13. Sổ sinh tử những chuyện hoang đường - Phần 05
3
Gần giống với sổ thực phẩm là sổ lợi lộc, có điều, sổ thực
phẩm chỉ giới hạn trong nội dung ẩm thực, còn sổ lợi lộc lại bao gồm tất cả thu
nhập trong đời, không chỉ có tiền lương, lương thực được cấp phát, mà cả những
khoản tham ô, bóc lột của quan lại, thổ phỉ cũng nằm trong đó, chỉ cần anh
không bị tóm và nôn chúng ra. Nói rằng mỗi người đều có một quyển sổ này, nhưng
thực ra nó chẳng liên quan gì đến người nghèo, hỏi “lợi lộc” của người nghèo chẳng
khác nào anh tìm ăn mày đòi danh thiếp, như vậy có khác nào anh định lấy họ ra
làm trò cười. Nhưng Diêm phủ lại khăng khăng đòi bình đẳng, có tiền hay không
có tiền đều phải ra ngân hàng lập một tài khoản, thôi thì đành vậy, chỉ có điều
sổ tiết kiệm của người nghèo cũng chỉ là những phiếu cơm bắt buộc phải tiết kiệm
mà thôi.
Lộc có hai loại, cũng có thể nói là ba loại, đối với quan thần
thì là “lộc quan”, là lượng thóc gạo, vàng bạc do triều đình cấp, đối với người
bình thường thì nó là “lộc lãi”, nếu ngay cả “lộc lãi” cũng không có thì chỉ có
“lộc ăn uống” - là những phiếu ăn. Nhưng trong sổ Diêm phủ, lộc quan không được
sạch sẽ như bảng lương hằng tháng, mà tất cả những khoản thu nhập đen, bao gồm
các nguồn thu phi pháp như tiền hối lộ, quà tặng, cướp bóc, chỉ cần “đời anh
nên có” thì chắc chắn chúng sẽ được ghi vào sổ này. Về mặt pháp luật ở dương thế,
chúng được coi là bất hợp pháp, chỉ cần âm phủ ghi án vào sổ lợi lộc, “số mệnh
được chỉ định”, thì đó không những hợp lý mà còn hợp pháp, hơn nữa đó còn là
cái mà thần thánh không thể xâm phạm, bởi “mệnh” là thứ ông trời đã an bài mà
không ai có thể can thiệp được. Trong chương Núi phá tiền, quyển Âm
sơn bát cảnh, tôi đã từng nói tới câu chuyện giữa Lô Hoài Thận và Trương
Thuyết, Diêm phủ đã mở một xưởng đúc tiền dành riêng cho Trương Thuyết, vậy anh
có thể nói những khoản thu nhập đen này là không hợp pháp ư? Vì vậy, nhìn thấy
người ta vàng bạc, của cải đầy cửa, núi vàng, núi bạc lần lượt khuân về nhà,
thì những người dân thường chúng ta tốt nhất đừng nên than thở gì, càng không cần
đem luật pháp dương gian ra để nói, chỉ cần nhớ rằng, đó là số mệnh của người
ta! Đây chính là chân lý mà “sổ lợi lộc” muốn nhắc nhở chúng ta.
Đương nhiên, không chỉ hiện nay, mà ở thời cổ đại, những tên
tham quan cỡ lớn chỉ là thiểu số, bởi mồ hôi xương máu của người dân là có hạn.
“Đi ngàn dặm để nhận chức quan, cũng chỉ vì vấn đề ăn mặc”, làm quan là bát cơm
của người đọc sách, vì thế làm quan sớm hay muộn, quan to hay quan nhỏ, giữ chức
lâu hay chỉ tạm thời, cuối cùng cũng quy kết về một chữ “lộc”. Nói ngược lại
cũng vậy, sổ lợi lộc chính là quyển sổ ghi lại hành trình phía trước của những
kẻ làm quan.
Trong những cuốn tiểu thuyết, người ta chưa xác định các
danh mục của sổ lợi lộc, có quyển ghép lợi lộc và tuổi thọ lại cùng nhau để bàn
luận, rồi gọi chung là “sổ lộc thọ”. Chương Trong ruộng có chôn tiền,
quyển mười, cuốn Di Kiên chí bổ của Hồng Mại viết, huyện Thụy An - Ôn
Châu có người thợ mộc tên Vương Tuấn, năm đó mười bảy, mười tám tuổi. Một hôm,
cậu ta nằm mơ thấy mình đi vào phủ quan, gặp quan âm phủ đang ôm hồ sơ đi qua.
Vương Tuấn liền hỏi, viên quan đó đáp: “Đây là sổ lộc thọ của người trần thuộc
sự quản lý của ta.” Mà huyện Thụy An lại vừa đúng nằm trong sự quản lý của ông
ta. Thế là Vương Tuấn van xin mãi, mong được biết những gì mình được hưởng
trong đời. Sau khi lật tìm, viên quan âm phủ để cậu ta xem, bên trên viết: “Ruộng
không quá sáu mươi mẫu, thọ không quá tám mươi tuổi.”
Dựa theo quyển sổ đó, lộc và thọ đi cùng với nhau, đây cũng
là kiến thức mà người thường nào cũng biết: người chết rồi, tiền lương hay tiền
dưỡng lão sẽ không được cấp phát nữa. Nhưng rất ít người có “tư duy ngược chiều”
như vậy, nếu dứt khoát không lĩnh nhận khoản tiền lương mà mình được phép có
trong đời, thì có phải sẽ kéo dài tuổi thọ, thậm chí có thể không chết hay
không? Và thế là có người thông minh biết trước số lương thực của mình lúc bình
sinh là có hạn, bèn dùng cách tẩy chay các khoản lộc mà mình được hưởng để kéo
dài tuổi thọ. Di kiên chi chí đinh tập, quyển một có câu chuyện như sau:
“Quách Đại Nhiệm nhận lệnh tới làm tri phủ huyện Vu Tiềm, Hàng Châu. Trước khi
đi nhậm chức, ông nằm mơ có người đến đưa cho ông một trăm quan tiền và một
thưng gạo, nói rằng: “Lộc khoa của lão huynh lúc bình sinh chính là đây.” Sau
khi tỉnh dậy, Quách Đại Nhiệm tỏ ra buồn rầu, nếu như lộc ta được hưởng chỉ ít
như vậy, chẳng khác nào vừa nhận chức đã chết hay sao, vậy tiền đồ của ta còn
gì nữa đây? Thế là ông ta thà chết chứ không chịu đi nhận chức. Ông ta không nhận
phần bổng lộc này, và đương nhiên cũng không chết được, cứ như vậy nhiều năm
trôi qua. Nhưng về sau, triều đình điều tra ra việc đó, lại bổ nhiệm cho Quách
Đại Nhiệm làm huyện lệnh huyện Kiến Đức, Nghiêm Châu. Vốn là một thư sinh
nghèo, lúc này kinh tế gia đình đang eo hẹp, người nhà cầu xin ông đi nhận chức
để giải quyết tình hình túng thiếu hiện nay, đương nhiên không phải chỉ vì “một
trăm quan và một thưng gạo” phần bổng lộc hàng tháng. Quách Đại Nhiệm đành chấp
thuận, sau khi nhận chức, lần đầu tiên ông nhận “một trăm quan và một thưng gạo”,
nhưng trước ngày phát bổng lộc của tháng thứ hai một ngày, Quách Đại Nhiệm đã
qua đời.
Có thể thấy, chỉ cần Quách Đại Nhiệm không lĩnh khoản bổng lộc
“một trăm quan tiền và một thưng gạo” đó thì ông ta có thể sống mãi mãi. Như vậy,
Quách Đại Nhiệm quá vớ bở rồi còn gì! Nhưng ông trời không dễ bị chơi khăm như
thế, bởi đến khi nhà túng đến mức không có gì ăn, anh không lĩnh khoản lộc quan
đó thì cũng vẫn chết vì đói mà thôi, do vậy, cuối cùng Quách Đại Nhiệm vẫn phải
đi nhận chức quan. Nói mãi, cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái “mệnh”.
Hơn nữa còn có cách nói rằng, nếu giữ chức quan mà chỉ ăn
không ngồi rồi thì tuổi thọ của người đó cũng sẽ bị quan dưới âm ti cắt bớt, giống
như Quách Đại Nhiệm trốn ở nhà không đi nhận chức, không khéo đến một ngày nào
đó, ngay cả khoản bổng lộc “một trăm quan và một thưng gạo” cũng bị bốc hơi mất.
Điều này cũng có câu chuyện để chứng minh. Trong Bắc đông viên bút lục tục
biên của Lương Cung Thần, quyển năm có chương Dung sư chiết lộc, đây
là chương ghi lại câu chuyện tách rời thọ và lộc: “Huyện Ngân tỉnh Chiết Giang
có một người học trò, viết văn cũng khá nhưng luôn lận đận lúc khoa cử. Một
ngày, anh ta nằm mơ thấy mình xuống âm phủ, ở đó anh gặp một viên quan nhỏ, người
đó lại chính là người bạn đã mất của mình. Thế là anh ta liền hỏi dò số công
danh bổng lộc của mình ra sao. Viên quan kia kiểm tra trong sổ âm phủ, rồi nói:
“Thọ của huynh chưa hết nhưng lộc thì đã hết rồi, không lâu sau huynh sẽ được
ghi vào danh sách chết, còn trông mong gì về công danh nữa!” Người này nói:
“Thường ngày ta chỉ biết dạy học kiếm sống, càng chưa từng phung phí quá mức
bao giờ, vậy tại sao lộc của ta lại hết trước?” Quan âm phủ thở dài, nói:
“Huynh nhận tiền học phí của người ta mà lại dạy dỗ qua loa, không nghiêm túc.
Theo luật pháp âm phủ, ngồi mát ăn bát vàng, không làm đòi hưởng lợi thuộc vào
tội lãng phí, bị phạt trừ hết mọi bổng lộc mà người đó được hưởng, để bù vào những
gì anh lấy không của người khác. Người có bổng lộc làm quan thì cắt bổng lộc,
người không có lộc làm quan thì cắt lộc ăn uống.” Quả nhiên không lâu sau, vị
thư sinh này mắc chứng nghẹn khi ăn, không nuốt được gì hết, lúc này dù tuổi thọ
của anh chưa hết thì anh vẫn không thể không chết. ”
Nhưng những chuyện đó đều là việc của những người dân không
có lộc quan, còn kẻ gian ác số một như Tần Hội lại không thấy Diêm phủ động đến
một sợi lông chân của ông ta, hằng ngày ông ta vẫn ăn no ngủ say, khi chết được
chết tại nhà. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, có thể Tần Hội lại chính do
ông Trời phái xuống để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt cũng nên. Vì thế, đừng ai
nghĩ có thể tìm ra lỗi của ông Trời. Đặc biệt là luật trời “người có lộc quan
thì cắt lộc quan, người không có lộc quan thì cắt lộc cơm”, nó cũng giống như ở
trần gian, quan chức là mạng sống thứ hai của con người, quan càng cao thì “mạng
sống” giữ được càng nhiều, tương tự trong trường hợp phạm tội, quan cao thì bị
giáng chức, quan thấp thì bị cách chức, còn đám dân thường chúng ta không có chức
tước thì đành phải để anh bạn dùng để ăn cơm kia nghỉ hưu sớm mà thôi. “Anh bạn”
ở đây là đầu hay là bát cơm thì kết cục cũng như nhau cả, chỉ có điều, nó có sự
phân biệt nhanh tức khắc hay từ từ mà thôi, vì thế ít tham gia vào việc của người
khác thôi, từ câu chuyện này chúng ta chỉ cần lĩnh hội được rằng, thọ và lộc
luôn tương thông với nhau, hết thọ thì lộc cũng tự hết, mà hết lộc thì muốn sống
cũng không được, dân thường chúng ta phải biết nắm chặt lấy bát cơm đó của
mình.
Ngoài ra, giống như việc có sổ thực phẩm lại có “kho thực phẩm”,
dưới cõi âm, ngoài “sổ lợi lộc” ra còn có “kho lộc tài”, tương ứng với sổ lợi lộc.
Quyển Khuê xa chí của Quách Thoán có câu chuyện như sau: “Huyện Giang
Sơn, Cù Châu có người họ Mao, một hôm ông mơ thấy mình lạc xuống âm phủ, quan
âm phủ dẫn ông ta tới một nơi, ở đó có hai dãy nhà lớn, bên trong đầy tiền,
nhưng mỗi bên lại lấy chức quan của từng người làm mốc đánh dấu, hóa ra đây là
bổng lộc của các quan trên trần gian. Những khoản tiền này đều có hạn định. Thử
nghĩ, nhân vật có cấp bậc như Hòa Thân sợ phải xây dựng một nhà kho riêng để chứa
bổng lộc của hắn. Diêm phủ phải đặc biệt mở một trăm chiếc lò rèn ngày đêm
không ngừng đúc tiền, như vậy cũng chưa chắc đã theo kịp tốc độ nhận quà cống tặng
của hắn ở dương gian.”
4
Âm phủ có sổ sách ghi lại công danh khoa cử của con người,
danh mục cũng không xác định. Trong Di kiên giáp chí, quyển mười tám,
chương Dương Công Toàn mơ gặp cha gọi loại sổ đó là “sổ văn”, còn trong Tử
bất ngữ của Viên Mai, quyển mười một, chương Thú dân sách lại gọi là
“sổ khoa giáp”. Tiếp đến, ngoài danh mục thứ tự khoa cử như “Đỉnh giáp”, “Tiến
sĩ hiếu liêm”, “Minh kinh tú tài” ra, còn có sổ “Tú dân” được coi như một sự
sáng tạo mới lạ. Gọi là “Tú dân”, tức chỉ những người có học vấn mà không có bổng
lộc, học vấn rộng, viết văn hay, nhưng không có duyên với khoa bảng, và tất
nhiên không được hưởng lộc quan rồi. Tuy Diêm Vương nói: “Người trần coi “Đỉnh
giáp” là số một thì trên trời coi “Tú dân” là số một”, nhưng số một trên trời
không thực tế bằng chiếc bánh ngô dưới hạ giới, vì thế, vị học trò giữ vị trí đầu
tiên trong sổ “Tú dân” rất tỉnh táo, không hề hứng thú với chiếc đầu rùa trên
trời chút nào.
Bởi công danh chốn khoa trường do Diêm phủ quyết định, vì thế
vào thời Đường, mỗi đêm trước ngày công bố bảng vàng, Diêm phủ lại phái các
quan đưa danh sách tới những nơi tổ chức thi cử. Việc giao nhận giữa âm dương
hai giới có phần rất bí ẩn, quan âm phủ mang công văn tới trường thi, đương
nhiên các quan chủ khảo không nhìn thấy quan âm phủ, cũng không nhìn thấy công
văn, nhưng không hiểu làm sao mà các quan chủ khảo bỗng xúc động, họ lĩnh hội ý
chỉ từ phía âm phủ một cách không so đo thắc mắc, dù nội dung những bài thi được
xem như thế nào, nhưng căn cứ để điền tên lúc đó hoàn toàn là do thiên ý. Tác
phẩm Tục huyền quái lục của Lý Phức Ngôn, người thời Đường có kể câu
chuyện thuộc thời vua Đường Đức Tông: “Lý Tuấn thi tiến sĩ nhiều lần không đỗ,
năm nay Lý Tuấn nhờ người bạn cũ của mình là Bao Cát - giữ chức Quốc tử tế tửu
(chủ quản Quốc tử học) giúp đỡ, cũng coi như đã chạy được qua cửa quan chủ khảo.
Trước ngày phát bảng, quan quản lý định mang danh sách những người trúng bảng
báo lên tể tướng. Hôm đó vừa qua canh năm, Lý Tuấn liền chạy tới nhà Bao Cát hỏi
thăm tình hình, giờ này cửa trong vẫn chưa mở, Lý Tuấn bèn đứng bên ngoài chờ đợi.
Bên cạnh có quầy bán bánh ngọt, lại có một viên thư lại ở đó, viên thư lại này
nhìn như người từ nơi khác tới kinh thành đưa công văn, hắn nhìn chằm chằm vào
chỗ bánh ngọt mà nuốt nước miếng. Lý Tuấn thấy hắn đáng thương, bèn mời hắn ăn
một bữa no say. Viên thư lại rất cảm kích, bèn nói: “Nói thật, ta là quan lại
dưới âm phủ, được cử tới đây đưa danh sách kết quả thi tiến sĩ. Có phải huynh
đang đợi thông tin này không? Danh sách những người đỗ bảng ở đây, huynh cầm lấy
mà xem.” Kết quả khiến Lý Tuấn kinh ngạc, trên bảng vàng không hề có tên anh
ta, hóa ra người khác có quan hệ còn ghê gớm hơn anh ta, đá anh ta ra khỏi danh
sách. Nhưng quan hệ có ghê gớm cỡ mấy cũng không bằng có sự ra tay trước của
viên thư lại dưới âm phủ, Lý Tuấn bỏ thêm ít tiền, quả nhiên khiến viên thư lại
này sửa tên người trúng tuyển thành tên Lý Tuấn trên bảng vàng.” Tất nhiên,
danh sách của âm phủ là không có thực, danh sách do quan chủ quản viết vẫn cần
có người sửa chữa, nhưng nếu như danh sách của phía âm phủ đã được sửa lại, thì
coi như đã thông qua được cửa quan chủ quản, danh sách phía dương gian muốn sửa
cũng không được.
Nhưng như vậy, lẽ ra mười năm sau Lý Tuấn mới đỗ bảng vàng
thì giờ đây đã được làm tiến sĩ trước, điều này chẳng phải đi ngược lại với “định
mệnh” sao? Không hẳn thế, bởi “định mệnh” ở đây chính là do “diêm phủ quyết định”,
bàn tay của âm phủ sẽ quyết định tất cả. Ngày nay chẳng phải ta vẫn có câu:
“Tháng Sáu học sinh thi, tháng Bảy phụ huynh thi” sao? Vậy thì phải xem những bậc
phụ huynh này có qua được kỳ khoa cử của Diêm phủ hay không!
Không chỉ kỳ thi tiến sĩ, mà cả thi cử nhân, tú tài, thậm
chí cả các kỳ thi tuyển học trò tại các phủ huyện cũng đều do thiên mệnh sắp đặt,
đều được ghi vào sổ âm phủ. Những câu chuyện về đề tài này có quá nhiều, chỉ
riêng trong Liêu trai chí dị đã có vài chuyện, nếu kể ra sẽ khiến mọi
người mất hứng, khiến các bậc anh hùng trượt bảng vàng khó tránh khỏi thốt lên
một câu rằng: “Nếu sớm biết như vậy thì có phải đã tốt hơn không!” Nhưng thực
ra những câu chuyện này đa phần viết về những bậc anh hùng rớt bảng, chúng ta
có nói, có kể cũng là để tự an ủi mình phần nào.
Cuối cùng ta bàn tới một cơ quan khác của cõi âm, đó là
“Phòng mũ ô sa” - chuyên quản lý mũ ô sa của dương gian. Tác phẩm Canh tỵ
biên, quyển hai, chương Thích biên tu của Lục Sán, người triều Minh
có ghi lại những việc Thích Lan nhìn thấy khi đi xuống âm phủ thời trẻ. Thích
Lan lâm bệnh mà chết, rồi xuống âm phủ, nhưng hóa ra lần này Diêm phủ lại hồ đồ
bắt nhầm người, thế là phải trả Thích Lan trở lại dương gian. Trên đường gặp trận
mưa rào, tất cả bèn đi vào ngôi chùa Phật bên đường tránh mưa. (Rất ít tài liệu
ghi phía dưới âm phủ cũng có mưa, có chùa chiền, vì thế tôi đặc biệt chú ý đến
điểm này.) Đi vào phòng đầu tiên, trên nền nhà đều là khung cốt của mũ ô sa,
Thích Lan đưa tay định cầm lên nhưng không thể di chuyển được nó. Lúc này, người
bên cạnh mới nói: “Những cái này không liên quan đến ngươi, cái của ngươi ở đây
cơ.” Nói rồi người đó chỉ cho Thích Lan thấy, Thích Lan đưa tay nhấc nó lên, quả
nhiên khẽ đưa tay đã nhấc được, bên phía trong cốt mũ có hai chữ “thất phẩm”.
Quả nhiên sau này Thích Lan làm đến chức quan Biên tu tại Hàn lâm viện thì qua
đời, vừa đúng là chức thất phẩm. Trong tập khác của quyển Canh tỵ biên còn
nói, Thích Lan sau này trở thành thủy thần ở hồ Bà Dương, không biết đó là chức
quan mấy phẩm, cho dù là “thần thông minh chính trực”, chắc chức vị cũng không
cao lắm. Nhân vật sau khi chết trở thành thần, lúc sống chẳng qua cũng chỉ là một
viên quan nhỏ bé, có người nhìn thấy trên đầu lợn, đầu chó có đội mũ san hô, mũ
lông công, bèn giận dữ than trời bất công, có cần thiết như vậy không nhỉ?
Những câu văn vụng về đến đây cũng nên được kết thúc, nhưng
phần kết không tránh khỏi cảm giác khô khan, cứng nhắc. Cũng may hôm đó gặp mấy
người bạn, rồi cùng bàn về “sổ âm phủ” và “sổ dương gian”, sổ nào “thắng thế”
hơn. Một người bạn bèn nói: “Anh nói rằng sổ âm phủ “giống ở dương gian”, thậm
chí còn phức tạp và nghiêm ngặt hơn so với dương gian, tôi cho rằng chưa chắc.
Để tôi kể cho anh nghe về quyển “sổ dương gian” mà tôi đã tận mắt nhìn thấy,
trong các loại sổ âm phủ mà anh biết chưa chắc đã có.” Sau khi anh bạn kể xong,
tôi thử quy nó vào loại “sổ sinh tử”, thấy không thỏa đáng, quy vào “sổ thực phẩm”
cũng không phù hợp. Nay tôi xin thuật lại câu chuyện đó phía dưới, xin quý độc
giả phân loại giúp. Tuy ở đây có chút trật thứ tự, nhưng nó cũng chính là lối
“không có căn cứ”.
Bỉ nhân theo học một khoa, làm quan năm mươi năm nay, lộc
thu về đương nhiên cũng có, nhưng xem ra vẫn chưa đủ để gia nhập bảng xếp hạng
đại gia tại các trường đại học bây giờ. Nhưng khoa chúng tôi cũng có những sự
tích đủ để lưu danh thiên cổ, tuy không đến mức kinh thiên động địa, nhưng đôi
khi cũng khiến quỷ thần phải rơi nước mắt. Người xưa nói: “Thà làm miệng gà, chứ
không làm đuôi trâu.” Người nay nói: “Không sợ Xuy Phá Thiên[183], tôi có một
chiêu riêng.” Sự việc tuy nhỏ nhưng cũng không phải là không thể gia nhập Vô
song phổ[184]. Có điều đáng
tiếc là, hiện nay, tuy hầu hết các trường đại học danh tiếng đều đã viết lịch sử
trường, nhưng không hiểu vì ai mà người viết kỵ húy không viết những điều như vậy
vào quyển “chính sử” của họ.
[183] Tên nhân vật biểu
diễn của diễn viên xiếc nổi tiếng Hà Thụ Sâm.
[184] Quyển sách tổng
hợp thơ, văn, hình ảnh của bốn danh nhân nổi tiếng thời xưa của Trung Quốc là Hạng
Vũ, Tô Vũ, Lý Bạch, Tư Mã Thiên.
Đó chính là vào thời kỳ đấu tranh giai cấp gay gắt, còn khoa
chúng tôi lại luôn có thể tạo ra sự thực để luận chứng cho chữ “gay gắt” này.
Tôi xin lấy tài liệu tại chỗ luôn, tài liệu ở đây chính là những sinh viên
không cần bỏ tiền mua chỗ ngồi trong trường học, bình quân mỗi năm có thể gây
ra hai vụ “phản động”, hơn nữa chủ đề luôn thay đổi theo thời gian, bắt kịp với
sự thay đổi của tình thế. Ví dụ, thời kỳ 1963 - 1964, đây là thời kỳ “phản đối
chủ nghĩa sửa đổi”, năm đó những sinh viên trúng tuyển có đặc điểm là thích chạy
dài và học tiếng Nga, hai môn học này đủ để giúp họ đào tẩu sang biên giới
Trung - Xô (Nga). Chủ đề của giai đoạn 1964 - 1965 là “tính phức tạp của cuộc đấu
tranh giai cấp”, thế là năm đó, bí thư chi bộ Đoàn của lớp sinh viên tốt nghiệp
lập tức rơi vào sa đọa, còn kẻ tay chân không được sạch sẽ cho lắm đã được giai
cấp vô sản chúng tôi cứu vớt, trở thành ngôi sao chính trị cấp khoa. Đến nửa cuối
năm 1965, chúng tôi gia nhập lớp “sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp”, chủ đề tuy vẫn
chưa rõ ràng, nhưng kẻ xử lý và kẻ bị xử lý đều thấy căng thẳng trong thầm lặng.
Lúc này, có một sinh viên bất ngờ gia nhập Đảng. Dùng từ bất ngờ là vì, thứ nhất
thư ký chi bộ Đoàn và lớp trưởng còn chưa vào Đảng, mà người này rõ ràng thuộc
loại “siêu đẳng” rồi, hai là người này lại ngầu như Thổ Hành Tôn trong “bảng
Phong Thần” mà Thẩm Mạn Vân đã vẽ, thường ngày luôn miệng nói cười, vui vẻ làm
trò gây cười cho người khác, thật không hiểu, rốt cuộc cấp trên thấy được điểm
gì ở cậu ta nhỉ? Lúc đó nghĩ lại, mọi người mới nhớ ra cậu ta thường lén lút
ghi chép cái gì đó vào vở, nhìn thấy người khác đi tới là vội vã giấu ngay. Có
một ngày, cậu ta ở trong ký túc giả vờ “khờ khạo” chọc cười cho người khác, có
lẽ là muốn nhân cơ hội để tiếp tục thu thập một số thông tin tình báo chăng? Mọi
người bèn nghĩ kế, nhân lúc huyên náo lộn xộn, một người cướp lấy quyển vở trên
người cậu ta. Khi lật ra xem, thật ngạc nhiên, đó không phải là những bí mật
ghi chép người nào ở đâu, làm gì, nói gì, mà là ghi lại chi tiết việc một bạn
sinh viên mỗi sáng ăn mấy cái bánh bao (sau này mới biết, bạn sinh viên này là
đối tượng bồi dưỡng được chỉ định trước, chuẩn bị trở thành sinh viên phản động
của khóa tiếp theo), nếu ngày nào cậu sinh viên này ăn thiếu nửa cái, bên dưới
sẽ được ghi chú hôm đó trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Việt Nam đã bắn rơi mấy
chiếc máy bay của Mỹ, rõ ràng cậu ta đang thể hiện tinh thần “một con ngựa đau
cả tàu bỏ cỏ” mà. Cái phiền phức là, báo chí lúc đó dường như ngày nào cũng
đăng tin máy bay bị bắn rơi, vì thế chỉ cần người này ăn ít đi vài miếng bánh
bao thì có thể cậu ta đang câu kết với chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Những ghi chép này
thực sự đáng sợ, những lời nhảm nhí có thể không nói, những điều vô căn cứ có
thể không bàn luận, nhưng mỗi bữa ăn hằng ngày đều phải suy xét xem có nên
“liên hệ” đến thế lực phản động trong và ngoài nước hay không thì thật là khó.
Trước vụ việc đó, một ngày tôi ăn ba bữa, sáng, trưa, tối mỗi
bữa đều ba cái bánh bao (năm 1965, nền kinh tế đã có sự chuyển biến tốt đẹp,
nhà ăn trường tôi không giới hạn suất ăn của sinh viên), tuyệt đối không có trường
hợp ngoại lệ. Có bạn học nói tôi thực hiện “kế tự bảo vệ mình”, đó là một câu
nói đùa đầy thiện ý, nhưng sau này nghe nói trong “nội bộ” có người từng hoài
nghi tôi cố ý “đối phó” với tổ chức. Đó quả là nỗi oan ghê gớm.