Chiến hữu - Chương 18.2
Người đàn ông làm một cử chỉ mơ hồ. Rồi ông ta chỉ ra cửa sổ -- "Hãy nhìn trời. Sắp có mưa, tôi cảm thấy thế." Ông cười to. "Ta luôn luôn ngủ ngon hơn khi trời mưa." Trước mặt ông, trên tấm chăn là một bàn cờ bọc da, với những con cờ có thể cắm vào mà không tuột ngã. Một chồng tạp chí và vài cuốn sách đặt bên cạnh.
Chúng tôi đi tiếp. Tôi gặp một cô gái trẻ với cặp mắt kinh hoàng và đôi môi tím ngắt, tinh thần suy sụp vì sinh khó -- một đứa trẻ tàn tật với đôi chân què quặt, mềm nhũn và có bướu nước trong não -- một người đàn ông không dạ dầy -- một bà già tóc bạc, như chim cú, khóc than vì bị người thân bỏ rơi; bà sống dai quá chẳng chịu chết cho họ nhờ -- một người đàn ông mù, tin rằng ông ta sẽ nhìn lại được -- một đứa trẻ bị nhiễm giang mai, cha nó ngồi canh bên giường -- một người đàn bà vừa được giải phẩu sáng nay, cắt bỏ cái vú thứ nhì -- một bà khác dị dạng vì thấp khớp -- bà thứ ba bị cắt bỏ hai buồng trứng -- một công nhân với đôi thận hư nát -- hết phòng này qua phòng kia đều có chung một mẫu số: rên xiết, đau đớn, bất động, tàn phế; một đường dài vô tận của sự bất hạnh, sợ hãi, đầu hàng, đau đớn, tuyệt vọng, hy vọng, khó khăn; và mỗi lần, khi cửa khép lại, bỗng ở hành lang lại có thứ ánh sáng hồng nhạt, siêu nhiên của chiều tà; lúc nào cũng thế, tiếp theo sự khủng khiếp của những căn phòng nhỏ là vầng mây huy hoàng, vàng óng pha xám, êm đềm mà ta không thể nào biết đó là một điều mĩa mai khủng khiếp hay là một niềm an ủi thiêng liêng.
Jaffé ngừng lại trước cửa phòng mỗ. Ánh sáng chói chang xuyên qua những ô kính trên cửa. Hai người y tá đẫy xe tới. Một người đàn bà nằm trên đó. Tôi bắt gặp cái nhìn của bà. Bà không thấy tôi; bà nhìn vào một nơi vô định. Tuy thế tôi phải chớp mắt trước cái nhìn ấy, chan chứa can đảm, tự chủ và bình thản.
Jaffé đột nhiên lộ vẻ mệt mỏi. "Tôi không biết đúng không," ông nói, "nhưng tôi nghĩ, không thể dùng lời để an ủi cậu. Cậu sẽ chẳng tin tôi. Bây giờ cậu đã nhìn thấy, hầu hết những người ấy đều bệnh nặng hơn Pat Hollmann; một vài người không còn gì hết, ngoại trừ hy vọng. Tuy nhiên, đa số sẽ vượt qua khó khăn, và tốt đẹp hơn. Đó là những gì tôi muốn cho cậu thấy."
Tôi gật đầu. "Giáo sư đúng lắm," tôi nói.
"Chín năm trước vợ tôi qua đời. Cô ấy mới có hai mươi lăm. Chưa hề bị bệnh. Cúm." Ông im lặng một lát. "Cậu có biết tại sao tôi nói ra chuyện ấy?"
Tôi gật đầu lần nữa.
"Ta không thể biết trước tương lai. Người bệnh trầm kha có khi lại sống dai hơn người khỏe mạnh. Cuộc đời là một hiện tượng lạ kỳ." Trên mặt ông bây giờ lộ ra khá nhiều vết nhăn. Một người y tá đi đến, nói thầm vào tai ông. Ông đứng thẳng lên, gật đầu về phía phòng mỗ. "Tôi phải vào mỗ. Đừng để Pat biết cậu lo lắng. Đó là điều chính yếu. Cậu có làm được không?"
"Có ạ," tôi nói.
Ông bắt tay tôi và cùng với người y tá nhanh chóng đi qua cửa kính, vào căn phòng có ngọn đèn trắng như vôi.
Tôi chầm chậm bước xuống lầu. Càng xuống thấp, càng tối dần, và ở lầu một, đèn điện đã bật lên. Rồi tôi ra ngoài đường. Tôi nhìn thấy hoàng hôn hồng nhạt lóa lên một lần nữa ở chân trời như dưới một tiếng thở dài. Rồi lập tức nó lụi tàn và biến thành màu xám.
Tôi ngồi trong xe một lúc lâu, nhìn về phía xa xôi. Rồi tôi lấy lại bình tĩnh và lái về ga-ra. Koster đã chờ sẳn trước cổng.
"Cậu đã biết cả rồi?" tôi hỏi.
"Vâng, anh trả lời. "Nhưng Jaffé muốn đích thân nói với cậu."
Tôi gật đầu.
Koster nhìn tôi.
"Otto," tôi nói, "tớ không còn là một đứa bé và tớ biết là chưa thực sự mất mát gì. Nhưng có lẽ tối nay tớ sẽ khó tự chủ nếu chỉ có một mình tớ với Pat. Ngày mai thì không sao. Tớ sẽ không còn xúc động mạnh. Vậy đêm nay, bọn mình đi chơi chung với nhau, được không?"
"Sao lại không, Bob. Tớ đã tính trước và sắp xếp với Gottfried."
"Vậy cho tớ mượn lại Karl. Tớ lái về nhà, đón Pat và, trong một giờ, đón cậu."
"Vâng."
Tôi lái đi. Đến Nicholaistrasse, tôi chợt nhớ mình đã quên bẵng con chó. Tôi trở đầu xe, quay lại rước nó.
Tiệm không còn thắp đèn nhưng cửa vẫn mở. Anton ngồi trên chiếc giường cắm trại ở cuối phòng. Tay ông cầm một cái chai. "Gustav, hắn gạt tôi," ông nói, hơi men nồng như một lò nấu rượu.
Con terrier chạy ra, ngửi ngửi và liếm tay tôi. Mắt của nó xanh lục, phản chiếu ánh đèn đường. Anton đứng lên. Ông lảo đảo đi tới và thình lình bật khóc.
"Cún ơi, bây giờ con cũng bỏ đi. Mọi thứ đều bỏ đi --Thilda chết -- Minna không còn -- nói cho tôi biết, cậu ơi, những người như chúng ta sống để làm gì?"
Giọt nước cuối cùng! Bóng điện nhỏ xíu, tẻ nhạt mà ông vừa bật lên, mùi hư hoại của nước trong bồn nuôi cá, âm thanh sột soạt của bầy rùa và chim, và người đàn ông thấp bé béo phệ trong gian hàng này . . .
"Đám côn trùng, dĩ nhiên chúng thừa biết -- còn, cậu ơi, nói cho tôi nghe, những người như chúng ta có gì để sống, tôi muốn biết? Chúng ta, những con chó lai khốn nạn, có gì để sống, thưa cậu?" Con khỉ ré lên như tiếng khóc và lăng xăng như người điên trên băng ghế. Bóng của nó trên tường cũng chập chờn nhảy múa theo. "Koko," người đàn ông thấp bé, uống rượu một mình trong đêm tối, khóc thút thít, "con duy nhất của ta, đến đây!" Ông đưa chai rượu cho nó. Con khỉ với lấy.
"Ông giết nó mất, nếu ông đưa cái đó cho nó uống."
"Thì đã sao, thưa cậu? ông lắp bắp nói. "Thêm vài năm trong xích xiềng hay không -- cũng vậy -- cũng vậy thôi -- thưa cậu."
Tôi bế con chó đang nép vào tôi, ấm áp, và đi ra. Với những bước chân dài duyên dáng, nó lon ton chạy bên cạnh tôi, ra xe hơi.
Tôi lái về nhà, dẫn con chó với dây xích, và cẩn thận lên lầu. Trong hành lang, tôi đứng lại soi gương. Nét mặt của tôi có vẻ bình thường. Tôi gõ cửa phòng của Pat, hé cửa và thả con chó vào.
Tôi vẫn đứng bên ngoài, nắm cứng dây xích và chờ đợi. Nhưng không ngờ, thay vì giọng nói của Pat, tôi lại nghe giọng nam trầm của Frau Zalewski. "Ối trời, cái gì thế này!"
Lấy lại hơi thở, tôi len lén nhìn. Tôi đã e sợ giây phút ban đầu chỉ một mình tôi với Pat. Bây giờ mọi chuyện dễ dàng hơn; Frau Zalewski là một cái vách chắn không thấm nước mà tôi có thể dựa vào.
Bà chễm chệ ngồi ở bàn. Một ly cà phê bên cạnh, một cỗ bài tây trải ra theo một thứ tự huyền bí trước mặt. Pat, mắt sáng long lanh, nằm cuộn tròn kế bên, hóng chuyện tương lai.
"Chào mọi người," tôi nói, thình lình rất hài lòng.
"Hắn đến kìa," Frau Zalewski long trọng tuyên bố, "theo con đường tắt vào buổi chiều, bên một quý ông da sậm ở chỗ cao nhất trong nhà."
Con chó kéo tuột dây xích, và, sủa ầm ỉ, lách giữa hai chân tôi, chạy bổ vào.
"Trời ơi!" Pat kêu. "Một con Irish terrier!"
"Phục em thật," tôi nói. "Một giờ trước đây, anh không biết nó là giống chó gì."
Nàng cúi xuống, và con chó nhảy phóc vào lòng nàng. "Vậy nó tên gì, hở Robby?"
"Anh không biết. Có lẽ Cognac hay Whiskey hay một cái tên tương tự, đặt theo ông chủ cũ."
"Nó thuộc về chúng ta?"
"Như một sinh vật có thể thuộc về một sinh vật khác, vâng."
Nàng vui quá, gần như nghẹt thở. "Vậy chúng ta đặt tên nó là Billy, Robby nhé. Khi còn bé, mẹ em cũng có một con chó. Mẹ em thường kể lại. Nó cũng có tên là Billy."
"Vậy là anh may mắn," tôi nói.
"Nó đã được huấn luyện cách ăn ở trong nhà chưa?" Frau Zalewski hỏi.
"Nó có dòng dõi quý phái như một quận công," tôi trả lời, "mà tất cả quận công đều được huấn luyện."
"Nếu chúng còn nhỏ quá thì không đâu. Nó bao lớn rồi?"
"Tám tháng. Tương đương với mười sáu tuổi người."
"Trông nó không có vẻ gì đã được huấn luyện," Frau Zaleski nói.
"Nó chỉ cần tắm cho sạch, mà thôi."
Pat đứng dậy, vòng tay qua vai Frau Zalewski. Tôi nhìn nàng, bối rối. "Cháu luôn luôn muốn có một con chó," nàng nói. "Bác cho phép chúng cháu được giữ nó ở đây, bác nhé? Chắc bác không phiền đâu nhỉ?"
Lần đầu tiên từ khi quen biết, tôi thấy Frau Zalewski đờ ra, không thể đối đáp. "Ơ, trong trường hợp này -- bác nghĩ," bà trả lời. "Dĩ nhiên, bài đã cho thấy. Có một ngạc nhiên với người đàn ông trong nhà."
"Thế bài có báo là chúng ta sẽ đi ăn tối không?"
Pat cười to. "Chưa đến lúc đó, Robby. Chúng em mới bói đến anh mà thôi."
Frau Zalewski đứng lên, gom bài lại. "Cô có thể tin, hay có thể không tin, hay có thể tin một cách nhầm lẫn như Zalewski nhà tôi. Với ông ấy, con chín bích luôn luôn là điềm xấu cảnh báo chuyện nước nôi. Ông ấy hiểu là phải thận trọng với nước. Thế nhưng, chính ra lại là các thứ rượu schnapps và Pilsner."
"Pat," tôi gọi nàng, sau khi bà ấy đi ra, và tôi ôm nàng. "Thật tuyệt vời khi anh về nhà và được nhìn thấy em. Lúc nào cũng là một nỗi ngạc nhiên không ngừng cho anh. Mỗi khi leo những nấc thang cuối và mở cửa, tim anh vẫn đập loạn, vì anh sợ đó không phải là sự thật."
Nàng nhìn tôi, mỉm cười. Gần như không bao giờ nàng trả lời khi tôi nói những câu như thế. Tôi không thể tưởng tượng, và tôi cũng sẽ đau khổ nếu nàng nói một câu tương tự -- dường như với tôi, một người đàn bà không nên nói với một người đàn ông rằng nàng yêu hắn. Đôi mắt của Pat chỉ sáng ngời và chứa chan hạnh phúc, vậy mà, lại chuyện chở biết bao chữ nghĩa.
"Có thực chúng ta sẽ đi chơi không, Robby?" nàng hỏi, mặt sát bên tôi.
"Tất cả chúng ta," tôi đáp."Có Koster và Lenz nữa. Karl đậu ngay trước cửa."
"Còn Billy?"
"Dĩ nhiên, Billy cũng được đi theo. Thức ăn tối nay chưa đụng tới, chúng ta sẽ làm gì bây giờ? Hay là em đã ăn?"
"Không, em chưa ăn. Em chờ anh mà."
"Nhưng em không nên chờ anh. Không bao giờ. Đợi chờ khủng khiếp lắm."
Nàng lắc đầu. "Anh không hiểu, Robby. Chỉ khủng khiếp khi ta không có gì để đợi chờ."
Nàng bật ngọn đèn bên trên tấm gương. "Nhưng em cần thay y phục bây giờ, nếu không chẳng biết khi nào mới xong. Anh có thay áo không?"
"Chút nữa," tôi nói. "Anh sẽ thay rất nhanh. Cho anh ngồi đây một lát."
Tôi gọi con chó lại và ngồi trên ghế bành cạnh cửa sổ. Tôi thích ngồi im, ngắm Pat khi nàng thay áo. Chưa bao giờ tôi biết đến sự bí ẩn, lạ lùng vô tận của một người đàn bà cho bằng lúc tôi ngắm nhìn thứ ánh sáng lượn lờ này trước gương soi, sự trầm ngâm thưởng thức, say sưa miệt mài nơi bản thân, trôi tuột trở về cái khôn ngoan sắc sảo trong vô thức về phái tính. Tôi không thể hình dung một người đàn bà nói cười khi thay áo -- và nếu cô ấy làm thế, cô ấy sẽ đánh mất đi tính cách bí ẩn và quyến rũ không thể giải thích của một điều gì mơ hồ lãng đãng. Tôi yêu nét duyên dáng và những cử động mềm mại của Pat trước gương; thật tuyệt vời khi ta ngắm cách nàng đưa tay lên mái tóc; hay cách nàng khéo léo và thận trọng cầm cây bút chì kẻ mắt lên gần trán. Khi ấy nàng có một vẻ gì đó của một con nai và của một con báo mảnh dẻ, và cũng có một chút gì đó của một thiếu nữ Amazon sắp ra trận. Nàng quên tất cả mọi chuyện chung quanh, nét mặt của nàng nghiêm trang,chăm chú, nàng nhẹ nhàng và cẩn thận đưa nó đến gần bóng của nó trong gương, và, khi nàng nghiêng mình tới, dường như không còn là bóng của nàng phản chiếu trong gương nữa, mà là hai người đàn bà đang ngắm nhau với ánh mắt già dặn, từng trải, -- táo bạo và thẩm định giá trị của nhau trong hoàng hôn của hiện thực và thế kỷ.
Hơi thở tươi mát của buổi tối lùa qua cửa sổ. Tôi im lìm ngồi đó, tôi không quên điều gì của buổi chiều hôm ấy; tôi hiểu hết -- nhưng khi tôi nhìn sang Pat, tôi cảm thấy một nỗi buồn rười rượi, chìm đắm trong tôi như một hòn đá, bắt đầu bao phủ bởi một hy vọng mãnh liệt; thay đổi và bằng một cách lạ lùng nào đó, trộn lẫn với hy vọng; cái này biến thành cái kia; sự tiếc thương, niềm hy vọng, cơn gió, buổi tối, và cô gái xinh đẹp giữa tấm gương sáng và ánh đèn; vâng, trong một khoảnh khắc, tôi đã có một trực giác lạ lùng rằng, chỉ có điều này, trong ý nghĩa thực tế và sâu đậm của nó, là cuộc sống; và có lẽ cả hạnh phúc -- tình yêu với một hỗn hợp của nỗi buồn, lòng tôn kính và kiến thức giữ kín.
Báo cáo nội dung xấu

