03. Tị sát chị mê - Phần 02
2
Mặc dù “quy sát” là linh hồn người chết trở về, điều này đối
với những người thân trên dương thế chẳng phải có thể xem là một cơ hội rất tốt
để nói lời chia tay hay sao? Hơn nữa, rõ ràng ngày hôm đó sẽ là ngày để người
thân bày tỏ niềm thương tiếc, tưởng niệm, truy điệu linh hồn người đã mất. Những
người thân, bạn bè đều tề tựu đông đủ, nâng chén rượu tương giao và nói những lời
cuối cùng với vong linh người chết, người thân nghe di huấn cuối cùng của người
chết, sau đó nắm chặt bàn tay nhìn nhau trong nước mắt, vái chào lần cuối theo
đúng nghi thức, há chẳng phải là thỉnh lễ đầy đủ cả nhân thân một cách ấm áp,
sum vầy hay sao? Hơn nữa, ngay cả những điều tốt đẹp cũng không bao giờ là mãi
mãi, như một người giàu có, quyền quý cũng có khi chết vì tình trường, sòng bạc,
thương trường và cả quan trường... trong trường hợp này có thể bổ sung người lập
di chúc. Có những người không may mắn mất mạng trong tay thích khách hoặc kẻ cướp
hung bạo, khi ấy có thể chỉ rõ hung thủ là ai. Điều khiến người ta cảm thấy được
an ủi nhất là ngay cả những người đần độn, ngu ngốc đến mức nghiêm trọng trong
một thời gian dài, đến khi “quy sát”, tinh thần cũng trở nên minh mẫn, rạng rỡ,
ba năm không cất tiếng mà chỉ một tiếng kêu cũng khiến người khác giật mình
kinh ngạc... Những điều như thế quả thực thôi thúc người ta mong muốn được thấy
vong hồn người chết quay về. Vậy lẽ nào đến ngày “quy sát” mà bao người mong chờ
ấy, người nhà lại bỏ trốn hay sao? Nhưng nghĩ kỹ lại, chuyện tốt đẹp này cũng
là điều vừa muốn lại vừa không muốn. Thẩm Tam Bạch đã đi sâu nghiên cứu những
điểm yếu được coi là còn sơ hở của “quy sát”, nếu như ma quỷ bí mật hẹn hò với
vong thê, sẽ sớm bị ông trời làm rõ, cho nên khi vong linh quay về cần phải bố
trí, sắp đặt một người nào đó áp giải hung thần hoặc ác quỷ. Hay nói một cách
khác, thân phận của vong linh lúc đó chính là một tội nhân, cần phải xem xét thần
thái của anh ta lúc quay về, khi anh ta bước vào nhà phải theo dõi xem có biểu
hiện nào đáng nghi ngờ được coi là chứng cứ phạm tội như bề ngoài dơ bẩn hoặc
thái độ ngơ ngác tìm kiếm, nhặt bới mọi thứ hay không? Như vậy, những điều cam
chịu đó khiến vong thê, vong thiếp tách ra, trở thành những tiểu mệnh đa tình
(vì hình như không thấy nói đến vợ chồng), đành phải cùng người nhà đi tránh
hung thần. Nhưng trên thực tế, từ Lục triều đến đời Minh - Thanh, mặc dù về mặt
“lý luận”, “hồi sát” được nói thành “vong linh quay về”, nhưng hiện nay trong
các câu chuyện càng ít nói tới vấn đề này. Cũng chính là nói, trong các câu
chuyện về “hồi sát” rất ít thấy nói đến tình tiết bản thân người chết tự mình
hoặc bị áp giải trở về.
Ngưu Túc, người nhà Đường, trong Kỷ văn có ghi lại
câu chuyện về thiền sư Nghi Quang ở chùa Thanh Long, Trường An. Câu chuyện kể về
một vong hồn tự mình quay về “hồi sát”. Thời Đường Huyền Tông, có một vị quan
triều đình vợ qua đời, bèn mời thiền sư Nghi Quang đến lập đàn cầu phúc cho
vong hồn người chết. Nhưng đến ngày hồi sát, mọi người trong nhà lần lượt lén
lút lủi đi chỗ khác hòng tránh hung thần, chỉ còn lại một mình vị thiền sư già ở
lại trong dinh phủ tụng kinh. Đến nửa đêm, đột nhiên trong phòng thoáng thấy có
bóng người lướt qua, tiếp đó là tiếng cửa mở khe khẽ, và từ dưới bếp một người
phụ nữ xuất hiện, múc nước thổi lửa, một lát sau bưng đến trước mặt thiền sư một
bát cháo nóng. Đương nhiên, người phụ nữ này chính là người vợ mới chết của
quan phủ, linh hồn vừa hiện về nhập vào thi thể nằm trên giường như “sống” lại.
Vị “hung thần” này cử chỉ y như người còn sống vậy, cũng không làm bất cứ chuyện
gì có hại đến người khác.
Một câu chuyện khác về Bành Hổ Tử được viết trong Thái
bình quảng ký. Mẹ của Bành Hổ Tử qua đời, đến ngày “hồi sát”, mọi người
trong nhà đều lẩn trốn đi hết, chỉ còn lại Hổ Tử vốn không tin vào chuyện thần
quỷ, nên nhất định không ra khỏi nhà. Thế là đến nửa đêm liền có chuyện xảy ra:
Có người đẩy cửa, rồi đi vào căn phòng phía tây, tìm người
không thấy, vào phòng rồi lại đi ra, sau lẩn vào một căn nhà sơ sài. Hổ Tử bị bất
ngờ không biết làm thế nào, cạnh đầu giường có một bình sứ lớn, anh vội vàng
chui vào bên trong, lấy tấm ván làm nắp che đầu. Cảm giác như mẹ ở trên tấm
ván, có người hỏi: “Dưới ván không có người sao?” Mẹ trả lời: “Không có.” Sau
đó bỏ đi.
Trong câu chuyện xuất hiện vong hồn người mẹ đã chết của Hổ
Tử, mặc dù theo cùng còn có những ác quỷ khác, những hồn ma ác quỷ này vào nhà
để tìm kiếm người sống, và cũng để chứng nhận tạm thời rằng vong linh người chết
đã quay lại một lần. Tiếc là sau đó không thấy xuất hiện câu chuyện nào giống
như thế nữa. Đến thời Nam Tống, Hồng Mại trong Di kiên chi chí, quyển
tám, có một đoạn nói về “Lý Sơn phủ thê”[73] kể chuyện vong linh người chết
quay về, sống cùng người chồng của mình một thời gian, mặc dù mẹ chồng của nàng
cũng rắc tro bếp lấy dấu (chi tiết dùng tro bếp lấy dấu không chỉ được dùng khi
hồi sát, mà đến triều đại nhà Thanh vẫn còn phương thức hữu hiệu truyền lại
trong dân gian để kiểm tra dấu hiệu của ma quỷ, điều này đã được Lý Khánh Thần
bàn tới trong Túy trà chí quái) để kiểm tra xem cô có phải là ma quỷ hay
không. Nhưng linh hồn của cô gái không phải trở về trong ngày hồi sát, mà đã vượt
quá thời gian. Cho nên, đây chỉ có thể xem là loại chuyện kể về tình yêu nồng
thắm của con người ngay cả khi đã trở thành hồn ma nơi âm thế, trong đó có một
số tình tiết liên quan đến tục “quy sát” trong dân gian. Mãi đến thời nhà
Thanh, trong Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển một, Sát thần thụ gia
mới thấy xuất hiện câu chuyện hung thần áp giải vong hồn quy gia. Vợ chồng Lý Mỗ
chung sống bên nhau rất thuận hòa, đầm ấm, không thể tin rằng Lý Mỗ mới hơn ba
mươi tuổi mà bệnh nặng qua đời, thi thể đã nhập liệm, người vợ của Lý Mỗ không
kìm được nỗi đau, ôm ghì lấy quan tài, sớm hôm than khóc hết nước mắt. Đến ngày
vong hồn người chết trở về, nàng nhất định không chịu rời đi ẩn trốn, mà một
mình ngồi lại bên trong bức trướng chờ đợi:
[73] Nghĩa là: người vợ
mới cưới của Lý Sơn.
Đến canh hai, bỗng nhiên một làn gió lạnh lẽo thổi tới,
ngọn đèn dầu vốn leo lét chợt cháy lên ngọn lửa xanh biếc. Một bóng ma xuất hiện,
đôi mắt tròn xoe, mái tóc hung đỏ, cao khoảng một trượng, bàn tay nắm chặt một
cây xiên hình dấu gạch chéo bằng sắt, và một chiếc dây thừng kéo người chồng từ
ngoài cửa sổ đi vào. Thấy trên quan tài có bầy sẵn tiệc rượu, bèn hạ cây xiên
xuống đất, giải thẳng người chồng vào trong, ngồi xuống và ăn. Người chồng vuốt
nhẹ lên mặt bàn, đau xót buông tiếng thở dài ai oán, rồi đi đến bên chiếc giường,
nhẹ nhàng vén tấm màn lên. Người vợ khóc nấc lên ôm chầm lấy chồng, tiếng gió
thổi qua kéo theo một đám mây lạnh lẽo ùa vào, một cái bọc rơi xuống. Hung thần
tóc đỏ giật mình đến cướp lấy. Người vợ kêu to, ra sức giằng về, hung thần tóc
đỏ bước đi lảo đảo, nghiêng ngả. Người vợ nhanh chóng lấy cái bọc bắt lấy phần
hồn để vào trong quan tài, thi thể dần dần có sinh khí, người vợ mừng rỡ bế xác
chồng lên giường nằm nghỉ ngơi, mớm từng chút cháo loãng cho chồng, ngày hôm
sau, thi thể người chồng hồi lại. Từ đó, hai vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau đến
hơn hai mươi năm sau.
Cũng trong Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển chín, có đoạn
nói về “Giang Dật Lâm”. Người vợ của Giang Dật Lâm qua đời, đến ngày “hồi sát”,
anh ta nhất định không tránh đi nơi khác. Khi vong hồn của người vợ quay lại,
Giang hỏi: “Nghe nói người chết có quỷ tay sai áp giải nên bị câu thúc, gò bó,
mất tự nhiên, khi vong hồn quay về lại có hung thần theo sát, cớ sao nàng trở về
lại chỉ có một mình?” Người vợ đáp: “Hung thần chỉ quản thúc và lính lệ cũng vậy,
có phạm tội thì mới bị dùng dây trói lại mà giải đi. Chốn âm phủ biết thiếp
không hề phạm tội, lại vì một lẽ đường tiền duyên với phu quân vẫn chưa đoạn,
nên cố ý cho thiếp một mình quay trở về.” Đây là một loại chuyện linh hồn mượn
dịp hồi sát để phục sinh, cũng có thể liệt vào loại chuyện viết về vong linh hồi
sát. Nhưng ngoài những điều kể trên, nguyên nhân khiến tôi dẫn ra một cách có mức
độ những cuốn sách này làm ví dụ là vì không muốn bạn đọc phải xem lại những
câu chuyện linh hồn quy sát mà về hình thức đều gần giống nhau. (Thanh Thang Dụng
Trung trong Dực quynh bại biên, quyển sáu, có đoạn nói tới việc phân loại
thành hai loại truyện về “hồi sát”.)
Như vậy, trong loại chuyện kể trên, nói tới câu chuyện về
hung thần, hồi sát, đó chẳng phải cũng là một hình tượng khác của vong hồn hay
sao? Điều vốn bị coi là tai ương, là hung thần rốt cuộc lại chính là những vong
hồn hay nói một cách khác chính là dị vật. Mặc dù trong cách nói, chúng ta vẫn
thiên về khuynh hướng gọi đó là vong hồn, nhưng trên thực tế tất cả đều không
thể khẳng định được một cách rõ ràng. Do đó, hình ảnh hung thần cũng chỉ là một
cách nói theo quan niệm của số đông mà thôi. Vì không có ai từng tận mắt nhìn
thấy hung thần, hoặc giả nếu có một người nào đó khẳng định anh ta đã từng nhìn
thấy thần tai ương, thì chắc chắn anh ta chỉ nhìn thấy một cái gì đó khiến cho
anh ta có cảm giác đó chính là hung thần mà thôi. Cho nên cái gọi là “sát” hay
“ương” ở đây bản chất chỉ là một hình dáng mơ hồ nào đó, là cái mà trong một cuốn
sách gọi là sự vướng víu vô hình, khó diễn dạt. Như trong Dạ đàm tùy lục
đưa ra năm ví dụ, cách diễn đạt thứ nhất là: “Đột nhiên có một cơn gió lốc ào tới
thổi tắt đèn, một bóng đen ẩn hiện trên một tấm lưới đánh cá, ngọn lửa xanh biếc,
long lanh như đá quý, sáng bóng như tiền.” Cách diễn đạt thứ hai: “Đột nhiên thấy
một vật màu đen, trông như một đám tóc rối, từ mười tấc đất ngoi lên, xoay tròn
không ngớt. Lúc đầu thì to như mặt trời nhô lên cao, dần dần nhỏ như cái bát, rồi
như cái chén, cuối cùng lăn lộn rồi chui vào trong một cái lỗ dưới gầm giường,
một lát sau lại ra ngoài, co ro quay tròn không nghỉ, một lúc lâu sau thì mất
tăm.” Cách hình dung thứ ba: “Ngọn đèn đột nhiên tắt lịm, một vật giống như cái
vòi dài, hay đồ hút rượu mờ mờ ẩn hiện, phát ra tiếng động “gừm, gừm” đầy ghê sợ,
rồi bỗng dưng ngã lăn xuống đất, biến thành một con mèo lớn, khuôn mặt trắng bệch
như người đánh phấn, bám vào đất quay tròn mấy vòng như đang diễn trò cho người
khác xem.” Cách hình dung thứ tư: “Đột nhiên một bà lão xuất hiện, cứ quanh quẩn
bên dưới gầm giường, hai mắt sáng quắc như đính ngọc, tay chống gậy, hóa thành
một con nhím, kêu lên những tiếng chít chít, rồi càng ngày càng co mình lại, bỗng
nhiên hóa thành một làn khói dày đặc, cuồn cuộn tản ra tứ phía, hoặc chui qua
vách tường, hoặc bay lên đỉnh lều, tản ra rồi đi mất.” Cách miêu tả thứ năm: “Một
người con gái, cao khoảng gần mười tấc, đập mạnh vào khóa cửa sổ, từ cửa sổ hiện
ra một làn khói đen mù mịt, đúng lúc có làn gió thổi qua cuốn đi mất.” Rõ ràng
chi tiết miêu tả về hung thần trên đây đều là những hình ảnh “tận mắt chứng kiến”.
Nhưng những hình ảnh đó rất có thể chỉ là một số cảnh sắc ban đêm, trong điều
kiện ánh sáng mờ mịt không thấy rõ, lại đúng lúc đầu óc cũng đang mơ màng, trạng
thái bần thần, sợ hãi, cho nên những điều trông thấy trở nên hư hư thực thực,
huyễn hoặc, mơ hồ. Ngay cả người chứng kiến thần trí cũng không tỉnh táo dẫn đến
nói những lời mê sảng, rối loạn... điều này rất đỗi tự nhiên. Nhưng nếu như có
những ghi chép, thống kê một cách chi tiết, cụ thể về “hung thần”, thì sẽ phát
hiện ra một điều rất đặc biệt, thì ra “hung thần” trong các truyền thuyết lại
liên quan mật thiết đến một loài chim.
3
Điều này liên quan đến một tập tục khác trong dân gian, hoàn
toàn không giống với tục “hồi sát” nói ở trên. Trong tục “xuất sát”, vị thần
hung dữ không phải là sự trở lại của vong hồn người chết, mà xuất hiện chính từ
trong linh cữu của người chết. Đường Trương Độc trong Tuyên thất chí có
viết: “Tục truyền rằng, sau khi người chết chết được mấy ngày mà có một loài
chim từ trong quan tài bay ra thì gọi là “sát” (杀). Lại nói, có người khi đi săn, anh ta
giăng lưới bẫy chim, bẫy được một con chim lạ, mình dài khoảng năm thước, nhưng
đến khi mở lưới để bắt chim thì mới ngỡ ngàng vì con chim mắc vào lưới đã biến
mất từ lúc nào không rõ. Vô cùng kinh ngạc, anh ta đem câu chuyện kỳ lạ vừa rồi
kể cho người dân sống xung quanh đấy nghe, một người nói: “Trong làng có người
chết mấy ngày nay rồi, thầy bói xem quẻ nói, hôm nay sẽ có “sát thần” tới. Đến
nhà người đó xem sẽ rõ, có con chim màu xám nhạt từ trong quan tài bay ra. Con
chim anh kể có lẽ chính là con chim ấy?”
Con chim màu xám nhạt trong câu chuyện được gọi là “la sát mị”,
rõ ràng cũng thuộc loại ma quỷ đại diện cho cái ác. Trương Trạc trong Triều
dã thiêm tái có nhắc đến một câu chuyện về một chàng thanh niên đang đi
trên đường thì tình cờ gặp một cô gái cũng đang rảo bước một mình. Dung mạo
xinh đẹp của cô gái đã khiến chàng trai mê mẩn. Chàng bèn mời cô về nhà. Ngày
hôm sau, người nhà gõ cửa phòng hồi lâu mà không thấy anh ta ra mở cửa, họ bèn
đứng bên ngoài nhìn qua cửa sổ thì thấy một cái đầu lâu vừa mới bị ăn xong. Người
nhà kinh hãi phá cửa xông vào, thấy từ trên xà nhà tối âm u xuất hiện một con
chim lớn, vươn cổ nhằm hướng cửa chính bay ra. Người ta cho rằng đó chính là
loài “la sát mị” hung ác vẫn được nhắc tới trong dân gian. Viên Mai, thời nhà
Thanh, trong Tử bất ngữ cũng nhắc đến loài chim la sát. Hứa Thu Trà
trong Văn kiến dị từ đã dùng tro bếp để nhận dạng dấu vết và xem xét tỉ
mỉ, kỹ lưỡng vết chân trên lớp tro bụi ấy là dấu vết của loài chim nào, rồi nói
vui rằng: “Nhìn dấu chân này, người trần mắt thịt cũng biết ngay đó là loài
chim la sát.” Có thể thấy, những câu chuyện dẫn ra trên đây đều có chung một mục
đích khẳng định “la sát mị” chính là một loài ác uỷ, mà ác quỷ thì thường ăn thịt
thi thể người chết.
Trong Thông u ký cũng nói tới một loài dị vật tương tự
xuất hiện sau khi có người chết. Tính chất của loài ác quỷ cũng biểu hiện rất
rõ ràng trong câu chuyện độc đáo này:
Chín năm trời giữ trọn tấm lòng kiên trinh, tận trung với
nước, người cha của đô đốc xứ Bạc Châu, Lô Viện lâm bệnh nặng và qua đời. Hai
ngày sau, đang giữa ban ngày, bỗng có một con chim lớn màu xám nhạt, không biết
từ đâu bay đến sân nhà, bay lượn một vòng trên không trung, in bóng xuống mặt đất
rộng khoảng bốn, năm thước. Cả nhà kéo nhau ra xem. Đột nhiên nó sà xuống cái
giếng ở góc phía tây nam, rất lâu sau mới bay đi. Mọi người chạy đến xem, phát
hiện thấy nước trong giếng đã cạn hết, bên trong còn có hai quả trứng, to bằng
nắm tay. Mọi người vớt lên đập vỡ một quả, máu từ trong chảy ra lênh láng. Đến
sáng hôm sau, đột nhiên nghe thấy có tiếng khóc thảm thương của một người phụ nữ
từ trong nhà phía tây. Lại gần xem, phát hiện ra một người con gái, tuổi chừng
mười tám, mười chín, quàng một chiếc khăn mỏ quạ màu đen trên đầu, khóc rất thê
thảm. Hỏi từ đâu đến, người con gái nói trong tiếng khóc: “Tôi từ trong quả trứng
dưới giếng chui ra, nào dám hãm hại ai?” Vừa dứt lời liền quay lại phía tây lôi
ra một xác chết đã thối rữa, xong, vung cánh tay lên rồi đi, ra đến cổng thì biến
mất.
Đến thời nhà Tống, trong Thanh tôn lục, Liêm Bố cũng
nói tới hình ảnh kỳ dị của một con vật lạ: “Một con vật trông giống như chim hạc,
có màu xám đen, đôi mắt long lanh sáng rực như ngọn đuốc, đôi cánh lớn căng phồng
đạp gió vù vù.” Ông cũng cho biết thêm, đã có người nhìn thấy con vật kỳ dị này
trong quan tài sau khi người chết được mấy hôm: “Thi thể người chết khí chất sẽ
biến đổi thành la quỷ.” Hồng Mại trong Di kiên đinh chí, quyển mười ba
cũng kể lại một câu chuyện về Từ Cát Khanh ở Cù Châu, trong suốt thời gian sáu
năm miệt mài hành đạo, ban ngày thường có một con vật lạ đến đậu ở chân tường,
thân người, đầu chim, dài khoảng một trượng. Một hôm, bất ngờ người vợ lẽ trông
thấy liền kinh động mà chết. Người con thứ của Từ Cát Khanh đang làm quan ở Tú
Châu, ngày hôm sau nghe được tin dữ, cả ngày ám ảnh không dứt về loài chim lạ
đó.
Đến triều đại nhà Thanh, sát quỷ được nói đến như một loài
chim lạ cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Đổng Hàm trong Thuần hương chuế
bút có đoạn nói về “hung thần” là “một con gà, cao khoảng bốn, năm trượng,
cái mào màu đỏ thẫm, cựa cứng như sắt, đứng trên một mô đất, vỗ cánh dài đến xà
nhà, ngẩng cao đầu, nhìn từ bên ngoài vào.” Một tác phẩm khác của Vương Đổng Quỹ
là Nhĩ đàm loại tăng, quyển hai tư cũng cho rằng “hung thần” chính là “một
con gà trống to như loài ngỗng, mỏ quặp lại, mắt trợn trừng, bay đến đậu trên
quan tài”. Tam tá lư bút đàm, quyển mười một có một đoạn miêu tả lại cảnh
“gặp gỡ hung thần”, trong đó cũng chỉ rõ hung thần là một con ngỗng lớn, hai mắt
long lanh màu xanh biếc. Tiền Vịnh trong tác phẩm Lý viên tùng thoại,
quyển mười lăm, Đả sảnh thần cũng khẳng định “hung thần” là một con chim
lớn, khuôn mặt, dáng đứng giống hệt con người, nhưng lại có thêm đôi cánh dũng
mãnh, mỗi lần vẫy cánh chẳng khác nào một trận gió lớn nổi lên. Trong Tử bất
ngữ của Viên Mai, quyển hai, Lạc sát điểu cũng nhắc đến một con chim
lớn, màu hung đen, mỏ quặp lại, bàn chân như tuyết, đứng giữa nấm mồ bỏ hoang,
nơi “mặt trăng chiếu rọi những vệt sáng mờ ảo trên thi thể người chết” mà biến
hóa. Độn trai ngẫu bút, quyển hạ có một đoạn nói về chuyện “hồi ương”
như sau: “Có một người nọ thấy một gia đình bỏ nhà không mà dắt díu nhau chạy
trốn hung thần, trong nhà có đặt một chiếc quan tài, trên quan tài có một con vật
lạ trông giống như gà nhà, liền nghi ngờ đó chính là thần tai ương hiện hình.”
Tiết Phúc Thành trong tác phẩm Dung am bút ký, quyển sáu có một đoạn nói
về “Dương Lão Liêm gặp phải hung thần”, và cho rằng hung thần hiện hình thành
con gà trống dũng mãnh, thường tụ tập trong một căn phòng lớn, hai mắt phát ra
luồng ánh sáng xanh biếc chiếu thẳng vào mặt người. Cuốn Dực quynh bại biên,
quyển năm có nói đến “sát thần” một cách vô cùng xác thực. Ông nhắc tới phong tục
ma chay ở Thường Châu, người chết khi khâm liệm cần lấy những vại sành xếp trên
mặt đất để làm nơi trú ngụ cho hung thần, khi đưa linh cữu đi an táng, mời thầy
mo đến đọc bùa chú đập vỡ những vại sành, xua đuổi hung thần đi nơi khác, và
hung thần ở đây cũng có hình dáng giống như một con gà. Gia đình Phùng Thị có
người mới chết, không cẩn thận để lũ trẻ làm vỡ mất vại sành, nhân cơ hội đó
hung thần trốn ra ngoài. Nhà hàng xóm có một lầu gác, đóng cửa đã lâu, đúng lúc
đó bỗng nghe thấy có tiếng vỗ cánh, mở cửa lầu gác ra xem thì thấy “một con gà
mào, cựa rất lớn không biết từ đâu đến, bị nhốt trong một cái lồng lớn, tự dưng
lại thấy xuất hiện ở đây”.
Nói đến điều này, tôi chợt nhớ đến một câu nói trong Luận
hành - Đính quỷ của Vương Sung thời Đông Hán:
Theo phong tục dân gian, khi người thân một ai đó gặp phải
điều bất hạnh, sẽ thấy một luồng sáng chiếu thẳng vào trong nhà, hay trông thấy
thứ gì đó có hình dáng giống một con gà bất ngờ xuất hiện trong nhà.
“Người nhà gặp điều bất hạnh” ý muốn nói khi có người thân
lâm trọng bệnh đến độ nguy kịch, sắp trút hơi thở cuối cùng, lúc đó sẽ thấy xuất
hiện những dị vật như trên. Ở đây mặc dù không nói đến “hung thần”, nhưng hình ảnh
của ma quỷ lại được nhắc đến với “dáng vẻ của một con gà”. Vì vậy có thể thấy,
trong giai đoạn sau này, mỗi khi nhắc tới sự xuất hiện của hung thần hay ác quỷ,
người ta thường so sánh hoặc thay thế nó bằng hình ảnh của một con chim hoặc một
con gà kỳ lạ nào đó. Chúng ta có thể suy đoán, từ nhà Đông Hán trước thời Tam
Quốc có thể đã nói tới điềm báo mang tính dự đoán tai ương sắp ập đến. Nhưng tục
trốn chạy hung thần thì đã có từ trước thời điểm dự đoán hơn hai trăm năm. Do
xã hội Trung Hoa ngày càng văn minh, cho nên vấn đề mà các gia đình quan tâm nhất
hiện nay chính là chỗ ở, vì thế, có lẽ tục “tị sát” cuối cùng đã không còn tiếp
diễn đến ngày nay, mà vì một lý do nào đó trong dân gian đã xuất hiện một tục lệ
ma chay đi ngược lại với lễ giáo của người Trung Quốc. Vì sao người dân lại phải
trốn tránh hung thần? Và trốn tránh hung thần rốt cuộc là như thế nào? Vì sao
người ta luôn cho rằng hung thần mang hình dáng của một loài chim nào đó?

