Chiến hữu - Chương 05.2
Mười phút sau chuông điện thoại reo. Tôi nghe tên tôi và ra khỏi phòng. Đúng như tôi nghĩ, cả đám vẫn còn đấy! Chẳng những thế, họ còn không nói nhỏ lại trong khi tôi phải dí ống nghe vào tai và nhận ra tiếng Patricia Holmann, cám ơn tôi về bó hoa. Ngược lại, đứa bé, rõ ràng là người hiểu biết nhất bọn, và đã chán cái trò khỉ ấy, thình lình khóc ầm lên.
"Xin lỗi," tôi tuyệt vọng nói . "Tôi không nghe được gì cả, ở đây có một em bé đang quấy khóc; tuy không phải là em bé của tôi."
Các cô các bà, như một ổ rắn hổ mang, suỵt cho thằng bé im lặng. Họ thành công ngay tức thì, nó càng gào tướng lên. Bây giờ tôi mới hiểu, quả thật nó là một đứa trẻ xuất chúng; phổi của nó phải dài tận đầu gối, nếu không, làm sao giải thích được tiếng khóc inh ỏi kia. Tôi đang ở một tình huống khó xử; mắt tôi phải giận dữ liếc nhìn tổ hợp các bà mẹ, trong lúc môi phải thốt những từ thân thiện vào ống nói; từ đỉnh đầu đến chóp mũi, tôi là hậu thân một cơn bão tố, từ mũi đến cầm, là cảnh trí mùa xuân ươm nắng; thật là một điều huyền nhiệm rằng, mặc dù tất cả những thứ ấy, tôi cũng đã thành công trong việc hẹn gặp lại nàng buổi tối hôm sau.
"Bác cần phải gắn một buồng điện thoại cách âm," tôi nói với Frau Zalewski.
Nhưng bác đã sẳn sàng. "Tại sao phải thế?" bác phản ứng ngay. "Bộ cháu có nhiều thứ cần phải che dấu lắm sao?"
Tôi không nói nữa và biến đi. Không ích lợi gì, cãi nhau với những bản năng làm mẹ đang kích động. Họ có sự ủng hộ của toàn thế thế giới.
Đêm ấy, lũ chúng tôi sẽ tụ họp ở nhà Gottfried. Tôi ăn tối ở một quán nhỏ rồi ra đi. Trên đường, để ăn mừng, tôi tự thưởng cho mình một chiếc cà vạt mới, mua từ một cửa hàng thời trang. Tôi không ngừng ngạc nhiên vì sự việc đã diễn ra êm đẹp, và tôi tự nhắc nhở rằng, ngày mai tôi phải nghiêm trang như một ông giám đốc nhà vĩnh biệt.
Tư gia của Gottfried là nơi đáng cho ta thưởng ngoạn. Ở đấy trưng bày những lưu niệm anh ấy mang về từ Nam Mỹ. Các tấm chiếu bằng cói màu sắc tươi vui treo trên vách, nhiều mặt nạ, một cái thủ cấp phơi khô, các lục bình hình dạng cổ quái, các ngọn giáo và, như những tác phẩm thời kháng chiến, một bộ sưu tập chiếm trọn một bức vách: ảnh các thiếu nữ da đỏ và thổ dân Creoles -- da nâu, đáng yêu, những sinh vật uyển chuyển với nét duyên dáng và hững hờ không thể tả.
Ngoài Lenz và Koster, còn có Braumuller và Grau. Oscar Braumuller, rám nắng, tóc đỏ như đồng, ngồi trên tay ghế sô pha, thích thú ngắm những bức ảnh của Gottfried. Anh ấy là tay đua cho một hảng xe hơi và bạn vong niên của Koster. Anh ấy tham dự cuộc đua thứ sáu, cuộc đua mà Otto đã ghi danh với Karl. Ferdinand Grau, to lớn, béo phì và ngà ngà say, ngồi ở bàn. Khi trông thấy tôi, anh đưa bàn tay hộ pháp ra.
"Bob," anh nhừa nhựa nói, "cậu định làm gì ở đây với bọn trời đánh này hử? Ở đây không có gì cho cậu. Đi ngay. Cho toàn mạng. Khi còn đủ thì giờ."
Tôi liếc về phía Lenz. Anh ấy nháy mắt với tôi. "Ferdinand đang xỉn. Từ hai ngày nay, anh ấy uống cho những người quá cố yêu dấu. Anh ấy vừa bán một bức tranh truyền thần và túi rủng rỉnh xu."
Ferdinand là họa sĩ. Và có lẽ anh ấy đã chết đói từ lâu, nếu như không có sở trường độc đáo. Theo yêu cầu của tang gia hiếu thảo, chỉ dựa trên ảnh chụp của người đã mất, anh vẽ những tấm chân dung sống động tuyệt vời. Anh kiếm sống bằng cách đó -- thực tình mà nói, khá giả. Tranh phong cảnh tuyệt đẹp của anh, không ma nào mua. Việc này làm cho câu chuyện của anh nhuốm màu sắc bi quan.
"Lần này là một ông chủ quán rượu, Bob ạ," anh nói; "một ông chủ quán rượu có bà cô giàu sụ trong ngành dầu, dấm." Anh rùng mình. "Kinh khiếp quá!"
"Ferdinand này," Lenz phản đối. "cậu không nên dùng những từ ngữ nặng nề như thế. Cậu sống nhờ lòng hiếu để, một trong những đức tính cao đẹp nhất của con người."
"Không đúng," Ferdinand tuyên bố, "tôi sống nhờ vào mặc cảm tội lỗi. Hiếu thảo gì đây ? chẳng qua chỉ là lòng ân hận. Người ta muốn bù đấp lại những ước muốn và hành vi xấu xa mà họ đã gây ra cho thân nhân của họ lúc sinh tiền." Anh chậm rãi lấy tay vuốt vầng trán đam mê. "Cứ nghĩ xem, bao nhiêu lần ông chủ quán rượu của tớ đã ao ước bà cô của ông ấý chết phức đi! Để chuộc lỗi, giờ đây ông ấy đặt tớ vẽ tranh cho bà bằng những màu sắc đẹp đẽ nhất và treo lên tường bên trên sô pha. Ông ta thích bà ấy như thế hơn. Lòng hiếu thảo! Nhân loại chỉ nhớ tới những đức tính hiếm hoi của họ khi đã quá trễ. Và người ta sẽ an ủi bằng cách nghĩ rằng họ có thể cư xử tồi tệ còn hơn thế, và coi đó như là điều công chính. Con người muốn người khác có những đức tính -- đức hạnh, nhân từ và độ lượng -- để họ có thể lợi dụng."
Lenz nhoẽn cười. "Cậu đang tấn công vào nền tảng của xã hội, Ferdinand."
"Nền tảng của xã hội là lòng ganh tỵ, sợ hãi và thối nát," Grau bẻ lại. "Loài người xấu xa nhưng lại yêu thích điều thiện -- do người khác làm." Anh chìa ly rượu của mình cho Lenz. "Vậy nên, hãy rót cho tớ thêm một ly và đừng nói suốt cả đêm. Để cho người khác được góp lời với."
Tôi leo qua ghế sô pha đến chỗ Koster đứng. Một ý tưởng đột nhiên nảy sinh trong đầu. "Otto, xin giúp tớ việc này, Tớ muốn sử dụng chiếc Cadillac tối mai."
Đang mãi mê nhìn ngắm ảnh một vũ công Creole ăn mặc phong phanh, Braumuller ngừng lại.
"Thế, cậu đã biết quẹo cua?" anh gạn hỏi. "Tớ nghĩ cậu chỉ biết lái một đường thẳng bong, nếu có ai kềm tay lái cho cậu."
"Đừng lo, Oscar," tôi trả lời, "tụi tớ sẽ cho cậu hít bụi trong cuộc đua thứ sáu."
Braumuller cười ngoặt ngoẽo gần như tắc thở.
"Sao, có được không, Otto?" tôi thúc hối.
"Xe không có bảo hiểm, Bob," Koster nói.
"Tớ sẽ lái chậm như rùa bò và bóp kèn om trời như xe buýt. Chỉ vài kí lô mét khỏi thành phố."
"Otto khép mắt lại cho đến lúc chúng chỉ còn là hai vạch nhỏ và anh mĩm cười. "Theo tớ, được đấy Bob."
"Cậu muốn chiếc xe, tớ đoán, để đi đôi với cái cà vạt mới?" Lenz vừa bước tới, hỏi.
"Nín đi," tôi nói, xô anh sang một bên.
Nhưng anh không buông tha.
"Bé ơi, cho xem nào!" Anh mân mê mảnh lụa. "Đẹp. Thằng bé của chúng ta đĩ trai thế. Tớ nghi hắn sẽ dự hội chiêu thê."
"Hôm nay cậu chẳng làm gì được tớ đâu, đồ nghệ sĩ thay áo," tôi trả lời.
"Hội chiêu thê?" Ferdinand Frau ngẩng đầu. "Và tại sao chú ấy không dự hội chiêu thê được nhỉ?" Anh trở nên sống động và quay lại nhìn tôi. "Đi đi, Bob. Cậu có đủ điều kiện. Một tính chất đơn giản cần thiết cho tình yêu. Cậu sở hữu điều ấy. Gìn giữ nó. Đấy là quà tặng của thượng đế. Không bao giờ có lại, một khi đã mất."
"Tuy thế, đừng lo lắng nhiều, Bob," Lenz cười toe toét. "Chẳng có gì phải hổ thẹn khi ta sinh ra đời ngờ nghệch. Chết khờ dại mới xấu hổ."
"Gottfried, nín đi!" Chỉ với một cái nhấc tay, Grau đã đẩy anh ấy sang một bên. "Đừng can dự vào, đồ lãng mạn cuối mùa. Chẳng ai thèm thương hại cậu."
"Ferdinand ạ, nếu cần, cậu cứ nói." Lenz đáp. "Nói ra được, thường sẽ nhẹ lòng hơn."
"Cậu, một người cáo bệnh trốn việc," Grau tuyên bố. "Chính cậu, là người đáng thương, theo chủ nghĩa thoát ly, xa vời thực tế."
"Thế thì tất cả chúng ta đều cá mè một lứa," Lenz cười. "Chúng ta chỉ sống bằng ảo tưởng và tín nhiệm."
"Vâng, đúng thế," Grau nói, nhìn chúng tôi dưới hàng chân mày dầy rậm. "Bằng ảo vọng dựa vào quá khứ, và niềm tin vay mượn ở tương lai." Rồi anh quay lại tôi. "Tính chất mộc mạc," tớ đã nói như thế, Bob. Chỉ có những ai ganh tỵ mới gọi điều ấy là sự khờ dại. Cậu đừng lo bị thua thiệt. Đấy không phải là một khuyết điểm; đấy chính là tài năng."
Lenz muốn cắt ngang, nhưng Ferdinand vẫn tiếp tục. "Cậu biết tớ muốn nói gì. Một lòng can đảm tròn vẹn, chưa bị xói mòn bởi sự nghi ngờ và khôn ngoan quá mức. Parsifal ngu ngốc. Nếu là một người thông minh sắc sảo, hẳn ông ta chẳng thể dành được Chén Thánh. Chỉ có những người khờ khạo mới thành tựu trong đời; những người khác, nhìn thấy quá nhiều chướng ngại và do dự trước khi bắt đầu. Trong những lúc khó khăn, sự ngây thơ chân chất là món quà vô giá nhất -- là chiếc áo tàng hình, che giấu mối hiểm nguy mà những người khôn ngoan vượt bực thường đâm đầu vào như bị thôi miên."
Anh tợp một ngụm rượu và nhìn tôi bằng đôi mắt xanh, mênh mang, như một mảng trời trên gương mặt anh. "Đừng bao giờ muốn biết quá nhiều, Bob. Càng ít chừng nào, càng dễ sống chừng ấy. Kiến thức giải phóng chúng ta -- nhưng làm chúng ta đau khổ. Nào, hãy uống với tớ để chúc tụng sự đơn giản, khờ dại và những thứ tùy thuộc vào nó -- tình yêu, niềm tin ở tương lai, ước mơ có hạnh phúc; hãy uống để chúc tụng sự ngu ngơ tuyệt vời, chúc tụng một thiên đàng đã mất..."
Anh ngồi đấy, nặng nề, to béo, thình lình co rút lại và lọt thỏm vào chính mình và cơn say, như một ngọn đồi cô đơn u sầu không ai có thể chạm đến. Đời anh đã tan nát, và anh biết anh không thể hàn gắn. Anh sống trong xưởng họa to rộng của mình và tằng tịu với bà quản gia. Mụ cứng rắn và thô kệch; trong khi, Grau, mặc dù thân hình đồ sộ, lại nhạy cảm và mong manh. Anh không thể thoát khỏi tay mụ và có lẽ, anh cũng chẳng màng. Anh mới bốn mươi hai tuổi.
Mặc dù tôi biết anh chỉ say sưa, nhưng tôi vẫn rùng mình rất khẻ. Anh không thường đến đây; anh hay uống trong xưởng vẽ một mình. Như thế lại càng gục nhanh.
Một nụ cười lướt qua mặt, anh ấn ly rượu vào tay tôi.
"Uống đi, Bob. Và tự cứu. Hãy nghĩ về những điều tớ vừa nói."
"Vâng, Ferdinand ạ."
Lenz mở máy hát. Anh có một chồng đĩa nhạc của người da đen và anh cho máy chạy những bài -- về Mississippi, về mùa thu hoạch bông vải, và về những đêm oi ả trên sông nước nhiệt đới xanh rờn.
Báo cáo nội dung xấu

