Tử thư tây hạ - Tập 1 - Chương 17 phần 2

"Muốn làm sáng tỏ vấn đề này thì phải căn cứ theo lịch
sử Tây Hạ mà tôi đã kể phía trước để nói tiếp. Vào năm cuối cùng của cuộc đời Hạo
Vương, ông đã phạm phải một sai lầm lớn, ông đã cưỡng hôn chính con đầu của
mình, cũng chính là vợ của thái tử vương triều Tây Hạ. Vốn dĩ, đối với người Đảng
Hạng mà nói thì chuyện này cũng không có gì là to tát, người Đảng Hạng tính
cách hào phóng, sùng bái tự do; nam nữ vui hoan yêu đương hoàn toàn tự do,
không hề bị ràng buộc bởi bất cứ luân lý đạo đức nào. Trong huyết quản của Hạo
Vương đang chảy dòng máu của người Đảng Hạng. Ông yêu cô gái đó, ông cho rằng
không có thứ gì có thể cản trở tình cảm của mình, nhưng, thái tử Ninh Lệnh Ca
ngay từ tấm bé đã được Nho giáo hun đúc mà trưởng thành. Ông ta không thể chấp
nhận sự thật này. Ninh Lệnh Ca cho rằng đây là một sự đại sỉ nhục đối với bản
thân, cũng là một sự sỉ nhục đối với toàn bộ vương triều, thù hận đã làm trí óc
ông ta trở nên mụ mị. Và đúng lúc đó, một nhân vật luôn ẩn nấp phía sau, chờ đợi
cơ hội đã xuất hiện, người này chính là tướng quốc thời đó -Một Tạng Ngoa Bành.
Ông ta là đại thần mà Hạo Vương tín nhiệm nhất trong những năm cuối đời. Ông ta
đã chờ đợi thời cơ từ rất lâu rồi, thời cơ để có thể khiến cho thế lực của gia
tộc Một Tạng trở nên lớn mạnh. Giờ đây, ông ta cho rằng thời cơ tốt nhất đã đến,
vậy là, Một Tạng Ngoa Bành ra sức kích động thái tử Ninh Lệnh ca, khiến cho
Ninh Lệnh Ca vốn đã bị thù hận làm cho trí óc mụ mị càng không do dự gì hết. Một
buổi tối, ông ta lần vào trong cung, ám sát Hạo Vương, còn bản thân ông ta sau
đó đã bị Một Tạng Ngoa Bành xử tử vi gán cho tội danh giết vua. -Đại Lạt ma kể
liền một mạch về giai đoạn lịch sử rối ren hung hiểm này.

Đường Phong suýt xoa: "Hạo Vương đúng thật là gậy ông đập
lưng ông. Bản thân ông không tôn sùng Nho giáo mà lại ngưỡng mộ văn minh trung
nguyên, ra sức truyền bá Nho giáo trong nước, kết quả, rút cuộc lại bị chính
con trai được Nho giáo hun đúc thành tài, trưởng thành từ chính trong môi trường
đó giết chết. Xem ra, tất cả những dân tộc quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc đều
không thoát khỏi điều này. Họ ngưỡng mộ văn minh trung nguyên, học tập văn minh
trung nguyên, nhưng văn minh trung nguyên lại làm phát sinh xung đột với phương
thức sinh tồn cố hữu của họ, một khi họ hữu ý hay vô ý bị Hán hóa, thì sói tính
vốn có trong con người họ cũng mất đi rất nhiều rồi".

"Được rồi ! Được rồi! Bài diễn thuyết dài thườn thượt của
cậu để lại sau này hãy nói, bây giờ điều mà tôi quan tâm chính là lịch sử của kệ
tranh ngọc" -Hàn Giang ngắt lời Đường Phong, rồi quay lại nhìn Đại Lạt ma
hỏi: "Nguyên Hạo chết rồi, thái tử cũng chết rồi, sau đó thì ai là người kế
tục ngôi vua?"

6

_Đại Lạt ma tiếp tục kể: "LượngTộ! Ngôi Danh Lượng Tộ !
Hoàng đế đời thứ hai của vương triều Tây Hạ, ngày chôn cất Hạo Vương, ông vẫn
chỉ là một đứa trẻ bọc trong tã lót ,ông có thể lên được ngôi vị hoàng để hoàn
toàn là do một người đàn bà, mẹ của ông, Một Tạng Thị. Nói về Một Tạng Thị, đây
là một người đàn bà không đơn giản, bà ta là em gái của Một Tạng Ngoa Bành, vốn
là vợ của đại tướng Dã Lợi Ngộ Khất, thuộc hạ của Hạo Vương. Dã Lợi Ngộ Khất
dũng mãnh thiện chiến, trong cuộc chiến tranh với nhà Tống, ống đã lập được vô
số kỳ công, cộng thêm thế lực lớn mạnh của gia tộc Dã Lợi lúc đó. Thời gian qua
đi, Dã Lợi Ngộ Khẫt lập công nhiều tới mức khiến chủ nhân cũng phải lo lắng và
đã bị Hạo Vương nghi ngờ, đố kị, còn nhà Tống thì từ lâu đã muốn diệt trừ người
này, nên phó soái nhà Tống là Phạm Trọng đã bày ra kế gian, phái người lấy trộm
thanh đao quý của Dã Lợi Ngộ Khất rồi tuyên bố Dã Lợi Ngộ Khất chuẩn bị đầu
hàng ngà Tống, lấy đao đó làm chứng. Tin tức truyền đến Tây Hạ, Hạo Vương vốn
đã không bằng lòng với Dã Lợi Ngộ Khất nay càng phẫn nộ, mượn chuyện này giết
chết Dã Lợi Ngộ Khất. Cũng trong lúc này, Hạo Vương phát hiện ra người vợ trẻ
trung xinh đẹp của Dã Lợi Ngộ Khất -Một Tạng Thị. Để bịt tai che mắt mọi người,
trước tiên, Hạo Vương đưa Một Tạng Thị vào chùa Giới Đàn xuống tóc làm ni cô.
Sau đó, Hạo Vương thường xuyên lui tới chùa Giới Đàn để gặp gỡ riêng Một Tạng
Thị. chính trong chùa Giới Đàn, Một Tạng Thị đã sinh hạ Lượng Tộ. Lượng Tộ ra đời
chưa được bao lâu thì xảy ra chuyện Một Tạng Ngoa Bành xúi giục thái tử Ninh lệnh
Ca ám sát Hạo Vương, sau đó, Một Tạng Ngoa Bành muốn lập Lượng Tộ chưa đầy tuần
tuổi làm vua, còn Một Tạng Thị em gái của ông ta cũng trở thành hoàng thái hậu".

"Hóa ra chuyện l như vậy, thảo nào Một Tạng Ngoa Bành
muốn xúi giục thái tử giết chết Hạo Vương, tất cả đều do sự cám dỗ quyền lực
đáng sợ!" -Makarov cũng hiểu ra một chút đầu đuôi câu chuyện.

"Đúng vậy, tất cả đều vì quyền lực! Sau đó, gia tộc Một
tạng liền độc quyền nắm giữ kỷ cương triều đình hơn mười năm, chính sách và
pháp lệnh Tây Hạ đều do gia tộc Một tạng ban hành, nhưng Lượng Tộ ngày một lớn
lên, ông càng ngày càng bất mãn với quyền lợi vốn thuộc về mình nhưng lại rơi
vào tay gia tộc Một Tạng. Vậy là, ông liên kết một số đại thần khác lại, diệt
trừ Một Tạng Ngoa Bành, vốn tưởng Lượng Tộ làm nên lịch sử, nhưng không ngờ ông
lại đoản mệnh, 20 tuổi đã qua đời, vậy là kế tục ngôi vua lại là một đứa trẻ
-Ngôi Danh Bỉnh Thường, gia tộc Lương của thái hậu mẹ Bỉnh Thường nắm giữ triều
chính. Kể từ sau khi Hạo Vương chết đi, Tây Hạ gần như rơi vào vòng can dự
chính trị luẩn quấn quái dị của họ ngoại, từ Một Tạng Thị tới Lương Thị, rồi tới
Nhiệm Thị sau này, toàn là như vậy."

"Sau đó thế nào?" -Makarov hình như càng lúc càng
hứng thú với lịch sử Tây Hạ.

"Cứ như vậy, mãi cho tới tận những năm cuối của Tây hạ,
người Mông Cổ trên thảo nguyên phương Bắc lớn mạnh, nhiều lần đến xâm lược Tây
Hạ, kể từ lần đầu tiên tới lúc Tây Hạ vong quốc, tổng cộng là sáu lần, kéo dài
hơn hai mươi năm. Trong những lần đó, đội quân Mông Cổ xâm nhập Tây Hạ lần đầu
tiên là để truy kích bại quân của TưởngTang Côn, nhưng sự quấy nhiễu của Mông Cổ
đối với Tây Hạ đó không nghiêm trọng, mà chỉ là gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh
kẻ thống trị Tây Hạ. Lúc đó hoàng đế tại vị của Tây Hạ là Hoàn Tông, ngôi danh
Thuần Hựu. Thuần Hựu đã ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, nên đã hạ lệnh
trùng tu thành quách nhưng vẫn bị kỵ binh Mông Cổ san bằng rồi, đại xá cả nước,
đồng thời đổi tên đô thành Hưng Khánh Phủ thành Trung Hưng Phủ. Từ những sự kiện
này có thể nhận thấy, Thuần Hựu vốn muốn chấn hưng lại kỷ cương triều đình, trở
thành vua đầu tiên của Trung Hưng, nhưng người Đảng Hạng thời đó cũng không còn
là người Đảng Hạng theo Hạo Vương đi khai hoang mở mang bờ cõi năm nào. Vì vậy,
sự việc đã diễn ra trái với mong muốn của Thuần Hựu, bởi năm sau đó, em trai họ
của Thuần Hựu là Ngôi Danh An Toàn đã hợp mưu với La thái hậu, phế truất Thuần
Hựu, tự mình xưng đế. chính lần chính biến cung đình lần này đã thay đổi hoàn
toàn lịch sử Tây Hạ. Vì kể từ đó, Tây Hạ không thể đứng dậy được nữa, bởi trong
cuộc chiến với người Mông Cổ, họ đánh trận nào bại trận nấy, cuối cùng mất nước".

"Nhưng, những lịch sử Tây Hạ mà ông kể này thì có liên
quan gì tới kệ tranh ngọc?" -Hàn Giang nóng ruột muốn biết rút cuộc là người
nào đã khắc những văn tự mà hiện giờ họ dang nhìn thấy trên kệ tranh ngọc.

 

7

_Đại Lạt ma mỉm cười nói: "Đừng sốt ruột, tôi sắp kể tới
nơi rồi. Chẳng bao lâu sau khi An Toàn phế truất Thuần Hựu, tự xưng đế thì chiến
hỏa lại bốc lên ngùn ngụt từ thảo nguyên phương Bắc, đoàn kỵ binh Mông Cổ cuốn
bụi quay lại, Thành Cát Tư Hãn lại lần nữa xuất quân đánh Tây Hạ, Ngôi Danh An
Toàn đã liên kết với nước Kim để chống lại nước Mông, may mắn vượt qua được ải
này. Nhưng năm sau, đại quân của Thành Cát Tư Hãn lại xuất binh, và lần này thì
Tây Hạ không còn may mắn như trước nữa. Dù người Đảng Hạng có liều chết chống lại,
nhưng cũng không địch được kỵ binh của đại quân Mông Cổ. Kỵ binh Mông Cổ xông
thẳng tới dưới đô thành Hưng Khánh Phủ, may mà năm đó Hạo Vương xây dựng Hưng
Khành Phủ vô cùng kiên cố, Thành Cát Tư Hãn tấn công mãi mà không được nên từ
chỗ phiền muộn trở nên phẫn nộ, dẫn nước sông Hoàng Hà đổ vào Hưng Khánh Phủ.
Nhưng ông trời che chở, nứơc Hoàng Hà không nhấn chìm nổi Hưng Khánh Phủ, ngược
lại còn xém chút nữa nhấn chìm người Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn không còn cách
nào khác, đành phải hạ lệnh rút quân. Trên đường rút quân, Thành Cát Tư Hãn lệnh
cho tướng quân Ngoa Đáp đang bị bắt giữ quay về kêu gọi Ngôi Danh An Toàn chiêu
hàng. Sau khi Ngoa Đáp trở về chiêu hàng, hôn quân Ngôi Danh An Toàn vốn đã bị
đại quân của Mông Cổ dọa cho tới nỗi hồn xiêu phách lạc, nên đã lập tức đồng ý
dâng tặng Thành Cát Tư Hãn con gái ruột của mình, tự xưng thần và định kỳ cống
nạp cho Mông Cổ, đồng thời đoạn tuyệt với nước Kim, rồi quay lại thay Mông Cổ tấn
công nước Kim. Một hôn quân vô dụng như vậy, trong lúc dân tộc gặp nạn, lại đột
nhiên nhớ ra bốn kệ tranh ngọc mà Hạo Vương để lại, vậy là ông ta đã gửi gắm hết
hy vọng của dân tộc lên bốn kệ tranh ngọc đó. Ngôi Danh An Toàn đã chuẩn bị kĩ
lưỡng một đội ngũ hàng trăm người, chuẩn bị đi tìm kiếm mật thành trong sa mạc,
đây là một lần xuất chinh bi tráng, những người được chọn đều là những dũng sĩ
Đảng Hạng ưu tú nhất, Ngôi Danh An Toàn luôn lo lắng suy nghĩ xem ai sẽ là người
lãnh đạo đội ngũ này, người bình thường thì ông ta không yên tâm, vì bốn kệ
tranh ngọc này thậm chí còn khiến ông quan tâm lo lắng hơn cả ấn ngọc. Lúc ấy,
những tôn thất quý tộc, cựu thần lập công lớn mà ông vốn tín nhiệm thì ai ai
cũng đều tham sống sợ chết, không chịu đi. Đúng lúc này, trong tôn thất quý tộc
có một người đứng lên tự nguyện lãnh đạo đội quân này ra đi. Người này là Ngôi
Danh Tuân Húc, là hậu duệ của Trung Vũ Vương trong tôn Thất. Tuân Húc đã từng
thi đỗ trạng nguyên, trong tôn thất cũng được coi là người có tài, rất được kỳ
vọng. Con đường tiến lên ngôi vị hoàng đế của Ngôi Danh An Toàn vốn không chính
nghĩa nên ông ta tất nhiên nghi ngờ Tuân Húc, người có tài trong tôn thất.
Nhưng lúc này quả thật không có ai để phái đi, nên ông ta cũng đành phải lệnh
cho Tuân Húc soái lĩnh đội quân này ra đi".

"Sau đó họ có tìm thấy Hạn Hải Mật Thành không?"
-Đường Phong nói chen vào.

Đại Lạt ma lắc đầu nói: "Không ai biết họ có tìm thấy Hạn
Hải Mật Thành hay không, nhưng đội quân này trước tiên tới thị trấn trọng điểm
Hắc Thủy Thành tại phía bắc. Kể từ thời của Hạo Vương, đây vốn đã là vùng quân
sự của Hắc thủy trấn Yến, là thị trấn quân sự trọng điểm duy nhất của vương triều
tại phía tây bắc. Khi đội quân của Tuân Húc đến đây, Hắc Thủy Thành vừa mới bị
kỵ binh Mông Cổ cướp bóc sạch trơn, tan hoang thảm hại vô cùng. Họ nghỉ ngơi ở
đây một lúc rồi rời khỏi Hắc Thủy Thành, tiếp tục tiến vào sâu trong sa mạc. Kể
từ đó trở đi, không còn ai biết về tung tích của đội quân này nữa..."

"Không đúng! Tôi nhớ là Ngôi Danh Tuân Húc sau này còn
thay thế Ngôi Danh An Toàn trở thành hoàng đế của Tây Hạ mà!" -Đường Phong
hỏi lại Đại Lạt ma.

"Không sai, đội quân này có một người may mắn sống sót,
đó chính là Ngôi Danh Tuần Húc, nhưng ông ta có sự tìm được Hạn Hải Mật Thành
hay không thì không ai có thể khẳng định. Khi ông quay lại Hưng Khánh Phủ thì
trên người có vô sỗ mũi tên, sau lưng thì đang bị một đội kỵ binh Mông Cổ truy
sát. Khi lao vào trong thành, Tuân Húc thở thoi thóp... cho tới khi tỉnh lại,
ông đã tuyên bố với quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ là mình đã phát hiện
ra Hạn Hải Mật Thành. Ở đó có vô số châu báu quý hiếm mà Hạo Vương để lại, đủ để
giải quyết nguy cơ tài chính mà Tây Hạ đang đối mặt. Ở đó còn có một bộ lạc Đảng
Hạng dũng mãnh thiện chiến, đủ để kháng cự sự xâm chiếm của đội quân kỵ binh
Mông Cổ. Chỉ có điều, do đường đi xa xôi hiểm trở, trên đường đi không biết bao
nhiêu lần bị người Mông Cổ truy sát, bởi vậy ông không thể đem những báu vật
quý hiếm trở về. Cũng đã có một võ sỹ của bộ lạc bản địa trở về cùng ông, nhưng
trên đường trở về đã bị kị binh Mông Cổ truy sát, nên võ sỹ đó và một số người
khác đều đã tử trận, chỉ có mình ông thoát về được".

"Những lời nói đó của ông ta cũng khiến cho người Đảng
Hạng tin sao? Biết đâu là do ông ta bịa đặt ra!" – Hàn Giang chất vấn.

"Ngôi Danh Tuân Húc đã lấy ra một tràng hạt xương người,
ông nói rằng dũng sỹ đó trước khi chết đã giao cho ông tràng hạt này, để lấy đó
làm bằng chứng. Quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ thấy rằng Tây Hạ lúc đó
không có loại tràng hạt xương người này, vậy là ai cũng tin chắc và không chút
nghi ngờ về những gì mà ông kể lại".

"Tràng hạt xương người, chính là chuỗi hạt đang trên
tay ngài sao?" -Đường Phong đột nhiên hỏi.

Đại Lạt ma nghe thấy Đường Phong hỏi vậy, hay tay chắp vào
nhau, nhìn chuỗi tràng hạt xương người trên tay, nóỉ "Không sai, tràng hạt
xương người mà năm đó Ngôi Danh Tuân Húc mang về chính là tràng hạt trên tay
ta. Ông không chỉ mang về tràng hạt xương người này, mà còn cõng về bốn kệ
tranh ngọc, cộng thêm những trải nghiệm thập tử nhất sinh của ông và tin tức
làm hưng phấn lòng người mà ông mang về, đã khiến-cho địa vị của Ngôi Danh Tuân
Hức trong lòng quốc dân tăng lên rất nhanh. Ngôi Danh Tuân H úc cũng nhân cơ hội
đó đã hứa với quốc dân: nếu như mọi người ủng hộ ông làm hoàng đế Tây Hạ, thì
ông sẽ dẫn dắt quốc dân đi lấy kho báu ở Hạn Hải Mật Thành về, đánh bại quân
xâm lược Mông Cổ. Người Đảng Hạng vốn dĩ đã bất mãn với Ngôi Danh An Toàn vô dụng,
nên trước lời hứa ngon ngọt của Tuân Húc thì người Đảng Hạng không có lý do gì
để không chọn ông. Vậy là, Tuân Húc đã truất ngôi Ngôi Danh An Toàn hết sức nhẹ
nhàng, còn mình thì lên ngôi hoàng đế Tây Hạ".

"Lại là một trận chính biến!" -Makarov nhận xét.

"Vậy sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế, ông ta có thực
hiện lời hứa ban đầu của mình không?" -Hàn Giang hỏi,

"Sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế đã triệt để thayđổi
phương châm liên minh với nước Kim để tấn công Mông Cổ của Ngôi Danh An Toàn,
mà chủ động kết thân với Mông Cổ, nên ngược lại cũng đổi được vài năm yên ổn.
Nhưng ông hiểu rằng sự hòa bình đó chỉ là ngắn ngủi, bởi vậy không lúc nào ông
ngừng hành động tìm kiếm Hạn Hải Mật Thành. Nhưng mấy đoàn người và ngựa mà ÔNG
phái đi, đều không lập công quay về mà còn bặt vô âm tín, mất hút không hình
không bóng. Chẳng bao lâu sau, người Mông Cổ cũng biết vế bí mật của Hạn Hải Mật
Thành, nên đã mấy lần phái sứ giả đến Hưng Khánh Phủ, một mặt yêu cầu Tây Hạ xuất
binh đánh bại nước Kim, một mặt đòi lấy kệ tranh ngọc, khiến cho từ triều đình
đến thường dân Tây Hạ đều lòng dạ bất an. Tuân Húc mấy lần cố kéo dài qua loa
cho xong chuyện, nhưng, mâu thuẫn giữa Mông Cổ và Tây Hạ rút cuộc cũng bùng nổ.
Thành Cát Tư Hãn trước khi chinh chiến phía tây đã sai sứ giả đến Tây Hạ đòi kệ
tranh ngọc, đồng thời yêu cầu Tây Hạ phải phái binh trợ chiến Tây Hạ đã không
thể chấp nhận để Mông Cổ bắt nạt thêm, nên khi chưa kịp đợi Tuân Húc trả lời sứ
giả của Mông Cổ, thì thuộc hạ của ông là đại thần A Sa Cảm đã trực tiếp từ chối
thẳng thừng yêu cầu của người Mông Cổ. Sau khi sứ giả quay về phục lệnh, Thành
Cát Tư Hãn nổi giận đùng đùng, dẫn đại quân tiến đến. Tuân Húc không đủ sức để
chống lại, đành phải cầu hòa. Thành Cát Tư Hãn lúc đó đang bận rộn chinh chiến
phía tây nên đã đồng ý lời cầu hòa của Tây Hạ, dẫn quân rút về. Lần tiến quân
này của người Mông Cổ đã tác động mạnh đến Tuân Húc, trong tình hình bế tắc,
ông đành phải nhường ngôi cho con trai thứ là Ngôi Danh Đức Vượng. Đức Vượng trẻ
trung tràn trề sức sống, lập tức liên minh với nước Kim, ý đồ đối kháng Mông Cổ.
Sự việc này lại dẫn tới việc Mông Cổ lần thứ năm chinh phạt Tây Hạ. Lúc đó,
Thành Cát Tư Hãn vẫn đang trên đường chinh chiến phía tây, bởi vậy, cuộc chinh
phạt của người Mông Cổ lần này chẳng qua là để dạy dỗ Tây Hạ một chút mà thôi,
còn sự trừng phạt thật sự thì vẫn ở phía sau, nhưng Tây Hạ vì thế cũng sống
trong những ngày khó thở. Lúc này, toàn vương quốc trên dưới đều bao trùm trong
không khí ngày tận thế, chẳng còn ai dám ôm ấp hy vọng về thành trì bí mật
trong đại sa mạc mênh mông đó nữa, và trong không khí của ngày tận thế này, người
Đảng Hạng đã chờ đợi ngày tận thế cuối cùng của mình".

"Đó là lần chinh phạt Tây Hạ cuối cùng của Thành Cát Tư
Hãn năm Công nguyên 1227?" -Đường Phong hỏi.

"ừm, đó là một chương đen tối nhất trong lịch sử dân tộc
Đảng Hạng. Khi sứ giả Mông Cổ đến Hưng Khánh Phủ ruyên bố thông điệp cuối cùng,
thì A Sa Cảm đã không thể còn thốt ra được lời nào nữa. Thành Cát Tư Hãn vô
cùng phẫn nộ, ông ta đã đích thân chinh phạt Tây Hạ, đồng thời thề rằng: ‘Chết
bằng sạch, diệt bằng sạch, tuyệt bằng sạch! Từ cha mẹ bách tính Đường Ngột
Thích cho tới con cháu của tử tôn, giết sạch không trừ một ai!’. Đầu xuân năm
cuối cùng của đế quốc màu trắng, đại quân Thành Cát Tư Hãn bao vây Hưng Khánh Phủ.
Lúc này, Đức Vượng trẻ trung tràn trề sức sống đã đột tử. cháu trai của ông là
Ngôi Danh Hiển được quốc dân ủng hộ lập thành hoàng đế cuối cùng của Tây Hạ. Lần
này đô thành đã bị bủa vây từ nhiều phía, và ngoài Hưng Thành Phủ, người Mông Cổ
còn tấn công tất cả thành trấn Tây Hạ. Lực lượng của vương quốc vốn đã tổn thất
cạn kiệt, nên trừ khi có thần binh từ trên trời giáng xuống trợ giúp, còn không
thì Tây Hạ mất nước đã là điều không còn gì để hoài nghi. Toàn thành trên dưới,
già tre gái trai đều biết rằng, sẽ không có một chiêu binh đến cứu họ nữa, trừ
khi là đội nhân mã dưới sự chuẩn bị của Hạo Vương năm đó... Họ ngước mắt ngóng
trông nhưng cũng không kịp đợi một binh lính nào tới. Tân vương Ngôi Danh Hiển
lấy bốn tấm kệ tranh ngọc ra, ông mau chóng tính toán, ngộ nhỡ có vỡ thành thì
cũng không thể để bốn kệ tranh ngọc này rơi vào tay người Mông Cổ. Vậy là, Ngôi
Danh Hiển đã ra lệnh cho người tìm kiếm khắp toàn thành, mãi mới tìm thấy một
thợ ngọc duy nhất còn sót lại. Ông sai người thợ ngọc đó xóa hết Hán tự vốn khắc
trên mặt chính của kệ tranh ngọc trước đó và khắc lại bằng văn tự Đảng Hạng,
hơn nữa còn dùng thể chữ Lệ Đảng Hạng rất ít dùng để khắc lại những lời của Hạo
Vương lúc trước, ngoài ra còn khắc tên mỗi kệ tranh ngọc vị trí cất giấu của kệ
tranh ngọc kế tiếp.

Rồi ông bí mật phái bốn tốp người, mang bốn kệ tranh ngọc
xông ra khỏi Hưng Khánh Phủ, hướng về nơi bí mật cất giấu bốn kệ tranh ngọc
đó".

"Dùng văn tự Đảng Hạng là để người khác không nhận biết
được nội dung trên kệ tranh ngọc?" -Đường Phong hỏi.

"Đúng vậy, ý của Ngôi Danh Hiển đúng là như vậy !"

"Vậy sau đó bốn tốp người này có đến được nơi mà họ định
tới không ?" -Hàn Giang hỏi.

"Cái này thì không ai biết, bởi vì kế từ đó trở đi, bốn
kệ mtranh ngọc mỗi tấm một nơi, chưa từng tập hợp lại, cũng không có ai biết về
nơi cất giữ bốn kệ tranh ngọc... Và như vậy, Hưng Khánh Phủ bị bao vây tới tận
mùa hạ. Cũng vào mùa hạ năm đó, Thành Cát Tư Hãn dưỡng bệnh tại núi Lục Bàn,
tình hình sức khỏe ngày càng xấu đi, cuối cùng ông ta đã qua đời tại núi Lục
Bàn. Cũng có truyền thuyết nói rằng, Thành Cát Tư Hãn bị một thiếu niên Đảng Hạng
mặc áo trắng đâm chết trong lều trại".

"Cái gì ? Thiếu niên Đảng Hạng mặc áo trắng?"

"Bất luận thế nào thì Thành Cát Tư Hãn, người chinh phục
thế giới này, cuối cùng đã chết trên lãnh thổ Tây Hạ, đây là vận hạn đen đủi của
người Đảng Hạng. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết, người Mông Cổ tuân theo di lệnh
của Thành Cát Tư Hãn, bí mật không phát tang, chỉ đợi quân thần Tây Hạ đến đầu
hàng trước rồi giết sạch người Đảng Hạng trong thành. Đó là một đêm đẫm máu
trong lịch sử Hưng Khánh Phủ, một đêm đại thảm sát! Trong Hưng Khánh Phủ, bất
luận già trẻ nam nữ, hầu hết đều bị giết, người Đảng Hạng may mắn sống sót chỉ
còn lại lác đác vài người…". Nói tới đây, Đại Lạt ma dừng lại không kể tiểp
nữa, miệng niệm một đoạn kinh vân mông lung khó hiểu.

Trong Phật đường, bỗng nhiên im lặng như tờ, mọi người đều
trầm ngâm yên lặng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3