Tên tôi là Đỏ - Chương 53 - Phần 2
Anh ta đồng ý ngay với một vẻ trang trọng như thể anh ta đang nói chuyện với một sứ giả đích thực.
"Tôi cũng có một điều kiện," tôi nói. "Tôi sẽ trở vào đó lần nữa." Tôi chỉ những tấm rèm cửa sổ mà ông bố chồng đang ngồi phía sau. "Sau một lát hãy tấn công vào đó và cửa trước. Khi nào tôi rú lên, đó là dấu hiệu bảo anh dừng lại. Nếu Hasan về đến thì tấn công anh ta ngay, đừng chần chừ."
Lời nói của tôi, không phù hợp với một sứ giả, người không nên để thiệt hại xảy đến cho mình, nhưng tôi đã để mặc mình bị cuốn đi, các vị thấy đó. Lần này, ngay khi tôi rao, "Quần áo đâyyy..." cửa mở. Tôi đi thẳng đến chỗ ông bố chồng. "Cả khu này, và quan tòa phụ trách những khu vực này, tức là mọi nguồn biết rằng Shekure đã được ly dị từ lâu và đã tái giá một cách đàng hoàng theo đúng luật của kinh Koran," tôi nói. "Ngay cả nếu con trai ông, người đã chết từ lâu, sống lại và từ Thiên đàng trở về đây với ông cùng đấng Tiên tri Moses, thì cũng chẳng ích gì vì anh ta đã ly dị với Shekure rồi. Ông đã bắt cóc một phụ nữ có chồng và giữ cô ấy ở đây trái ý muốn của cô ấy. Siyah yêu cầu tôi nói với ông rằng anh ta và người của anh ta sẽ tiến hành trừng phạt ông vì tội này trước khi quan tòa ra tay."
"Vậy anh ta sẽ phạm một sai lầm nghiêm trọng." Ông bố chồng nói nhẹ nhàng. "Chúng tôi chẳng bắt cóc Shekure hay gì cả! Tôi là ông nội bọn trẻ, ơn Thượng đế, Hasan là chú của chúng. Khi Shekure bị bỏ một mình, cô ấy sẽ có chọn lựa gì ngoài việc tìm chỗ trú ở đây? Nếu cô ấy muốn, cô ấy có thể rời khỏi đây bây giờ mang theo bọn trẻ. Nhưng đừng quên, đây là mái nhà đầu tiên của cô ấy, nơi cô ấy sinh con và hạnh phúc nuôi dạy chúng ."
"Shekure," tôi nói không suy nghĩ. "Cô có muốn trở về nhà cha cô không?"
Cô ấy bắt đầu khóc vì bài diễn văn về "tổ ấm hạnh phúc." Tôi không có cha," cô ấy nói, hay đó là do tôi nghe thấy như thế? Bọn trẻ lúc đầu ôm chân cô, rồi kéo cô ngồi xuống và ôm lấy cô, ba người bọn họ ôm lấy nhau thành một khối mà khóc. Nhưng Esther không phải là đứa ngốc: Tôi biết rất rõ rằng nước mắt của Shekure nhằm mục đích xoa dịu cả hai bên mà không phải đưa ra quyết định. Nhưng tôi cũng biết đó là những giọt nước mắt thật, bởi vì chúng cũng làm tôi mủi lòng khóc theo. Lát sau, tôi nhận thấy Hayriye, con rắn độc đó, cũng đang khóc.
Như để trừng phạt ông bố chồng mắt xanh vì là người duy nhất trong phòng không khóc, Siyah và người của anh ta bắt đầu tấn công vào nhà đúng giây phút đó bằng cách nện lên những tấm rèm và phá cửa. Hai người đàn ông đánh vào cửa trước bằng súc gỗ phá cửa tạo ra những cú nện rền khắp nhà nghe như tiếng đại bác.
"Ông là một người có kinh nghiệm và danh giá," tôi nói, được khích lệ bởi những giọt nước mắt của mình, "hãy mở cửa và nói với bọn chó dại ngoài đó rằng Shekure đi rồi."
"Chị sẽ cho một phụ nữ không được bảo vệ, lại là con dâu của chị, người đến nương náu nhà chị, ra ngoài đường cùng với lũ chó đẻ sao?"
"Tự cô ấy muốn đi," tôi nói. Dùng chiếc khăn tay màu tía tôi chùi mũi, vốn bị nghẹt vì khóc.
"Nếu vậy cô ấy cứ tự mở cửa mà đi," ông ta đáp.
Tôi ngồi cạnh Shekure và bọn trẻ. Với mỗi cú nện, tiếng ồn khủng khiếp của đám người đang phá cửa lại thành một lý do nữa cho nước mắt tuôn nhiều hơn, bọn trẻ bắt đầu khóc to hơn, rồi nó lại khiến Shekure và cả tôi nữa gào to hơn. Tuy nhiên, cho dù kể cả tiếng thét đe dọa từ ngoài và những cú nện của súc gỗ chừng như sắp phá vỡ ngôi nhà tới nơi, cả hai chúng tôi đều biết chúng tôi khóc để kéo dài thời gian.
"Shekure xinh đẹp của tôi," tôi nói, "cha chồng cô đã cho phép và chồng Siyah của cô đã chấp nhận mọi điều kiện của cô, anh ta đang chờ cô, cô chẳng còn có việc gì trong ngôi nhà này nữa. Mặc áo khoác, đeo mạng lên, mang theo đồ dùng của cô với bọn trẻ, mở cửa để rồi có thể lặng lẽ về nhà cô." Câu nói này của tôi thậm chí còn làm cho bọn trẻ khóc to hơn, và khiến Shekure mở to mắt kinh hoàng.
"Tôi sợ Hasan," cô nói, "kiểu trả thù của chú ấy thật khủng khiếp. Chú ấy dữ tợn lắm. Hãy nhớ là tự tôi đến đây."
"Điều này không quan trọng bằng đám cưới mới của cô," tôi nói. "Cô đã bị bỏ bơ vơ, dĩ nhiên cô phải tìm chỗ nương náu ở đâu đó. Chồng cô đã tha thứ cho cô, anh ta chuẩn bị đón cô về. Về phần Hasan, chúng ta sẽ giải quyết với anh ta theo cách chúng ta đã làm lâu nay." Tôi mỉm cười.
"Nhưng tôi sẽ không mở cửa," cô nói, "bởi vì rồi tôi sẽ tự ý trở về với anh ấy."
"Shekure thân yêu, tôi cũng không mở cửa được," tôi nói. "Cô cũng biết rõ rằng điều này có nghĩa là tôi can dự vào việc của cô. Họ sẽ trả thù tàn nhẫn việc can dự như thế."
Qua ánh mắt cô tôi biết cô đã hiểu. "Vậy không ai mở cửa hết," cô nói. "Cứ để họ phá cửa và dùng vũ lực lôi chúng tôi đi."
Tôi biết ngay rằng đây sẽ là chọn lựa tốt nhất cho Shekure và bọn trẻ, và tôi sợ. "Nhưng điều đó có nghĩa là máu sẽ chảy," tôi nói. "Nếu quan tòa không can thiệp vào chuyện này, máu sẽ đổ và một mối huyết hận sẽ kéo dài suốt nhiều năm. Không một người có danh dự nào lại chịu đứng yên nhìn khi nhà mình bị phá cửa và đột kích để bắt cóc một phụ nữ đang trú ngụ trong đó cả."
Một lần nữa tôi hối tiếc hiểu ra Shekure toan tính và dối trá như thế nào khi cô ôm hai đứa con và than khóc hết sức mình hơn là trả lời. Lòng tôi tự nhủ hãy quên mọi thứ và bỏ đi, nhưng tôi không còn trở ra cửa được nữa, vì cửa đang bị nện đến sắp vỡ tan.
Thực tình, tôi thấy vừa sợ chuyện sẽ xảy ra nếu họ phá sập cửa xông vào, vừa sợ chuyện sẽ xảy ra nếu họ không phá được cửa; tôi vẫn nghĩ rằng người của Siyah, vốn tin cậy vào tôi, đang lo ngại rằng họ đã đi quá xa và có thể rút lui bất cứ lúc nào, mà điều đó đến lượt nó, sẽ khích lệ ông bố chồng. Khi ông ta đến bên Shekure, tôi biết ông ta bắt đầu vờ khóc, nhưng tệ hại hơn, ông ta đang run theo một kiểu không thể là vờ được.
Bước tới của, tôi gào lên hết sức lựa "Dừng lại đi, đủ rồi!" Tiếng ồn ào bên ngoài và tiếng than khóc bên trong chấm dứt ngay.
"Mẹ, để Orhan mở cửa," tôi nói trong lúc sáng trí và bằng giọng ngọt ngào, như thể tôi đang nói với thằng bé. "Nó muốn về nhà, chẳng ai phàn nàn về điều đó cả." Những lời này vừa ra khỏi miệng tôi thì Orhan vùng thoát khỏi vòng tay mẹ nó, và như một người đã sống ở đây nhiều năm, nó kéo chốt, nâng thanh gỗ lên, mở then, rồi bước lui hai bước.
Hơi lạnh từ ngoài tràn vào khi cánh cửa mở toang. Một sự im lặng bao trùm đến độ chúng tôi nghe một con chó uể oải sủa từ xa. Shekure hôn Orhan, giờ đang ngồi lại trên đùi mẹ nó, còn Shevket thì dọa, "Tao sẽ mách chú Hasan."
Tôi thấy Shekure đứng lên, cầm lấy áo trùm và chuẩn bị túi đồ để đi, tôi nhẹ cả người, tôi e rằng mình sắp bật cười lên. Tôi ngồi xuống và ăn hai thìa xúp đậu lăng nữa.
Siyah đủ thông minh để không đến bất cứ chỗ nào gần cửa. Một hồi lâu, Shevket tự nhốt mình trong phòng người cha quá cố của nó, và mặc dù chúng tôi gọi Siyah đến giúp, nhưng cả anh ta lẫn người của anh ta đều không vào. Sau khi Shekure đồng ý để Shevket mang theo con dao găm cán nạm hồng ngọc của chú Hasan, thằng bé mới chịu rời khỏi nhà đi cùng chúng tôi.
"Coi chừng Hasan với thanh gươm đỏ của nó đấy," ông bố chồng nói với vẻ lo lắng thực sự hơn là vẻ thất trận và báo thù. Ông hôn hai đứa cháu nội, ngửi đầu chúng, ông cũng thì thào vào tai Shekure.
Khi tôi thấy Shekure nhìn lần cuối vào cánh cửa, các bức tường và bếp lò của ngôi nhà, một lần nữa tôi nhớ đây là nơi cô ấy đã trải qua những năm tháng hạnh phúc nhất cuộc đời bên người chồng đầu tiên của cô. Nhưng cũng có thể cô ấy muốn nói rằng chính ngôi nhà này là nơi nương náu của hai người đàn ông cô đơn khốn khổ, và rằng nó mang mùi hôi thối của cái chết chăng? Tôi không đi cùng cô trên đường trở về vì cô đã làm tan nát tim tôi qua việc trở về đây.
Không phải cái lạnh và cõi đen ngòm của màn đêm đưa hai đứa trẻ không cha và ba người đàn bà - một đầy tớ, một mụ Do Thái và một góa phụ - lại với nhau, mà chính là những khu xóm xa lạ, những con đường hầu như không thể vượt qua và nỗi sợ hãi Hasan. Đám người chúng tôi, dưới sự bảo vệ của nhóm Siyah, và giống như một cỗ xe ngựa chở châu báu, chúng tôi đi qua những con đường hẻo lánh, những phố nhỏ hẹp và những khu phố hiu quạnh, ít người lui tới, để tránh chạm trán tuần canh, binh lính, những tên côn đồ tò mò trong vùng, bọn ăn trộm và Hasan. Nhiều lần, qua bóng tối như mực đến nỗi xòe tay mình trước mặt cũng không thấy được, chúng tôi phải mò mẫm dò đường, liên tục đụng vào nhau và đụng vào tường. Chúng tôi đi bám chặt vào nhau, hãi hùng trước cảm giác rằng người chết lang thang, âm hồn và ma quỷ có thể từ dưới đất chui lên và bắt chúng tôi vào đêm tối. Ngay đằng sau những bức tường và những tấm rèm đóng kín mà chúng tôi lần mò bằng đôi tay như người mù, chúng tôi nghe tiếng ngáy và tiếng ho của những người trong cái lạnh của đêm cũng như tiếng rống của gia súc trong chuồng.
Ngay cả Esther, vốn đã quen với những vùng tồi tệ và nghèo khổ nhất, kẻ từng đi khắp các con đường Istanbul - trừ những vùng nơi tụ hội đám di dân và các cộng đồng đáng ngại - đôi khi cũng cảm thấy rằng chúng tôi sẽ biến mất trong những con đường này, những con đường quanh co uốn lượn không dứt trong bóng tối bất tận. Nhưng tôi vẫn nhận ra được những góc phố nào đó mà tôi đã kiên trì đi qua vào ban ngày với chiếc túi trên vai; chẳng hạn tôi nhận ra những bức tường của phố Terzi Basi, mùi hăng của phân bón - mà vì lý do nào đó gợi tôi nhớ đến mùi quế - phả đến từ chuồng ngựa kế bên cơ ngơi của Nurullah Hoja; những địa điểm bị hỏa hoạn trên phố Akrobat và Hành lang vòm Sahinci dẫn vào quảng trường với Vòi phun Haji Mù, và vì thế tôi biết chúng tôi không hề đi về phía ngôi nhà của người cha quá cố của Shekure, mà đến một nơi kỳ bí nào khác.
Chẳng ai biết Hasan sẽ làm gì nếu anh ta giận dữ, và tôi biết Siyah đã tìm một chỗ khác để giấu gia đình anh tránh khỏi Hasan và cả tên sát nhân độc ác ấy. Nếu tôi có thể nhận ra đó là chỗ nào, tôi sẽ nói với các vị bây giờ và với Hasan vào sáng mai - không phải vì ác ý, mà bởi tôi tin chắc rằng Shekure vẫn muốn được Hasan quan tâm. Nhưng Siyah, vốn thông minh như thế, không còn tin tôi nữa.
Chúng tôi đang đi theo một con phố tối đằng sau chợ nô lệ thì nghe tiếng la khóc om sòm cuối phố. Chúng tôi nghe âm thanh của một cuộc xô xát, và tôi sợ hãi nhận ra cuộc hỗn chiến đã bắt đầu: tiếng va chạm của rìu, gươm và gậy và những tiếng rống đau đớn cực độ.
Siyah trao thanh gươm lớn của anh ta cho một trong những người thân tín nhất, giật lấy con dao găm từ tay Shevket khiến thằng bé khóc lên, rồi ra lệnh cho cậu học việc của bác thợ cạo và hai người nữa đưa Shekure, Hayriye và bọn trẻ ra xa đến một khoảng cách an toàn. Tay sinh viên thần học bảo tôi hắn sẽ đưa tôi về nhà bằng đường tắt; nghĩa là hắn không để tôi ở lại với những người khác. Đây là một ngã rẽ của số phận, hay một âm mưu tinh khôn nào đó để giữ bí mật chỗ ẩn nấp của họ?
Có một cửa hàng, mà tôi hiểu là quán cà phê, ở cuối con đường hẹp mà chúng tôi đang đi vào. Có lẽ cuộc đọ gươm đã dừng lại ngay khi nó bắt đầu. Những đám người la ó khi họ bước vào hoặc bỏ ra; thoạt tiên tôi nghĩ họ cướp bóc, nhưng không, họ đang đập phá quán cà phê. Họ cẩn thận mang ra các thứ tách gốm, nồi đồng, ly và những cái bàn thấp dưới ánh sáng những ngọn đuốc của người đứng xem và đập nát chúng như một lời cảnh cáo. Họ đấm đá một người đang cố ngăn họ lại, nhưng anh ta thoát được. Ban đầu tôi nghĩ mục tiêu của họ chỉ là cà phê, như chính họ đã tuyên bố. Họ lên án những tác động xấu xa của nó, việc nó tác hại cho thị lực và bao tử như thế nào, làm cùn nhụt trí tuệ và khiến con người mất đức tin ra sao, nó là thuốc độc của bọn Tây vực như thế nào và Muhammad Cao cả đã từ chối cà phê ra sao dù nó do một mỹ nữ dâng lên - đồ Satan trá hình. Có vẻ như đây là màn diễn thái quá cho một đêm giáo huấn về nghi thức đạo đức và nếu rốt cuộc tôi cũng tìm được đường về nhà, tôi nghĩ mình thậm chí có thể rầy la Ne sim, cảnh báo ông ấy không được uống quá nhiều thú thuốc độc đó.
Vì có quá nhiều nhà trọ và quán rượu rẻ tiền gần đó nên một đám đông tò mò tụ tập lại rất nhanh, gồm những kẻ lang thang nhàn rỗi, bọn vô gia cư và lũ chó lai thối tha nhập cư lậu vào thành phố, và họ khích lệ những kẻ thù cà phê này. Đến lúc đó tôi mới hiểu rằng họ là những kẻ ủng hộ nhà thuyết giáo Nusret Hoja xứ Erzurum. Họ có ý định dọn dẹp mọi hang ổ rượu chè, đĩ điếm và cà phê ở Istanbul, và trừng phạt nghiêm khắc những ai lạc bước khỏi con đường của Muhammad Cao cả; những người dùng những nghi lễ của phái khổ tu như một cớ để múa bụng theo âm nhạc chẳng hạn. Họ lên án những kẻ thù của tôn giáo, những kẻ hợp tác với Quỷ sứ, bọn ngoại giáo, đám vô thần và dân minh họa. Tôi chợt nhớ ra rằng đây là quán cà phê nơi có treo nhiều tranh trên tường, nơi tôn giáo và vị hoja xứ Erzurum bị bôi nhọ và nơi sự bất kính là không có giới hạn.
Một thợ học việc của người chế biến cà phê, khuôn mặt cậu ta lốm đốm máu, từ trong bước ra, và tôi nghĩ có lẽ cậu ta ngã quỵ mất, nhưng cậu ta đưa tay áo lên chùi máu trên trán và má, nhập vào nhóm chúng tôi và bắt đầu quan sát cuộc đập phá. Đám đông dãn ra một chút vì sợ hãi. Tôi thấy Siyah nhận ra ai đó và do dự.
Nhân lúc này những người Erzurum bắt đầu tập hợp lại, tôi biết rằng binh lính hoặc băng đảng nào khác vũ trang bằng dùi cui đang trên đường tới đây. Người ta dập tắt đuốc và đám đông trở thành một đám hỗn loạn.
Siyah nắm lấy cánh tay tôi và bảo anh sinh viên thần học đưa tôi đi. "Lựa những con đường nhỏ mà đi." anh ta nói. "Cậu ta sẽ theo chị về tới nhà." Anh chàng sinh viên cũng muốn chuồn khỏi chỗ này càng sớm càng tốt và chúng tôi hầu như chạy ngay khi khởi hành. Ý nghĩ của tôi hướng về Siyah, nhưng nếu Esther bị đưa khỏi hiện trường, chị ta không thể tiếp tục câu chuyện được, bây giờ chị ta tiếp tục được không?

