Chiến hữu - Chương 21.2

"Còn lâu lắm mới đến Frankfurt," tôi nói. "Anh sẽ canh chừng. Anh sẽ không ngủ quên."
Khi sắp đến Frankfurt, tôi trở về toa của mình. Tôi ngồi thu lu trong góc, cạnh cửa sổ và cố dỗ giấc ngủ. Nhưng tại Frankfurt, một ông với hàng ria hải mã lên tàu, lập tức mở một cái gói nhỏ, và khởi sự ăn. Ông ta ăn uống thô lỗ đến đổi tôi không thể ngủ. Bửa ăn kéo dài một tiếng. Rồi con hải mã lau hàng ria mép, vươn vai, và bắt đầu một tấu khúc mà tôi chưa bao giờ nghe một thứ gì tương tự. Đó không phải là một tiếng ngáy đơn giản; đó là tiếng thở dài như tiếng hú, chấm phết với những tiếng rên và tiếng thở phì phò. Không có một hệ thống nhất quán, nó thay đổi không ngừng. May mắn thay, khoảng năm giờ, ông ta xuống tàu.
Khi tôi tỉnh dậy, ngoài trời toàn một màu trắng xóa. Tuyết lất phất rắc từng mảnh và toa tàu đắm trong một ánh sáng chạng vạng siêu nhiên. Chúng tôi đã vượt qua các rặng núi. Gần chín giờ sáng. Tôi vươn vai và rồi đi rửa mặt, cạo râu. Khi tôi trở lại, Pat đã đứng trong toa. Trông nàng tươi tắn.
"Em ngủ ngon không?" tôi hỏi.
Nàng gật đầu.
"Và em gặp thứ phù thủy già nào ở giường tầng trên?"
"Trẻ và xinh. Cô ấy tên là Helga Guttmann, và cô ấy cũng đi đến dưỡng đường giống em."
"Thật à?"
"Vâng, Robby. Nhưng em thấy rõ, anh không ngủ được. Anh cần ăn sáng đàng hoàng."
"Cà phê," tôi nói. "Cà phê với vài giọt anh đào."
Chúng tôi đến toa ăn. Bỗng dưng tôi thấy vui trở lại. Mọi thứ dường như không quá tệ như đêm qua.
Helga Guttmann đã có mặt ở đó. Cô ấy thuộc loại con gái miền nam, mảnh mai và sinh động. "Thật phi thường," tôi nói, "khi các cô gặp nhau như thế, cùng đi tới một dưỡng đường."
"Chẳng có gì phi thường," cô ta nói.
Tôi nhìn cô ta. Cô cười to. "Tất cả những con chim thiên di tụ họp với nhau trong thời gian này. Đàng kia kìa --" cô ấy chỉ vào góc toa -- "cả bàn ấy cũng đi đến đó."
"Làm sao cô biết?" tôi hỏi.
"Tôi quen với tất cả mọi người lần trước. Ở nơi ấy, ai nấy đều quen biết nhau."
Người hầu bàn mang cà phê đến. "Và đem thêm một chai cherry brandy to," tôi nói. Tôi cần phải uống một thứ gì đó. Thình lình mọi việc trở nên rất đơn giản. Những người ngồi ở đó đang đến dưỡng đường lần thứ hai, và dường như họ coi chuyện ấy không khác gì hơn một cuộc đi dạo. Thật ngu muội nếu ta sợ hãi. Pat sẽ trở về, hệt như những người ấy đã trở về. Tôi chẳng cần suy nghĩ cặn kẻ rằng cả bọn phải lên đó lại -- tôi chỉ cần biết, ta có trở về và có một năm dài trước mặt. Trong một năm, rất nhiều chuyện có thể xảy ra. Quá khứ đã dạy chúng tôi ứng phó với giai đoạn ngắn mà thôi.
Chúng tôi đến nơi vào buổi chiều. Thời tiết trong sáng, vầng dương vàng rực trên những cánh đồng tuyết, và da trời xanh hơn bao giờ hết từ vài tuần nay. Tại sân ga, một đám đông chờ đón. Họ reo hò và vẫy tay và những người mới tới cũng vẫy tay lại từ trên tàu. Helga Guttmann được một người đàn bà tóc vàng tươi cười và hai người đàn ông mặc quần chơi golf màu tươi mang đi. Cô phấn khích và bồng bột như một người về nhà sau khi vắng mặt một thời gian dài. "Au revoir, gặp lại sau, trên ấy nhé," cô nói với chúng tôi, và ngồi vào chiếc xe trợt tuyết với các bạn.
Đám đông tản mác thật nhanh và vài phút sau, chỉ còn chúng tôi trên sân ga. Một người phu khuân vác đến gần. "Khách sạn nào?" ông ta hỏi.
"Dưỡng đường Waldfrieden," tôi đáp.
Ông ta gật đầu và ra hiệu cho một người tài xế. Họ kéo hành lý của chúng tôi lên một chiếc xe trợt tuyết xanh tươi, thắng với một cặp ngựa trắng. Hai con ngựa có túm lông xám trên đầu, và hơi thở bay ra vờn quanh mủi chúng như một vầng mây xà cừ.
Chúng tôi lên xe. "Ông bà muốn lên ấy bằng xe cáp treo, hay bằng xe trợt tuyết?" người lái xe hỏi.
"Xe trợt tuyết đi xa lắm không?"
"Nửa giờ."
"Vậy đi xe trượt tuyết."
Người lái xe tróc lưỡi và chúng tôi lên đường. Con đường dẫn ra khỏi làng và uốn khúc theo hình chữ chi cao dần. Dưỡng đường nằm trên một đỉnh cao. Đó là một kiến trúc dài, màu trắng, với nhiều dãy cửa sổ. Trước mỗi cửa sổ là một ban công. Trên nóc, một lá cờ vờn bay trong gió. Tôi cứ ngỡ nó phải trang bị như một bịnh viện, nhưng ít ra ở tầng trệt, nó giống như một khách sạn. Ở tiền sảnh, có một lò sưởi to và nhiều bàn nhỏ, bày biện các vật dụng uống trà.
Chúng tôi trình diện ở văn phòng. Người giúp việc khuân hành lý của chúng tôi vào và một bà lớn tuổi cho biết phòng của Pat là phòng số 79. Tôi hỏi nếu tôi có thể có một phòng cho tôi, trong vài ngày.
Bà lắc đầu. "Ở dưỡng đường thì không. Nhưng có thể có ở khu vực phụ."
" Khu vực phụ ở đâu?"
"Bên cạnh đây."
"Tốt," tôi nói; "vậy cho tôi một phòng và mang hành lý của tôi đến đó."
Một thang máy, không tiếng động, đưa chúng tôi lên tầng hai.
Tầng hai thực tình giống bịnh viện hơn -- một bịnh viện dễ chịu thoải mái, đúng vậy, nhưng dù sao vẫn là một bịnh viện. Hàng lang trắng, cửa trắng, mọi nơi mọi chỗ đều lấp lánh, sáng bóng với thủy tinh, kền và sự sạch sẽ tinh tươm. Một bà sơ có trách vụ, chào đón chúng tôi. "Fraulein Hollmann?"
"Vâng," Pat nói. "Phòng Bẩy Mươi Chín phải không?"
Bà sơ gật đầu, dẫn trước và mở một cánh cửa. "Phòng của cô đây."
Đó là một căn phòng sáng sủa, kích thước trung bình, ánh nắng chiều đang chiếu vào qua một cửa sổ rộng. Trên bàn có một bình cắm hoa cúc tây xanh và đỏ, bên ngoài cửa sổ, trải dài những cánh đồng tuyết trắng trên đó ngôi làng nép mình như ẩn nấp dưới một tấm chăn trắng toát, vĩ đại.
"Em thích nơi này không?" tôi hỏi Pat.
Nàng nhìn tôi một lúc. "Vâng," rồi nàng nói.
Phu khuân vác mang rương của Pat vào. "Chừng nào tôi phải khám bịnh?" Pat hỏi bà sơ.
"Sáng mai. Cô nên đi ngủ sớm tối nay để nghĩ ngơi đầy đủ."
Pat cởi áo khoác, đặt nó lên cái giường trắng, trên đó đã treo sẳn một biểu đồ mới dùng ghi thân nhiệt.
"Tôi cần phải làm gì ngay bây giờ không?" Pat hỏi.
Bà sơ lắc đầu. "Hôm nay thì không. Ít nhất cũng phải chờ đến chiều mai, khi đã khám xong mới có thể làm gì khác. Khám bệnh lúc mười giờ. Tôi sẽ đón cô."
"Cảm ơn sơ." Pat nói.
Bà y tá bỏ đi. Người khuân vác vẫn đứng đợi ở cửa. Tôi cho ông ta tiền nước và ông ta cũng bỏ đi. Thình lình căn phòng vắng lặng như tờ. Pat đứng cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài. Đầu nàng đen sẩm trên nền trời sáng.
"Em mệt không?" tôi hỏi.
Nàng quay lại. "Không."
"Trông em mệt lắm," tôi nói.
"Em mệt theo cách khác, Robby. Nhưng em có đủ thời gian cho việc ấy."
"Em muốn thay y phục chưa?" tôi hỏi. "Hay chúng ta nên xuống nhà khoảng một tiếng đồng hồ trước đã? Anh nghĩ rằng tốt nhất chúng ta nên xuống dưới."
"Vâng," nàng nói, "sẽ tốt hơn."
Chúng tôi lại đi xuống trong chiếc thang máy êm như ru và ngồi vào một trong những cái bàn nhỏ ở tiền sảnh. Một chốc sau, Helga Guttmann cũng đến với các bạn. Họ ngồi chung với chúng tôi. Helga Guttmann phấn khích và vui tươi một cách khá cuồng nhiệt, nhưng tôi hài lòng vì cô ấy có mặt tại đó và vì Pat đã làm quen với vài người. Những ngày đầu bao giờ cũng khó khăn.

Báo cáo nội dung xấu