Tôi đã tập hôn như thế nào - Phần 7a
HÃY HÀNH ĐỘNG CHO ĐIỀU MÌNH YÊU THÍCH!
Ước mơ không phải là điều ngớ ngẩn. Ngớ ngẩn nhất chính là sống mà không có lấy một ước mơ nào.
Cliff Clavin, Cheers
Không thể gục ngã
Mặc dù thế gian này còn nhiều đau khổ, nhưng ta có nhiều cơ hội để vượt qua những đau khổ đó.
Helen Keller
Bob,
một nhân viên đưa thư của vùng Torrington, cùng vợ là Linda cố gắng tự
trấn an mình khi họ đi về phía cửa phòng bệnh. Hãy bình tĩnh, Linda tự
nhủ khi đưa tay nắm chốt cửa, mình không muốn làm cho con hoảng loạn hơn
nữa vì nó đã chịu đựng quá đủ rồi.
Cuối tháng 12 năm 1988, vào
một buổi chiều mưa tuyết, đứa con trai 15 tuổi của họ, Chris, cùng năm
đứa bạn khác lái xe hơi từ Torrington, bang Connecticut đến vùng
Waterbury lân cận. Thình lình, những tiếng cười vui vẻ của bọn nhóc vụt
trở thành những tiếng hét kinh hoàng khi xe chúng trượt trên con đường
đóng băng trơn trợt và lao thẳng vào hàng rào bảo vệ. Ba đứa, trong đó
có Chris, bị hất tua ngoài cửa sổ phía sau xe. Một đứa chết ngay tại
chỗ, một đứa khác bị trọng thương, còn Chris thì người ta thấy nửa nằm
nửa ngồi trên dải phân cách, ánh mắt đờ đẫn nhìn đùi trái đang tuôn máu
xối xả. Cách đó khoảng chục mét là cái cẳng chân trái của cậu, bị một
sợi dây thép hàng rào cắt đứt lìa từ đầu gối. Chris được đưa ngay vào
bệnh viện Waterbury để cấp cứu. Cha mẹ của Chris phải chờ suốt bảy tiếng
đồng hồ mới được gặp lại con.
Giờ đây, khi thấy con trai mình
đang nằm trên giường bệnh, nước mắt Linda lại tuôn trào. Bob nắm lấy tay
Chris. Cậu bé thì thào với bố: “Bố ơi, thế là con đã mất một chân rồi”.
Bob khẽ gật đầu và siết chặt bàn tay của con trai. Sau một lúc im lặng,
Chris nói thêm: “Còn những trận đấu bóng rổ của con thì sao đây?”
Bob
Samele cố kìm nén cơn xúc động của mình. Bóng rổ là môn thể thao mà
Chris thật sự yêu thích từ khi còn rất nhỏ, và chẳng mấy chốc cậu bé đã
trở thành một huyền thoại của Torrington. Vào mùa bóng năm trước, khi
đang học lớp chín trường St. Peter, Chris đã ghi được một thành tích
xuất sắc là 41 điểm tính trung bình. Giờ đây, khi đang là học sinh lớp
10 trường trung học phổ thông Torrington, Chris đã ghi được thành tích
là 62 điểm trong hai trận đấu với đội tuyển học sinh lớp 12. Chris
thường tự hào nói với ba mẹ mình: “Một ngày nào đó con sẽ chơi bóng tại
sân Notre Dame trước hàng ngàn người cho mà xem, và nhất định ba mẹ phải
có mặt mới được.”
Nhìn đứa con tàn tật của mình, Bob Samele không
biết an ủi thế nào. Cuối cùng, ông cũng cố gắng thốt ra mấy lời: “Con
biết không, Chris, nhiều người đang muốn gặp con ở ngoài phòng chờ đấy,
có cả huấn luyện viên Martin nữa.”
Mặt Chris tươi hẳn lên. Sau đó,
bằng một giọng quả quyết, Chris nói: “Bố ơi, bố hãy nói với thầy rằng
mùa bóng tới con sẽ có mặt. Con sẽ chơi bóng rổ trở lại.”
Trong
bảy ngày tiếp theo, Chris phải trải qua thêm ba cuộc phẫu thuật chân
nữa. Ngay từ đầu, các bác sĩ đã báo trước rằng, với mớ nhùng nhằng những
dây thần kinh, mạch máu và cơ dập nát họ không thể nào nối lại cái cẳng
chân bị đứt lìa kia được. Thế nên, Chris buộc phải dùng chân giả.
Trong
suốt ba tuần rưỡi Chris nằm điều trị trong bệnh viện, bạn bè và người
thân liên tục vào thăm cậu. Chris cứ luôn miệng nói mỗi khi cảm thấy mọi
người tỏ ra thương cảm: “Xin đừng thương hại tôi, rồi tôi sẽ bình phục
thôi”. Các bác sĩ và y tá chữa trị cho Chris nhận thấy đằng sau ý chí
không thể nào khuất phục được là một sức mạnh tinh thần được tôi luyện
bằng đức tin tôn giáo, nhưng không thể giải thích được.
Một chuyên gia tâm lý hỏi Chris: “Cháu sẽ sống thế nào trong cảnh ngộ này, Chris? Cháu có cảm thấy mình đáng thương không?”
Chris mạnh mẽ trả lời: “Không, cháu thấy tự thương hại mình cũng chẳng ích gì.”
“Thế cháu có cảm thấy chua xót hoặc căm giận không?”
Chris nói ngay: “Không, cháu cố gắng lạc quan hơn.”
Cuối
cùng, khi vị chuyên gia tâm lý kiên nhẫn kia ra khỏi phòng, Chris đã
nói với cha mẹ rằng: “Chính ông ta mới là người cần giúp đỡ.”
Trong
bệnh viện, Chris đã tập luyện rất chăm chỉ để phục hồi sức lực và khả
năng phối hợp hoạt động. Khi khỏe trở lại, Chris thường tập búng quả
banh Nerf qua cái vòng mà các bạn đã gắn trên tường dọc theo chiếc
giường của cậu. Bài tập vật lý trị liệu của Chris bao gồm các bài tập
phần thân trên và tập đi nạng để giữ thăng bằng.
Hai tuần sau, gia
đình Sameles đánh liều đưa thêm vào chương trình tập luyện của Chris
một bài tập: họ đặt Chris lên xe đẩy và đưa cậu đến Torrington xem thi
đấu bóng rổ. “Hãy chăm sóc em ấy thật cẩn thận đấy”, các y tá cảnh báo,
vì họ sợ những phản ứng bất lợi cho skhỏe của Chris.
Chris vẫn giữ
thái độ im lặng bất thường khi ngồi trên xe lăn đến phòng tập thể dục
náo nhiệt. Tuy nhiên, khi Chris đi ngang qua các hàng ghế, bạn bè và
đồng đội bắt đầu gọi lớn tên Chris và đưa tay vẫy. Tiếp đó, Frank
McGowan, trợ lý hiệu trưởng trường trung học Torrington, công bố trên
loa phát thanh: “Đêm nay chúng ta có một người bạn hết sức đặc biệt. Nào
tất cả quý vị, xin hãy chào đón sự trở lại của Chris Samele!”
Giật
mình, Chris nhìn quanh và thấy hàng mấy trăm người trong phòng tập đều
đứng dậy vỗ tay chào mừng. Nước mắt chợt tuôn trào trên đôi má của cậu
bé. Đó là một đêm mà Chris không bao giờ quên được.
Vào ngày 18
tháng 1 năm 1989, chưa đầy một tháng sau tai nạn, Chris đã có thể xuất
viện về nhà. Để theo kịp chương trình học, bố mẹ Chris đã kiếm cho con
mình một gia sư. Khi được nghỉ học, Chris quay lại bệnh viện Waterbury
để điều trị thêm. Nỗi đau đớn thể xác cứ đeo đẳng Chris mỗi ngày. Thỉnh
thoảng, khi ngồi xem truyền hình với bố mẹ, Chris cứ vặn vẹo người, lặng
lẽ chống chọi cơn đau nhức đang âm ỉ cấu xé phần đùi còn lại.
Sau
đó, vào một ngày lạnh lẽo, Chris đã đánh vật để làm quen với đôi nạng
của cậu và bước tập tễnh đến cái góc nhà xe cũ, nơi cậu đã từng học ném
bóng. Đặt đôi nạng xuống, Chris nhặt quả bóng rổ lên và nhìn xung quanh
xem có ai nhìn trộm mình không. Cuối cùng, nhảy lò cò trên chiếc chân
phải của mình, Chris bắt đầu tung quả bóng vào trong cái vòng. Nhiều lần
Chris mất thăng bằng và ngã xuống đất. Mỗi lần như thế, Chris gượng
đứng dậy, nhảy tới nhặt lại quả banh và tiếp tục tập ném. Được khoảng
mươi phút Chris đã mệt lả. Như vậy là lâu hơn mình nghĩ rồi, Chris tự
nhủ, khi khập khiễng bước chầm chậm về nhà. Chris mang chiếc chân giả
đầu tiên vào ngày 25 tháng 3, là ngày thứ sáu may mắn. Phấn khởi với cái
chân mới, Chris hỏi Ed Skewes, bác sĩ chỉnh hình tay chân giả của bệnh
viện, rằng cậu có thể chơi bóng rổ ngay được không. Ngạc nhiên vì sự
nóng lòng của Chris, bác sĩ Skewes trả lời: “Hãy cố chờ ít lâu đã”. Vị
bác sĩ này biết thừa rằng phải mất ít nhất cả năm trời người ta mới có
thể bước đi vững vàng với cái chân giả, chứ nói gì đến việc chơi thể
thao.
Trong tầng hầm nhà mình, Chris đã bỏ ra hàng giờ để tập bước
và ném bóng với cái chân giả. Ném bóng bằng một chân đã khó, ném bóng
với cái chân giả lại càng khó khăn gấp bội. Hầu hết những cú ném của
Chris đều vượt xa mục tiêu, và cậu bé thường xuyên ngã sóng xoài trên
nền gạch. Trong những lúc nản lòng nhất, Chris nhớ lại cuộc chuyện trò
với mẹ. Chris đã hỏi mẹ có khi nào nghĩ rằng cậu có thể chơi bóng lại
hay không. Mẹ Chris nói: “Nếu muốn chơi bóng rổ trở lại, con cần phải
tập luyện cật lực hơn nhiều. Nhưng có thể lắm chứ, mẹ nghĩ con sẽ làm
được điều đó.” Mẹ đã nói đúng ý Chris. Vì thế cậu bé nghĩ mình phải tập
luyện thật chăm chỉ và quyết không bao giờ bỏ cuộc.
Chris quay lại
trường trung học Torrington vào đầu tháng tư và nhanh chóng hòa nhập
với chúng bạn, chỉ trừ môn bóng rổ là Chris chưa thể chơi thôi. Sau khi
tan học, các bạn của Chris thường chơi bóng ở sân bóng rổ bên ngoài.
Trong nhiều tuần, Chris phải ngồi bên ngoài vạch sân để xem các bạn chạy
qua chạy lại trước mặt mình. Rồi một buổi chiều đầu tháng năm, Chris
bước ra sân, mạnh dạn tham gia trò chơi. Rất đỗi ngạc nhiên, nhưng các
bạn của Chris vẫn nhường chỗ khi cậu bước đi một cách quả quyết.
Lúc
đầu, Chris chỉ đứng bên ngoài ném bóng, và cậu đã thấy toàn thân run
lên mỗi khi bóng lọt vào rổ. Nhưng khi cố gắng tiến lên, nhảy lò cò về
phía chiếc rổ hoặc nhảy lên để đón quả bóng nảy, Chris lại ngã lăn ra
sân. Các bạn của Chris hét lên: “Cố lên Chris, cậu có thể làm được mà!”
Nhưng Chris biết một sự thật: cậu không thể làm điều đó được – như cậu
đã từng làm.
Có lần, trong một trận đấu giải vào mùa hè, vì cố hết
sức bật người thật cao để đón quả bóng nảy, Chris đã làm gãy chiếc chân
giả của mình. Khi nhảy lò cò ra khỏi sân, Chris nghĩ: Có lẽ mình đã
vượt quá khả năng. Chắc mình sẽ không làm nên trò trống gì.
Tuy
nhiên, cuối cùng Chris cũng tự nhủ rằng chỉ còn một cách duy nhất là tập
luyện cật lực hơn nữa. Chris tự lập ra cho mình quy định tập luyện hàng
ngày, tập dồi bóng và cả tập tạ nữa. Sau mỗi buổi tập, Chris cẩn thận
tháo cái chân giả và bốn chiếc vớ đầy mồ hôi dùng để bọc lấy đùi giúp
tựa êm hơn vào cái chân giả. Sau đó Chris đi tắm, và khẽ rên lên khi xát
xà phòng vào các chỗ da phồng rộp. Dần dà, nỗi đau kia như biến mất khi
Chris tự nhủ mình phải lấy lại những gì đã mất. Mình sắp làm được điều
đó rồi. Không phải đợi đến năm sau đâu. Chỉ năm nay thôi!
Sáng thứ
hai, sau ngày lễ Tạ ơn, thầy Bob Anzellotti, huấn luyện viên trưởng của
lớp mười hai gọi các học trò của mình lại. Họ là những cầu thủ đang cố
gắng tập luyện để có chân trong đội tuyển bóng rổ học sinh lớp mười hai
của trường trung họcTorrington. Tất cả đều hồi hộp và chờ đợi. Ánh mắt
của thầy dừng lại nơi Chris Samele.
Sau hai ngày tập luyện, không
ai nỗ lực nhiều bằng Chris. Chris dồi bóng qua khỏi các hậu vệ, lao đi
sau những quả bóng hỏng, nghĩa là cậu làm bất cứ điều gì để chứng tỏ cho
mọi người thấy mình vẫn còn khả năng chơi bóng. Chris thậm chí còn chạy
cả 10 vòng quanh sân mỗi ngày cùng với các vận động viên khỏe mạnh
khác. Mặc dù bị đồng đội bỏ xa đằng sau, nhưng Chris không bao giờ bỏ
cuộc.
Buổi sáng sau lần tập cuối cùng, Chris vội vã đi xem danh
sách đội tuyển.Mình đã thể hiện hết sức rồi đấy, Chris tự nhủ khi nhướng
người qua vai các bạn để xem danh sách chính thức. Và kia rồi, Chris
Samele đã có tên trong danh sách, thế là cậu đã có thể quay lại sân đấu
rồi!
Một tuần sau đó, huấn luyện viên Anzollotti gọi các học trò
của mình lại để họp đội. Thầy tuyên bố: “Đội của chúng ta mỗi năm đều
phải bầu đội trưởng, đó là một tấm gương mẫu mực cho người khác noi
theo. Năm nay đội trưởng sẽ là… Chris Samele”. Cả đội đồng loạt đứng lên
hoan hô.
Buổi tối ngày 15 tháng 12, chỉ tám ngày sau khi kỷ niệm
một năm Chris bị tai nạn, 250 người tập trung ở sân vận động để xem trận
đấu đánh dấu sự quay lại của Chris.
Trước tủ cá nhân, tay Chris
run lên nhè nhẹ khi kéo chiếc áo chẽn màu nâu sẫm của mình. Huấn luyện
viên Anzollotti nói: “Mọi thứ sẽ ổn thôi em ạ. Đêm nay chỉ là đêm đầu
tiên nên em đừng mong đợi nhiều quá.” Chris gật đầu nói khẽ: “Em biết ạ,
cám ơn thầy.”
Rồi Chris cùng đồng đội ra sân chạy khởi động trước
khi thi đấu. Hầu như tất cả mọi người trên khán đài đều đứng dậy để
chúc mừng Chris. Xúc động trước hình ảnh của đứa con trai trong màu áo
đội tuyển bóng rổ trường trung học Torrington như ngày nào, Linda và Bob
không cầm được nước mắt. Linda thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài
đừng để thằng bé xấu hổ”.
Dù cố gắng giữ bình tĩnh, Chris vẫn
không tránh khỏi tâm lý lo sợ khi vào sân thi đấu. Trong mấy vòng khởi
động, những cú ném của Chris đều chỉ trúng vành rổ mà thôi. Huấn luyện
viên Anzollotti nói khẽ: “Bình tĩnh nào Chris, hãy thoải mái đi. Đừng
vội vàng gì cả.”
Trong đội hình thi đấu chính thức, Chris đứng ở
vị trí hậu vệ. Cậu bắt đầu trận đấu một cách chật vật và lúng túng khi
để cho quả bóng nảy tuột khỏi tay ở đầu trận. Cậu cố gắng đuổi kịp nhịp
trận đấu, nhưng những động tác vẫn chưa thuần thục và nhịp nhàng lắm.
Nhiều lần bóng chỉ trúng vành rổ rồi tưng ra ngoài. Thường khi, nếu thấy
thế, bọn nhóc trên khán đài sẽ chế giễu: “Trượt rồi! Trượt rồi!”. Nhưng
lần này đứa nào cũng im lặng.
Sau tám phút thi đấu, Chris được ra
sân nghỉ để lấy lại sức và lại được đưa vào sân khi chỉ còn hai phút
trước khi hết hiệp một. Chris tự nhủ Cố lên nào, Chris,đây là tất cả
những gì mà mình đã nỗ lực. Hãy cho mọi người thấy điều đó đi.Chỉ vài
giây sau, Chris một mình lao đi một cách thoải mái, khi cách rổ còn
chừng 20 bước chân thì được một đồng đội chuyền bóng. Đó là một khoảng
cách khó khăn cho bất cứ vận động viên nào – một khoảng cách xa ăn ba
điểm. Không do dự, Chris dừng lại và tung một cú ném cao hình vòng cầu.
Quả bóng bay về phía vòng rổ… và rơi gọn vào lưới.
Cả sân vận động
đều đứng dậy và hoan hô Chris. “Phải chơi như thế chứ, Chris!”, Bob
Samele hét lên, giọng của ông òa vỡ với tất cả nỗi xúc động.
Khoảng
một phút sau, Chris giành được bóng giữa một rừng cánh tay. Cố hết sức,
Chris ném quả bóng bay vòng chạm vào tấm ván phía sau chiếc rổ. Và một
lần nữa, bóng bật lại và rơi vào lưới. Thêm một tràng pháo tay hoan hô
nữa. Lúc này, nước mắt không ngừng tuôn rơi trên gương mặt của Linda
Samele khi bà thấy con trai mình nhảy lò cò về phía cuối sân, giơ cao
nắm tay tượng trưng cho chiến thắng. Bà lẩm bẩm một mình Thế là con đã
làm được rồi, Chris, con đã làm được rồi.
Chris vẫn tiếp tục thể
hiện khả năng của mình trong sự phấn khích của mọi người. Chỉ có một lần
cậu bị sút cái chân giả ra và ngã xuống sân. Khi tiếng còi kết thúc
trận đấu vang lên, cậu ghi được 11 điểm, và đội của trường Torrington đã
giành được chiến thắng.
Về nhà vào tối hôm đó, Chris cười mãi không thôi vì sung sướng: “Con chơi hay không ba?”
“Con chơi tuyệt lắm, con trai ạ”, Bob trả lời, và ôm ghì lấy đứa con trai.
Sau
khi bàn qua loa về trận đấu, Chris tự mình bước lên cầu thang để về
phòng với gương mặt vẫn còn rạng rỡ. Ba mẹ Chris hiểu rõ tâm trạng của
con mình; đêm nay chỉ mới là bắt đầu thôi.
Khi tắt đèn, Linda nhớ
lại một buổi chiều sau vụ tai nạn không bao lâu, khi bà lái xe chở đứa
con trai bất hạnh từ bệnh viện trở về nhà. Lúc đó Chris cứ im lặng, nhìn
mông lung ra ngoài cửa sổ xe; rồi bỗng nhiên phá tan sự im lặng đó: “Mẹ
ơi, con biết tại sao tai nạn này lại xảy ra với con rồi.” Giật mình,
Linda hỏi: “Vì sao thế, Chris?”
Vẫn ngó ra ngoài cửa sổ, Chris nói
ngắn gọn: “Vì Chúa biết con có thể tự xoay xở. Chúa đã bảo toàn mạng
sống của con vì Ngài biết con có thể xoay xở mà.”
JACK CAVANAUGH
[CHÚ
THÍCH CỦA BAN BIÊN SOẠN: Samele tiếp tục trở thành ngôi sao của đội
tuyển bóng rổ trường trung học Torrington trong suốt những nă cuối của
bậc phổ thông. Chris còn thi đấu đơn và đấu đôi cho đội tuyển quần vợt
của trường. Khi học ở trường Đại học Western New England ở Springfield,
bang Massachusetts, Chris vừa là cầu thủ của đội tuyển quần vợt, vừa
chơi cho đội bóng rổ trường Western New England. Chris ao ước sau này
trở thành một huấn luyện viên bóng rổ.]
Cám ơn các bạn đã cứu tôi
Những gì chúng ta kiếm được chỉ đủ sống thôi, nhưng những gì chúng ta cho đi lại có thể làm nên cả một cuộc đời.
Arthur Ashe
Những
tiếng đì đùng vang dội đã phá tan rạng đông tĩnh lặng. Một buổi sáng
tháng giêng năm 1994, chỉ trong vòng có mấy phút, một trong những trận
động đất kinh khủng nhất lịch sử nước Mỹ đã phong tỏa cả vùng Los
Angeles.
Tại công viên giải trí Diệu Sơn, cách thành phố Los
Angeles hai mươi dặm về phía bắc, có ba con cá heo đang khiếp sợ vì
không người chăm sóc. Chúng cuống cuồng bơi vòng quanh hồ khi những
chiếc cột bằng bê tông nặng hàng tấn đổ sụp xung quanh hồ và hàng đống
gạch ngói vỡ vụn rơi xuống nước.
Cách đó bốn mươi dặm về phía nam,
một cú dội có sức mạnh như quả đấm của người khổng lồ đã hất tung chàng
thanh niên 26 tuổi, Jeff Siegel, ra khỏi giường. Lồm cồm bò đến bên cửa
sổ, Jeff nhìn xuống thành phố đang náo loạn và nghĩ ngay đến những con
vật mà đối với anh còn quan trọng hơn bất cứ thứ gì trên đời. Anh tự
nhủ: “Mình phải đến với những con cá heo ngay. Chúng đã cứu mình, và lúc
này mình cần phải cứu chúng”.
Những ai quen biết Jeff từ khi anh còn nhỏ đều không thể nghĩ có một người anh hùng thứ hai ngoài Jeff.
Bẩm
sinh, Jeff vốn hiếu động, khiếm thính và thiếu khả năng tập trung. Vì
không thể nghe được nên Jeff mất dần khả năng nói, khiến không ai có thể
hiểu được anh. Cho đến khi chuẩn bị đi học, chú bé nhỏ con tóc hung ấy
vẫn bị bạn bè chọc là “thằng khờ.”
Jeff cũng không mấy thoải mái
ngay cả khi ở nhà mình. Mẹ Jeff rất lúng túng không biết phải nuôi dạy
đứa con trai đặc biệt của mình như thế nào. Sinh ra và lớn lên trong một
gia đình độc đoán và ít thân thiện, bà trở nên nghiêm khắc thái quá và
thường dễ nổi giận vì tính cách khác lạ của con trai mình. Bà chỉ mong
muốn con mình phải mau chóng bình thường như bao đứa trẻ khác. Cha Jeff
là một nhân viên cảnh sát thuộc tầng lớp trung lưu sống ở khu Torrance
của thành phố Los Angeles; ông phải làm việc ngoài giờ để kiếm thêm và
thường thì phải “cày” 16 tiếng một ngày.
Ngày đầu tiên đi học mẫu
giáo, chú bé năm tuổi Jeff đã leo rào trốn cô giáo chạy về nhà. Tức
giận, mẹ Jeff đã lôi con trai trở lại trường và bắt phải xin lỗi cô
giáo. Lớp học bỗng chốc trở thành sân khấu. Khi Jeff lắp bắp những lời
nói ngô nghê ngọng nghịu, cả lớp lập tức cười ầm lên như vỡ chợ. Để tánh
cái thế giới ít thân thiện ấy, Jeff đã tìm đến một góc sân trường vắng
vẻ ngồi một mình; còn khi ở nhà Jeff cứ rúc vào trong phòng mơ tưởng về
một nơi không bị ai trêu cười.
Năm lên lớp bốn, Jeff (lúc bấy giờ
được chín tuổi) và các bạn cùng lớp vào thăm công viên Thế giới Đại
dương của thành phố Los Angeles. Đến màn cá heo trình diễn, Jeff lập tức
bị lôi cuốn bởi sức mạnh và sự thân thiện của những con vật đẹp đẽ.
Dường như chúng đang nhìn thẳng vào Jeff và mỉm cười, điều mà hiếm khi
nào Jeff nhận được trong đời. Chú bé ngồi lặng im trong nỗi xúc động
tràn ngập và mơ ước được ở lại mãi bên đàn cá heo.
Vào cuối năm
học đó, các giáo viên đã cho rằng Jeff bị chứng bệnh rối loạn cảm xúc và
mất khả năng tiếp thu. Nhưng kết quả kiểm tra trẻ thiểu năng tại Trung
tâm Switzer ở gần đó cho thấy, Jeff vẫn là một đứa trẻ có khả năng trung
bình - khá, mặc dù điểm số kiểm tra môn toán đáng lo ngại vì vượt quá
giới hạn chậm phát triển. Thế là Jeff được chuyển qua điều trị tại trung
tâm này. Hai năm sau, Jeff đã bớt căng thẳng, và khả năng tiếp thu đã
tiến triển một cách khả quan.
Đến năm lớp bảy, Jeff buộc phải trở
lại trường trung học. Chỉ số trí tuệ của Jeff nằm trong khoảng 130, tức
thuộc vào nhóm năng khiếu. Khả năng nói của Jeff cũng tiến bộ đáng kể
nhờ phương pháp trị liệu tại Trung tâm Switzer. Nhưng khi trở về lớp
học, Jeff vẫn là một nạn nhân thường xuyên bị bạn bè trêu chọc. Năm học
này cũng chính là thời gian tệ nhất trong đời Jeff – mãi cho tới khi
được bố dắt vào công viên Thế giới Đại dương ở San Diego. Ngay khi thấy
những chú cá heo, cảm giác vui thích đã tràn ngập tâm hồn Jeff. Jeff
đứng như chôn chân ở bên hồ, nhìn ngắm những con cá tung tăng bơi lượn
qua lại trước mặt mình.
Để hàng năm được đi công viên Thế giới Đại
dương gần nhà hơn, Jeff đã phải tự kiếm tiền. Có lần đến công viên một
mình, Jeff ngồi trên bức tường thấp bao quanh hồ. Các con cá heo, vì đã
quen với việc được người cho ăn, bơi đến bên Jeff khiến cậu hết sức ngạc
nhiên. Con cá đầu tiên đến gần Jeff là Grid Eye, một nàng cá đầu đàn.
Nàng tiên cá nặng 600pound lướt nhè nhẹ đến bên Jeff và nằm im lặng bên
hồ cạnh Jeff. Nó có cho mình chạm vào không nhỉ? Jeff tự hỏi và cho tay
xuống nước. Khi Jeff gãi nhè nhẹ vào làn da trơn mướt của Grid Eye, cô
nàng nhích gần đến Jeff hơn. Đó quả là một khoảnh khắc cực kỳ thích thú
đối với một chú bé.
Những con cá nhanh chóng trở thành những người
bạn bất ngờ. Và vì hồ cá heo nằm hơi khuất trong công viên Thế giới Đại
dương, nên Jeff thường ra đó một mình để chơi đùa với những người bạn
vui tính này.
Một ngày kia, Sharky, một nàng cá khác, lướt đến bên
Jeff cho đến khi cậu sờ được vào đuôi thì ngừng bơi. Nào, chuyện gì nữa
đây? Jeff tự hỏi. Bất ngờ, con Sharky lặn xuống nước kéo theo cả bàn
tay và cánh tay của cậu bé. Jeff cười và kéo nó lại không cho bơi đi.
Con cá lặn sâu hơn khiến Jeff kéo lại mạnh hơn, như thể đang chơi trò
kéo co vậy. Khi Sharky trồi lên mặt nước để thở, mặt Jeff và con cá kề
nhau trong chốc lát. Jeff liền cười với Sharky và cô nàng cũng há miệng
cười đáp trả. Rồi Sharky lại bơi vòng vòng và đưa đuôi cho Jeff nắm để
tiếp tục chơi trò kéo co.
Jeff và những con cá nặng trên trăm kilô
thường chơi trò lôi kéo, rượt đuổi nhau quanh hồ. Đó cũng là cơ hội để
Jeff chạm vào mình chúng hoặc vỗ tay vào vây như một cách chào hỏi.
Những trò chơi này cũng là cách giao tiếp đặc biệt của riêng Jeff với
những con vật đáng yêu của đại dương.
Vào mùa hè, khi có khoảng
năm trăm người lúc nào cũng vây quanh hồ, bầy cá kia vẫn có thể nhận ra
người bạn của chúng và bơi lại gần Jeff mỗi khi cậu quơ bàn tay của mình
trong nước. Tình bạn với bầy cá heo khiến Jeff tự tin hơn, và dần dần
tìm được cách thể hiện mình. Jeff ghi tên vào một khóa học tại một công
viên có bể nuôi cá gần đó và say mê tìm đọc tất cả sách về sinh vật
biển. Chẳng mấy chốc, Jeff như một cuốn từ điển sống về cá heo, và làm
cho gia đình bất ngờ khi tỏ ý muốn trở thành một hướng dẫn viên du lịch
tình nguyện, bất chấp khả năng phát âm của mình.