

Một lần ngồi chúng tôi đang đang ngồi tán dóc,
Binod khoe màn hình điện thoại của anh. Đó là hình một cô bé khoảng sáu, bảy
tuổi, đánh môi đỏ chót, đuôi mắt đen dài, mắt phượng to tròn ở trán, đội mũ đỏ,
áo đỏ.

“Cháu gái anh. Kumari đấy”.

“Kumari là cái gì?”

“Con bé này ở Nepal mà chẳng biết gì về Nepal
thế. Kumari là nữ thần sống đấy”.

“Hả? Cháu gái anh sạo lại là nữ thần?”.

“Kumari. Sinh ra là cháu anh nhưng thực ra là
nữ thần đầu thai vào đó”.

“Thật á? Người ta thờ lạy bé này luôn á?”.

“Thật. Người thờ lạy quá nhiều luôn”.

“Ghê nhỉ. Thế anh là cậu của nữ thần có được
tính là nam thần không?”.

“Nói năng linh tinh. Lên mạng tìm hiểu đi.”

Tôi lên mạng tìm hiểu và đã bị sốc. Tôi cứ
nghĩ mình là đứa rảnh đường rảnh đất, vậy mà một nét văn hóa hay như thế này
lại không hề biết tới. Kumari, tiếng địa phương nghĩa là thần trinh tiết, là
hiện thân của nữ thần tối cao Durga của đạo Hindu. Khắp Vương quốc Nepal có năm
hay ba Kumari. Mỗi Kumari trị vì một khu vực để ban phước lành cho người dân ở
đó.

Việc lựa chọn Kumari trải qua những quy trình,
quy định rất khắt khe. Kumari được lựa chọn từ những bé gái khoảng ba đến năm
tuổi thuộc dòng tộc Shakya, cùng dòng tộc vớiĐức Phật Thích Ca Mẫu Ni. Những bé
gái có cơ thể hoàn mỹ, không chút khuyết điểm, chưa từng bị thương chảy máu,
chưa từng bị mụn nhọn trên người…mới đủ điều kiện làm ứng cử viên. Những bé gái
hội đủ ba mươi hai điểm cát tường (cổ trắng ngần, thân như cây bồ đề, chân như
đùi hươu, lông mi dài và cứng, mắt và tóc đen nhánh, ngực như sư tử, răng đều
tăm tắp…) sẽ phải trải qua những bài kiểm tra nghiêm khắc hơn nữa để đảm bảo
rằng bé gái đó sở hữu những đức tính của thần Durga, bao gồm sự thanh thản và
dũng cảm. Một trong những bài kiểm tra đó là bé gái phải ngủ một mình trong
phòng tối với đầu súc vật xếp quanh mà không thể hiện sự sợ hãi.

Bài kiểm tra cuối cùng cũng không khác gì với
bài kiểm tra tìm Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng. Ứng cử viên phải lựa chọn chính
xác vật dụng của Kumari tiền nhiệm trong một loạt những vật dụng được đưa ra.
Bé gái được chọn sau đó sẽ được làm lễ chuẩn bị cho nữ thần nhập vào. Kể từ đó,
toàn bộ cơ thể của Kumari được coi là linh thiêng, không được phép chạm đất trừ
khi nền được trải thảm đỏ. Kumari không được sống chung với gia đình. Những bé
gái này sẽ phải từ biệt cuộc sống trần tục để vào sống trong ngôi đền dành
riêng cho mình. Kumari không đến trường mà giáo viên phải đến ngôi đền để giảng
dạy. Mỗi năm, Kumari chỉ được ra ngoài để ban phước lành trong các dịp lễ quan
trọng như lệ hội truyền thống Indra Jatra của người Hindu tại thủ đô Kathmandu.

Quan trọng nhất và được tôn thờ nhất là Kumari
Hoàng gia sống trong ngôi đền ở trung tâm thủ đô Kathmandu, cách Thamel chỉ
khoảng ba mươi phút đi bộ. Tôi quyết định rằng mình phải tìm gặp Kumari này cho
bằng được. Nhưng chỉ có người Nepal và Ấn Độ mới được cho phép gặp nữ thần.
Cách duy nhất để người nước ngoài như tôi có thể diện kiến Kumari là chờ nữ
thần xuất hiện ở cửa sổ ngôi đền hai lần mỗi ngày vào chính giờ sáng và bốn giờ
chiều. Thế là sáng hôm ấy, tôi cẩn thận diện lên mình bộ quần áo truyền thống
của con gái Ấn Độ với hy vọng có thể đánh lừa được bác bảo vệ như lần ở Taj
Mahal.

Ngôi đền nằm trong Quảng trường Durba
Kathmandu. Bình thường người nước ngoài phải mua vé $3 vào trong, nhưng mà bảo
vệ ở đây khá lỏng lẻo nên trừ khi bạn đâm đầu thẳng vào chỗ soát vé, bạn đi từ
bất kỳ hướng còn lại đều không phải mua vé. Bên ngoài ngôi đền có khoảng bốn,
năm người dân chào mời bán hình của Kumari. Một bà cụ da đồi mồi, mắt nhăn
nheo, tay lật lật xấp ảnh, miệng phì phèo điếu thuốc. Thấy là lạ, tôi mua cho
cụ một tấm.

Ngôi đền ba tầng thực ra là một ngôi nhà gạch
chỉ được ốp gỗ dành riêng cho Kumari. Trong đền chỉ có một người làm bảo vệ
luôn mặc đồ thường dân, thầy tu phụ trách đền và những người phục vụ.

Tuy nhiên, sau khi năn nỉ mọi cách, rồi cả
trèo tường mà vẫn thất bại, tôi đành ngậm ngùi tham gia nhóm khách du lịch đang
chen nhau đứng dưới sân chờ đợi sự xuất hiện của Kumari. Mọi người được nhắc
cất máy ảnh vì nếu thấy máy ảnh, Kumari sẽ không ra mặt.

Kumari đương nhiệm có tên là Matina Shakya,
sáu tuổi, xuất hiện ở khung cửa sổ với vẻ mặt hơi buồn. Kumari Matina Shakya
xuất hiện trong bộ trang phục màu đỏ với tóc vấn cao cùng với nhiều trang sức
và con mắt thứ ba được vẽ trên trán tượng trưng cho sức mạnh nhìn xuyên thấu.
Khách du lịch nước ngoài hoan hỉ vỗ tay, người dân Nepal thành kính cúi lạy.

Kumari Shakya thờ ơ nhìn khắp lượt đám đông.
Kumari không cười, không vẫy tay chào, không nói một lời nào nhanh chóng đi vào
trong, nhanh tới mức một số người vẫn còn ngơ ngác.

Người dân Nepal ở trong đền giải thích cho tôi
biết mỗi biểu hiện trên nét mặt hoặc cử chỉ của Kumari đều được coi là điềm
báo. Họ cũng nói rằng tôi là người may mắn khi gặp được Kumari với khuôn mặt
lạnh như băng vì như thế có nghĩa là mọi ước nguyện của tôi đã được chấp nhận.

Nếu Kumari khóc hoặc cười to thì đó là điềm
báo của bệnh tật hoặc cái chết. Người dân Nepal cũng tin rằng khi Kumari ứa
nước mắt là điềm báo có ai đó sắp chết hoặc than phiền về thức ăn nghĩa là có
người sắp mất mát về tài chính.

Không trực tiếp gặp được Kumari Shakya, tôi
tìm cách gặp nữ sống thần khác. Gặp Kumari đang trong thời gian cai trị là
không tưởng, tôi nhờ Binod sắp xếp cho tôi gặp cô cháu gái của mình. Đó là
Chanira Bajracharya, vừa bước sang tuổi mười sáu, người từng làm Kumari tại
thành phố cổ Patan, nằm cách thủ đô Kathmandu khoảng ba kilomet về phía Đông
Nam. Chanira đã từng được xem là Kumari quan trọng thứ hai của Nepal, chỉ sau
Kumari Hoàng gia.

Chanira mất ngôi vị Kumari cách đây hai tháng
khi cô bắt đầu có kinh. Người dân Nepal tin rằng một khi Kumari chảy máu, dù là
do kinh nguyệt hay bị thương, Nữ thần tối cao Durga của đạo Hindu sẽ rời bỏ cô.

Tôi gặp Chanira tại căn phòng trong ngồi đền
thiêng, nơi Chanira từng gặp gỡ thần dân đến xin ban phước lành. Tôi từng tiếp
xúc với rất nhiều cô gái trẻ Nepal, nhưng trong những phút đầu gặp Chanira vẫn
rất khó trò chuyện. Sau khi chào cô bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Nepal mà không
được đáp trả, tôi mới được cha cô giải thích rằng cô vẫn chưa học được cách
giao tiếp với người lạ và vẫn quen với quy định không được phép trò chuyện. Tôi
không biết nên bắt đầu bằng chủ đề gì. Chanira không chơi thể thao, không nghe
nhạc, mặc dù cô được coi là một trong những Kumari cấp tiến và hiện đại nhất.

Cha cô còn cho biết trước đây không người
ngoài nào được phép nói chuyện với Chanira vì bị cho là làm ô uế sự thanh khiết
của Kumari. Sau một lúc độc thoại, cuối cùng tôi cũng khiến Chanira mỉm cười và
bắt đầu nói chuyện. Với mọi người dân Nepal giờ đây Chanira cười hay khóc dường
như không còn là điềm báo nữa.

Tóc búi gọn sau gáy, mặc áo len và quần bò
trong tiết trời se lạnh, Chanira trông khác hẳn với những bức ảnh trang nghiêm
trong bộ đồ lễ vẫn còn treo trong phòng. Nếu không được báo trước, chắc tôi và
ngay cả những người dân Nepal khó có thể nhận ra cô từng là Kumari.

Không được trang điểm như khi còn là Kumari,
nhưng khuôn mặt bầu bĩnh của Chanira vẫn toát lên nét đẹp và sự quyến rũ lạ
lùng. Cách nói chuyện của Chanira cũng toát lên thần khí và đặc biệt là sự
thông minh như người dân Nepal vẫn lưu truyền.

Dường như Chanira vẫn chưa quen với cuộc sống
của người phàm trần và việc cô trở lại ngôi đền như để vơi đi sự tiếc nuối và
nỗi nhớ về nơi đã gắn bó suốt thời niên thiếu, từ lúc mới năm tuổi. Chanira cho
biết trong một thập kỉ làm Kumari, cô không có bất kỳ người bạn nào, nhưng có
thể trò chuyện và chơi với hai người anh em trai của mình.

“Thế có buồn không?”.

“Không, cũng chẳng buồn”.

Trong suốt gần mười năm làm Kumari, Chanira
hầu như chỉ gặp dân chúng đến làm lễ, nhất cử nhất động đều được quan sát và
xem như là điềm báo. Chanira thậm chí phải kiềm chế để không cười to thành
tiếng vì đó được xem là điềm báo về bệnh tật nặng hoặc cái chết. Chanira cho
biết mỗi năm khi còn ở ngôi vị Kumari, cô chỉ rời khỏi ngôi đền gần hai mươi
lần để tham dự các buổi lễ quan trọng.

Chanira nói tiếng Anh khá dở do không được
thực hành nên tôi phải nhờ Binod phiên dịch. Chanira vào học đại học ngành tài
chính đã được một tháng sau khi tốt nghiệp phổ thông đúng như ước nguyện khi
còn ở trong đền thiêng. Ít tháng trước, Chanira khiến dư luận quốc tế xôn xao
khi là Kumari đương nhiệm đầu tiên của Nepal vượt qua kì thi trung học phổ
thông được tổ chức ngay trong ngôi đền.

Một điều khá dễ hiểu khi Chanira nói thực sự
cô có cảm giác hụt hẫng khi không còn là Kumari nữa. Trước đây, cô không được
phép ra ngoài, nhưng cảm thấy vui mỗi lần làm lễ với dân chúng và đặc biệt là
gặp gỡ các bạn học sinh. Bây giờ, cô không biết sử dụng thời gian rảnh rỗi của
mình thế nào. Cô đang dần làm quen với bạn cùng lớp đại học, nhưng việc kết bạn
không dễ.

Cô cũng không quen đường sá trong thành phố do
ở trong ngôi đền quá lâu. Giờ đây mỗi lần ra ngoài, Chanira đều phải nhờ người
thân đi kèm. Trước đây bố mẹ không được phép quát mắng, chỉ dạy Chanira, nhưng
từ nay mọi việc sẽ khác.

Sau khi đã quen nhau, tôi đề nghị dẫn Chanira
đi chơi, thăm thú thành phố đề làm quen với cuộc sống đời thường, cô vui vẻ gật
đầu và hẹn tôi đến nhà đón. Tôi hào hứng kể và muốn dẫn Chanira đến thưởng thức
món Pizza cực ngon và cả những món ăn thời thượng khác mà giới trẻ Nepal yêu
thích.

Tuy nhiên, Chanira bẽn lẽn nói rằng cô không
được phép ăn uống ngoài phố. Dường như Chanira quên rằng mình đã không còn là
Kumari nên hoàn toàn có thể ăn ở nhà hàng, đi học, làm việc, yêu và kết hôn như
những cô gái trẻ khác ở Nepal.

Từ một cô bé bình thường trở thành Kumari đã
khó, nhưng từ thánh nữ trở lại làm người thường, hòa nhập với thế tục còn khó
hơn. Khi còn là nữ thần, Chanira và cả gia đình cô được tôn thờ, chiều chuộng,
nhiều mong muốn của họ đều được Nhà nước đáp ứng. Khi ngôi vị thiêng liêng đó
không còn nữa, Chanira lo lắng mình và gia đình cũng sẽ bị lãng quên dần đi như
những Kumari khác.

Hiện cựu Kumari Chanira sống nhờ vào gia đình
cùng khoản trợ cấp mang tính tượng trưng (khoảng 800.000 VND/tháng) dù Tòa án
Tối cao Nepal đã lệnh cho Chính phủ nước này phải đảm bảo đời sống và giáo dục
cơ bản cho các cựu Kumari.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3