01. Lại nói về “những thứ dưới nước” - Phần 03

Hồn ma treo cổ

Trong Duyệt vi thảo đường bút ký của Kỷ Vân đã dẫn một
câu chuyện nói về một tên côn đồ, qua đó phân biệt rõ hai loại hồn ma, một loại
chết chìm dưới giếng, một loại khác treo cổ tự vẫn, cả hai hình thức tìm đến
cái chết đó đều cần phải đắn đo vì chẳng ai có thể biết lựa chọn nào là thích hợp.

Trong Đường ngôn có một câu nói: “La bặc bạch thái
các hữu sở ái”[15], một câu nói khác cũng có ý nghĩa tương tự: “Đầu hà thượng
điếu, các hữu sở hiếu.”[16] Tại sao lại có những người dễ dàng tìm đến cái chết
mà không biết trân trọng cuộc sống của mình? Tất nhiên phải tìm đến con đường
không lối thoát như vậy cũng có nhiều nguyên nhân từ hoàn cảnh đến tâm lý,
nhưng nghĩ kỹ lại thì còn có một nguyên nhân khác xuất phát từ chính “sự thoải
mái” trong quá trình giản đơn hóa cuộc sống và cái chết, nên những người tự tử
ngày một gia tăng đã trở thành điểm nóng của xã hội.

[15] Ngay cả loài củ cải
trắng còn có tình yêu.

[16] Cúi đầu trên mặt
sông xót thương người đã chết cũng là biểu hiện của tình thương yêu.

Không biết là bắt đầu từ khi nào, thắt cổ tự vẫn đã trở
thành phương thức thường dùng nhất của những người muốn tự sát. Mặc dù, đó
không phải là cách thể hiện “oanh liệt” nhất, nhưng không thể nghi ngờ đó là
hình thức tiện lợi và nhanh chóng nhất. Và đó cũng là hình thức thường dùng của
các vị hoàng đế ngày xưa. Thời Xuân Thu, Sở Linh Vương, Ngô Vương là những vị
hoàng đế cao quý đã lựa chọn đến với cái chết bằng cách treo cổ tự vẫn bên gốc
cây trên đỉnh Vạn Tuế sơn. Còn đối với những người dân thường, thì trong Tự
quải đông nam ký
có miêu tả, từ những ngôi nhà tranh ven sông thường vọng đến
những âm thanh thảm thiết, đó là tiếng khóc thương, than vãn của những người
dân thường khi họ đi tới bước đường cùng buộc phải tìm đến cái chết trên xà nhà
để giải thoát cho chính mình.

ở thời cổ đại, hình thức tự sát rõ ràng không phải là “cái mốt
đa dạng” theo kiểu “quang điện hóa khí” như thời hiện đại, nhưng cũng có một
vài hình thức để lựa chọn. Vậy mà cách họ tự sát cũng oanh liệt chẳng kém gì Sở
Bá Vương hay Vưu Tam Thư. Bởi lẽ ở họ có dũng khí, có sự lợi hại mà người bình
thường không thể có, khi thì nhảy lầu, lúc lại rơi từ trên đài cao xuống...
Hình thức tự sát ở thời cổ đại cũng có những đặc quyền nhất định, trong đó mức
thấp nhất chính là hình thức bêu xấu trên khán đài, rồi ép uống thuốc độc, nhốt
vào nhà lạnh hoặc xông khói độc... Không nói đến những phí tổn do các hình thức
tự sát này gây ra, rõ ràng thời nay chúng ta không thể dễ dàng theo được cha
ông ta về sự “tinh tế” và “mức độ sáng tạo” như thế. Nói đi nói lại, lựa chọn
hình thức tự vẫn treo cổ hay nhảy sông vẫn đỡ tốn kém chi phí nhất. Hơn nữa,
hình thức treo cổ lại không câu nệ về mặt thời gian, địa điểm hay bị người
ngoài xoi mói, bắt bẻ nhiều điều. Nói một cách khác thì hình thức này vốn không
bị phụ thuộc vào địa hình, địa thế, chỉ cần chuẩn bị một sợi dây đủ đỡ trọng lượng
cơ thể mình là có thể đạt được mục đích rồi. Từ những điểm trên có thể thấy
treo cổ tự vẫn vẫn là hình thức tiện lợi mà từ những người bình dân đến dòng
dõi quý tộc thường lựa chọn mỗi khi muốn tìm đến cái chết.

Một số lượng không nhỏ những người tìm đến cái chết là những
kẻ nghèo đói và những người sống trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc. Trong sách
cổ thường có một số lượng lớn ghi chép về nỗi tuyệt vọng của những người buộc
phải lựa chọn cho mình con đường chết. Đó là những người dân chạy loạn do chiến
tranh hoặc những người dân lầm than cơ cực vì khổ sai lao dịch. Trên con đường
đầy bất hạnh ấy, cứ cách mười bước chân lại có người đói khát treo mình trên
cành cây. Thảm cảnh này thực sự là quá sức tưởng tượng. (Đương nhiên, nếu như
có một vương triều không cho người dân cái quyền tự do giải thoát mình khỏi cái
đói, cái khổ của cuộc sống bằng cách tự vẫn thì cũng chỉ là hình thức lấp liếm
qua quýt để phô ra cái vẻ tốt đẹp bề ngoài mà thôi.) Nói đến thời kỳ loạn lạc,
có thể dẫn ra đây một đoạn ghi chép từ cuốn bảy, Quang Châu binh mã trùng
trong Di kiên chi chí quý tập:

Quang Châu (tức Hoàng Xuyên, Hà Nam ngày nay) trải qua thời
kỳ chiến loạn bi thảm, tàn khốc trong lịch sử. Binh đao khói lửa vô tình khiến
bao người dân vô tội chết thảm. Trong hoàn cảnh đó, nhiều anh hùng nhân kiệt
như Thuần Hi Sơ, Thương Nhiễu Trịnh đã tìm mọi cách trấn thủ địa phận quận huyện
mình cai quản. Thậm chí họ còn cho xây dựng hành lang trấn thủ kiên cố, vững chắc
ở phía tây thành. Hỏi sai dịch của quan lại thì nhận được câu trả lời: “Những
kho kiên cố đó đến nay chưa mở cửa một lần.” Trong suy nghĩ Trịnh Tố Tham ắt có
tư tưởng phục quốc. Đạp đổ xiềng xích, gông cùm, gươm đao... đó đều là những tư
tưởng lệch lạc làm tổn thất đến lợi ích quốc gia nên không thể tin dùng. Hệ lụy
xảy đến là hàng vạn người treo mình trên xà nhà tự vẫn. Có người ghi lại: “Thời
buổi loạn lạc, người dân chạy loạn kín đường, họ tự tìm cách giải thoát cho
mình bằng sợi vải tơ thắt cổ tự vẫn.”

Hàng vạn người treo cổ tự vẫn trên xà nhà, con số này quả thực
có sức mạnh tố cáo ghê gớm. Điều này đã trở thành một “hiện tượng” vô cùng kỳ lạ.
Lần lượt hàng vạn người treo mình tự tử tạo nên một tình cảnh thảm thương, bi
đát, xót xa đến cùng cực trong lịch sử Trung Hoa thời đó.

Mặc dù phần lớn những người tự vẫn đều thuộc tầng lớp dân
đen con đỏ, những người rơi vào cảnh sống lầm than cơ cực, không lối thoát,
nhưng đứng trên phương diện lịch sử mà nói thì đây quả thực là một giai đoạn lịch
sử đen tối của đất nước. Một bộ phận không nhỏ những người tìm đến cái chết thời
kỳ này là những trung thần hết mình vì đất nước, những liệt nữ kiên trinh tìm đến
cái chết để bảo vệ phẩm giá cao quý của mình. Hành động ấy của họ tiêu biểu cho
những con người trung nghĩa, chính trực trong vương triều, đối lập với những
cái chết đê hèn của kẻ thất phu tiểu nữ chỉ bôi nhọ thêm cho nền thống trị vốn
dĩ là linh thiêng thần thánh theo kiểu “tự kinh ư câu độc nhi mạc chi tri dã”[17].

[17] Theo Luận ngữ.

Đặc biệt thời kỳ Tống, Nguyên sau này, khi cái lý học dần dần
thấm nhuần trong tư tưởng của quần chúng nhân dân thì vấn đề tự sát được biểu
hiện dưới những hình thức, thậm chí là những thủ đoạn đơn giản mà tinh vi hơn rất
nhiều nhằm bảo vệ cái gọi là trung nghĩa, tiết liệt của người quân tử. Và dường
như người ta cũng ưa lựa chọn cái “long xà” làm nơi thực hiện hành động treo
thân mình tự sát để bảo vệ danh phẩm của mình. (Tất nhiên đây là việc làm của
những người có thân phận cao quý trong xã hội.) Họ tìm đến hình thức tự sát này
chẳng những để bảo vệ danh giá của gia tộc mà còn vì Tổ quốc. Mặc dù họ đã chết
nhưng vẫn còn thế hệ con cháu sau này cung kính mà tưởng nhớ. Những hành động lập
cờ biểu, lập bàn thờ, lưu danh sử sách đều là những thủ đoạn của những người
đương quyền trong hiện tại hay quá khứ nhằm đề cao, tán dương những thứ được gọi
là đạo đức hoàn thiện theo kiểu “dị dạng” đó. Thành thử hình thức này đã trở
thành hành động “diễn trò” tồn tại trong suốt mấy triều đại Tống, Nguyên, Minh,
Thanh. Khi Sùng Trinh lên ngôi hoàng đế đã đưa ra lệnh chỉ những người thân cận,
gần gũi nhất với mình mới được phép diện kiến, song hành cùng với nhà vua, còn
những kẻ khác không có cơ hội này. Tin tức truyền đến, một số trung thần lũ lượt
tìm cách treo mình lên xà nhà quyên sinh nhằm phản đối. Với hành động ấy, lẽ
đương nhiên những người này sẽ được ghi danh trong sử sách. Một trường hợp
khác, người mẹ khi biết con rể chết, người con gái đang còn xuân trẻ của mình
buộc phải thủ tiết thờ chồng sẽ vô cùng khốn khổ. Bà đắn đo suy tính, hoặc là
khuyên con nên bỏ đi cái chữ tam tòng, mặc kệ việc đánh mất danh tiết mà đi bước
nữa, hoặc là giữ lấy hai chữ tiết trinh mà khuyên con mình treo cổ tự vẫn để trở
thành tấm gương liệt nữ và được người đời sau truyền tụng, ngợi ca, lưu danh sử
sách. Trong lịch sử những trường hợp như trên thường thấy rất nhiều.

Cho nên, dù không có số liệu thống kê một cách tuyệt đối
nhưng nhìn một cách khái quát có thể quả quyết rằng treo cổ là phương thức tự vẫn
được con người lựa chọn nhiều nhất trong lịch sử từ cổ chí kim. Mặc dù vậy
nhưng ở thời cổ đại, một khoảng thời gian rất dài không có hồn ma treo cổ nào
được quan tâm một cách đặc biệt. Chính vì vậy, có thể thấy loại hồn ma treo cổ
xuất hiện tương đối muộn. Sau này, những người treo cổ tự vẫn đi vào các câu
chuyện ma quỷ một cách rất tự nhiên, như ác ma đội lốt thái tử trong Tả truyện
hay người con gái họ Cung trong câu chuyện Hồng diệp truyền thi trích từ
Bắc mộng tỏa ngôn xuất hiện thời kỳ Ngũ Đại. Nhưng tất cả những linh hồn
chết do thắt cổ tự vẫn này thường đều trở thành những linh hồn kỳ dị. Do những
quy định nghiệt ngã của gia tộc đã chia cắt mối tình trong sáng giữa người con
gái họ Cung xinh đẹp và chàng thư sinh Lý Nhân thông minh, tuấn tú. Tuyệt vọng,
đau khổ vì tình yêu tan vỡ, nàng tìm đến cái chết. Nhưng:

Sau khi chết, linh hồn người con gái họ Cung vẫn vấn
vương, không rời chàng thư sinh họ Lý. Vài năm sau, Lý Nhân đột nhiên lâm bệnh
nặng. Gia đình thuốc men tìm người chạy chữa khắp nơi vẫn không khỏi. Một hôm,
có vị đạo sĩ già đi qua, người nhà bèn mời vào xem bệnh. Đạo sĩ phán “người này
có âm tà đeo bám” nên sắp cho mấy lá bùa hòng xua đuổi tà ma. Từ khi có những
lá bùa yểm bên người Lý Nhân, linh hồn người con gái họ Cung không còn chỗ đeo
bám đành phải cáo từ ra đi.

Xem ra linh hồn treo cổ tự vẫn ấy không những đa tình mà còn
vô cùng lương thiện. Nhưng xét về diện mạo bên ngoài hay tính cách bên trong của
người con gái họ Cung kia so với những hồn ma khác cũng không có gì khác biệt.
Ngay cả việc dùng âm khí thâm nhập vào người ở dương thế cũng là chuyện rất đỗi
tự nhiên như những hồn ma khác vẫn thường làm. Tất nhiên, trong những câu chuyện
viết về đề tài ma quỷ không thể thiếu những chi tiết được người viết cường điệu
hóa một cách đặc biệt. Đó là những yếu tố kỳ ảo làm nên nét độc đáo, cuốn hút
cho từng câu chuyện. Và truyện về người con gái họ Cung dẫn ra trên đây cũng
không phải là trường hợp ngoại lệ.

Nhưng để hình ảnh hồn ma treo cổ tự vẫn trở thành đề tài được
định danh trong lịch sử các câu chuyện cổ thì ít nhất chúng ta cũng phải vượt
qua được nỗi sợ hãi đơn thuần trước những câu chuyện ma quỷ đó. Đứng từ phương
diện văn hóa mà nhìn nhận thì có lẽ bắt đầu từ thời Nam Tống, trong Di kiên
chí
, yếu tố ma quỷ đã chính thức xâm nhập vào trong các câu chuyện cổ. Tôi
cho rằng hiện tượng này ít nhiều có liên quan đến những hạn chế nhất định trong
khả năng trị quốc của triều đình đương thời, do đó có thể lý giải phần nào
nguyên nhân khiến cho số lượng các vụ treo cổ tự vẫn ngày một gia tăng trong xã
hội thời kỳ đó. Tuy nhiên, điều này chúng ta sẽ từ từ bàn đến sau.

Hình ảnh những hồn ma treo cổ tự vẫn trong Di kiên chí
đương nhiên vẫn giữ được vẻ bề ngoài xinh đẹp có sức cuốn hút, hấp dẫn như những
hồn ma thời Đường. Chắc hẳn nếu không có được dung mạo mê hoặc như thế thì làm
sao có thể dụ dỗ những kẻ si tình say đắm đến điên đảo. Tất nhiên, trong số đó
hi hữu cũng có những hồn ma treo cổ mà không có được vẻ bề ngoài hấp dẫn. Có những
đôi lứa đang yêu nhau nồng thắm, nhưng khi một người bị vạch trần thân phận thực
là một hồn ma treo cổ thì họ thành ra xa lạ, trở mặt thành thù, rồi xuất hiện
những tình cảm oán hờn lẫn nhau. Có thể thấy, từ thời Nam Tống trở đi, mặt “ác”
trong những hồn ma treo cổ đã dần dần bộc lộ. Trong Di kiên ất chí, quyển
hai mươi Đồng ngân tượng, có đoạn miêu tả lại cảnh đối đầu giữa hồn ma
treo cổ và người tình sau khi trở mặt nhau: “Từ trên xà nơi chính giữa gian
nhà, hai hồn ma cùng thè ra hai cái lưỡi dài hơn hai thước để tiêu diệt lẫn
nhau.” Hình ảnh hai cái lưỡi dài dữ tợn lao vào tương tàn, sát hại lẫn nhau quả
thực từ trước đến nay chưa bao giờ có trong lịch sử văn học.

Với tư cách là loại hồn ma hung dữ, hình ảnh “lệ quỷ” trở
nên rất đáng thương nhưng cũng vô cùng đáng sợ. Đương nhiên, hình ảnh này có sự
liên hệ mật thiết với dung mạo người chết khi treo cổ tự vẫn: lưỡi thè ra, mắt
nhìn trừng trừng vẻ hung dữ, cổ ngoẹo sang một bên, tóc thả rũ rượi... Từ những
hình ảnh trong thực tế đó, khi bước vào các câu chuyện ma quỷ bao giờ cũng có sự
khuyếch trương, phóng đại một cách tuyệt đối. Nhưng điều đáng nói ở đây là, dù
có khuyếch trương, phóng đại đến mức nào, thì bao giờ người viết cũng dụng công
miêu tả chi tiết cái lưỡi như một điểm nhấn không thể thiếu khiến hình ảnh người
chết hiện lên thêm phần rùng rợn, kinh hãi.

Cũng bắt đầu từ thời Nam Tống, xuất hiện một số câu chuyện về
những hồn ma treo cổ không thể đầu thai chuyển kiếp. Những hồn ma ấy mãi mãi nằm
sâu trong lòng đất, giữa chốn u minh tăm tối, tĩnh mịch, lạnh giá. Di kiên
chi chí canh tập
, cuốn sáu với tên gọi Xứ Châu khách điện, Tam
chí tân tập
, cuốn chín mang tên Tiêu dân kiến hồ nhất tỉ, hay trong Tam
chí dã tập
, cuốn bốn có tên Phó cửu Lâm tiểu nữ... đều ghi chép lại
những chuyện có liên quan đến vấn đề nêu trên. Linh hồn những người treo cổ tự
vẫn một khi đã không thể đầu thai thì họ chỉ có thể lưu lạc giữa chốn trần gian
mà gây chuyện, quấy phá làm hại dân lành. Những linh hồn ấy phải đợi đến khi có
người trần làm công đức thờ cúng, làm lễ giải hồn thì mới có cơ hội chuyển thế
đầu thai kiếp khác. Nhưng điều làm chúng ta băn khoăn là tại sao có những người
nguyện treo cổ tự vẫn để giữ gìn phẩm giá sáng trong, để giữ vững cái đạo
trung, hiếu, tiết nghĩa của người quân tử, hay ngay cả những kẻ đáng thương vì
không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, phải đi tới bước đường cùng tự tìm đến
cái chết, họ khi còn sống hoặc là những kẻ đáng thương, hoặc là những người
đáng kính, vậy tại sao khi chết, những vong hồn ấy đều khiến người dân sợ hãi,
thậm chí là ghét bỏ đến như vậy?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3