Tuổi thiếu niên kỳ lạ - Chương 04

 

Điều kỳ diệu của chiếc hộp nhựa

Có thể nói rằng sự vinh quang của tôi chính là do tôi có được những người bạn như thế.

William Butler Yeats

Cách đây rất nhiều năm, vào thập niên 60 của thế kỉ XX, đã từng xuất hiện những buổi gặp mặt gọi là những bữa tiệc hộp nhựa. Nhiều phụ nữ đi làm bị sa thải, và thế là từ đó cánh phụ nữ chúng tôi phải ở nhà làm bà nội trợ “giữ nhà”. Những bữa tiệc kiểu này là một lí do dễ chấp nhận để các bà mẹ được ra khỏi nhà vào buổi tối, mặc các ông bố xoay xở với chuyện tắm táp và ngủ nghỉ thường ngày của con cái.

Cánh phụ nữ chúng tôi rất thích trò chuyện với những người có nhiều kinh nghiệm hơn, mặc dù các câu chuyện của chúng tôi hầu như lúc nào cũng xoay quanh những đề tài quen thuộc – con cái và việc nhà. Khi học cách để đóng một cái hộp đựng thức ăn cho đúng khớp, chúng tôi cũng bàn luôn chuyện làm sao để con ợ sau khi cho nó ăn xong. Thường thì sau khoảng ba tiếng đồng hồ lắng nghe những chỉ dẫn, chơi những trò trẻ con, rồi điền thông tin vào biểu mẫu, chúng tôi về nhà, suy nghĩ làm cách nào để nhét mấy cái hộp nhựa mới được phát hiện ra nhiều công dụng đó vào mấy cái tủ trong bếp vốn đã chật cứng. Có thể một tháng hay lâu hơn nữa, chúng tôi sẽ không gặp lại nhau, cho đến khi có người nào đó đứng ra tổ chức bữa tiệc kế tiếp.

Một ngày nọ, sau bữa tiệc hộp nhựa vào tối thứ năm tại nhà Kay - cách nhà tôi hai căn - khi đang ngồi giặt giũ ở sân sau, tôi bỗng nghe tiếng Kay từ bên ngoài hàng rào gọi vọng vào. Kay nói nhà chị ấy vẫn còn một ít bánh, và không biết có nên mời mấy chị hàng xóm đến nhà ai đó cùng ăn bánh và uống cà phê vào chiều nay không. Đây là một ý kiến mới mẻ. Không ai trong chúng tôi là dân sống lâu năm ở đây và việc chăm sóc con nhỏ đã chiếm hết thời gian của chúng tôi, chính vì thế chúng tôi ít có điều kiện giao tiếp rộng rãi, ngoại trừ những buổi gặp gỡ để bày vẽ nhau làm thứ này thứ nọ. Tôi cũng cho rằng đây là một sáng kiến khá thú vị. Thế là tôi và Kay lập tức gọi cho những người đã có mặt trong bữa tiệc tối hôm trước đến gặp nhau tại nhà tôi vào lúc hai giờ chiều.

Sau hai giờ chiều thì bọn trẻ phải nghỉ trưa, nhưng chúng tôi quyết định bỏ chuyện nghỉ trưa, chỉ một lần trong tuần thôi. Ngoài trời đang mưa nên bọn nhóc phải chơi trong phòng ăn nhỏ xíu xiu của nhà tôi, còn các bà mẹ thì ngồi trò chuyện và ăn bánh với nhau trong phòng khách. Tuy không thấy được bọn nhóc đang làm gì trong phòng ăn, nhưng chỉ cách nhau một vách ngăn mỏng, nên chúng tôi vẫn có thể nghe được tiếng chúng chơi đùa. Đến khi chúng tôi nhìn đồng hồ thì hai tiếng đã trôi qua, và mọi người phải vội vội vàng vàng ra về để kịp chuẩn bị bữa ăn tối cho các ông chồng. Hai tiếng đồng hồ ấy là cả một thời gian tuyệt diệu mà tất cả chúng tôi đều muốn tiếp tục tận hưởng.

Trong suốt ba năm liền, chúng tôi đã duy trì thông lệ gặp mặt nhau mỗi chiều thứ sáu vào lúc hai giờ. Mọi người dắt theo con cái để chúng chơi đùa với nhau, vung vãi món bánh quy mặn trên tấm thảm phòng khách của bà chủ tuần ấy. Chẳng ai để tâm đến mấy thứ lộn xộn đó. Ai nấy đều có thể nhận thấy rằng, đôi khi những bà mẹ rất dễ mất bình tĩnh với con cái của mình, và cả với ông chồng vốn đáng yêu bỗng nhiên trở nên dễ cáu kỉnh, chẳng biết cảm thông. Chúng ta không sống một mình trên thế giới này, và cũng chẳng phải là những người dị hợm. Chỉ có điều đôi khi chúng ta trở nên dữ dằn do chịu đựng quá nhiều áp lực từ công việc nội trợ cùng với bổn phận làm mẹ, làm vợ. Kỳ lạ thay, mỗi người đều phát hiện rằng phụ nữ nào cũng giống như mình. Vậy thì chỉ việc nói ra những bức xúc ấy với những người bạn thật sự hiểu mình là chúng ta có thể giải quyết ổn thỏa mọi rắc rối

Mỗi tuần trôi qua, trí óc tôi càng thêm minh mẫn và cuộc sống hôn nhân của tôi càng bền vững hơn, vì tôi đã tìm được một nơi an toàn để xả những cơn tức giận, những nỗi bực bội của mình và học được những cách giải quyết mới. Những bà mẹ, người này học hỏi người kia, đồng thời vun đắp thêm một tình bạn tuyệt vời, còn con trẻ thì học được những việc làm nhỏ có ích (như làm sạch những vụn bánh quy trên thảm) từ nhóm bạn chơi của chúng. Chung quy là vì có những bữa tiệc hộp nhựa!

Chiếc hộp nhựa ấy, sao nó có thể giữ gìn được nhiều thứ đến thế?

CAROL BRYANT

 

Bài học từ những chú cừu

Là chủ bút của một tạp chí du lịch tầm cỡ, tôi nhận được rất nhiều lời mời đến thăm những cảnh đẹp ở nước ngoài, và mỗi khi có được cơ hội ấy, thì tôi lại mời Linda và Leslie, hai nhân viên trong tòa soạn đi cùng. Dù hai cây bút trẻ này, chỉ là nhân viên, nhưng tôi luôn xem hai cô như hai người bạn thân thiết. Khi Công ty du lịch Anh mời tôi đi tham quan một vòng nước Anh, tôi đã ghi thêm tên hai cô vào danh sách.

Tôi xuất thân chính gốc thị thành, Linda và Leslie cũng vậy. Cả ba chúng tôi đều không có nhiều hiểu biết về mấy con cừu ngoài những khoanh thịt cừu nướng nằm gọn gàng trên đĩa! Còn giờ đây chúng tôi đang ở miền Nam nước Anh, cùng với người tài xế bất đắc dĩ của chúng tôi – Leslie. (Tôi và Linda, đều không biết cách lái xe có tay lái bên trái). Leslie lái xe qua những dặm sườn đ uốn lượn, những đồng cỏ xanh rì điểm những đốm trắng, đó là hàng trăm con cừu có bộ lông dày sụ, trắng như bông.

Một hướng dẫn viên du lịch kỳ cựu được Công ty du lịch Anh gửi đến, anh Brenda Page, kể cho chúng tôi nghe về loài cừu nhiều hơn những gì chúng tôi thật sự muốn biết.

“Những con cừu các chị đang thấy ở đây chính là cừu Hampshire”, Brenda giải thích, “Vào thời điểm này trong năm, lông của chúng rất nặng, nên chúng bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, thế là chúng lăn tròn trên đất để tự gãi lưng. Nhưng vì nặng quá nên chúng không thể xoay người để tự đứng dậy được. Nếu các chị có nhìn thấy con cừu nào nằm ngửa, bốn chân chổng lên trời thì các chị chớ tưởng là nó đã chết. Các chị cần đi vào trảng cỏ và đỡ nó dậy”.

Ba đứa tôi nhìn nhau lo lắng. Leslie hỏi:

- Chúng tôi có thể thực hành trước với một con sóc không?

Brenda nhìn cô ấy một cách giễu cợt:

- Khi chị trông thấy một con sóc nằm ngửa với bốn chân chổng lên trời thì có nghĩa là nó đã chết thật, và không có cách nào để làm cho nó sống lại được đâu. Nhưng với một con cừu thì khác, nó có thể nằm ở tư thế đó trong nhiều tuần lễ… thật đấy! Khi lật một con cừu lại, chị không nên để cho nó đi ngay. Chị phải chờ cho đến khi lục phủ ngũ tạng của nó trở về vị trí cũ và bộ óc của nó yên vị trong hộp sọ. Nếu chị thả cho nó đi quá sớm, nó sẽ mất phương hướng và có thể ngã gãy chân.

- Anh đã từng cứu con cừu nào chưa?

- Ồ, sao lại chưa! Tôi thường dẫn du khách đi tham quan những đồng cỏ xinh đẹp, và mỗi khi có con cừu nào bị ngã ngửa là tôi lại chọn một người khỏe mạnh trong số họ để giúp tôi đỡ con cừu dậy.

Sau một ngày du ngn, chúng tôi tạm biệt Brenda và quay về căn nhà chúng tôi đã thuê.

Leslie nói với Linda:

- Này, này, đừng có mà đưa mắt nhìn ngang dọc đấy nhé. Tớ không có chuẩn bị gì cho việc nâng cừu dậy tối nay đâu đấy.

Tôi hỏi:

- Chúng ta sẽ làm gì nếu nhìn thấy một con cừu bị lật ngửa nhỉ?

Linda đề nghị:

- Có lẽ chúng ta nên gọi cho Câu lạc bộ Ô tô Hoàng gia. Ơ, mà không biết ở Anh có Dịch vụ cứu hộ cừu không nhỉ?

Vào nhà, chúng tôi ngồi trước lò sưởi, còn Linda nằm xoãi người trên ghế sa lông. Leslie ướm hỏi:

-Linda, cậu ngủ chưa?

Linda hé một mắt.

- Đừng có nghĩ đến chuyện đó nhé!

- Cậu giơ cả tay chân lên trời xem nào, tớ muốn thử cứu hộ cừu!

- Đi mà thử với Phyllis ấy. Chị ấy có một cái áo choàng lông cừu dày cộp.

Tôi giả vờ trừng mắt nhìn hai cô bạn:

- Nếu vậy thì chỉ có một trong hai đứa được đi chuyến du lịch kế tiếp thôi đấy!

Linda nhìn Leslie:

- Thôi để tớ lật cậu dậy kẻo không thì mất cơ hội đi du lịch với sếp!

PHYLLIS W. ZENO

 

Nhiệm vụ cuối cùng

Eve Jesson cảm thấy cay đắng, nhưng một sức mạnh nội tại – niềm tin của bà – đã giúp bà tiếp tục sống. Bà góa chồng ở tuổi bảy mươi sau bốn mươi ba năm bận rộn với vai trò phu nhân của một vị bộ trưởng. Sau đó bà bị tai biến mạch máu não ở tuổi bảy mươi tư, khiến nửa người trái của bà bị liệt: bàn tay, cánh tay trái và chân trái của bà rất yếu, bà đi lại chậm chạp với cây gậy có bốn chân. Tuy thế đầu óc bà vẫn rất sáng suốt, và không muốn ai phải lo lắng hay chăm sóc bà.

Con gái và con rể của bà thường nài nỉ bà về sống với họ nhưng bà luôn nhẹ nhàng từ chối: “Mẹ không nghĩ đó là cách hay nhất, nhưng mẹ sẽ đến thăm các con thường xuyên”. Bà bán nhà, đem tài sản chia hết cho những người thân của mình và chuyển đến sống trong nhà an dưỡng, nơi tôi làm việc. Chẳng mấy chốc bà đã trở thành niềm vui cho tất cả nhân viên chúng tôi. Bà rất khó tính, nhưng chu đáo và thân thiện vô cùng. Bà tham gia mọi hoạt động của nhà an dưỡng, giúp cắm hoa làm đẹp các phòng và lo cho người này người kia như một bà mẹ vậy.

Khó mà tìm cho bà một người bạn phù hợp để ở chung trong căn phòng ngủ dành cho hai người. Nhiều bà lão trong viện an dưỡng của chúng tôi hoặc sức khỏe hoặc cá tính đang có vấn đề nghiêm trọng, hay đang trong tình trạng lú lẫn. Với dáng vẻ nhẹ nhàng, lặng lẽ, và có thể tự chăm sóc bản thân, cụ Margaret Gravelle dường như là một người bạn cùng phòng thích hợp với bà nhất. Nhưng trí nhớ của cụ Margaret rất kém, cụ chỉ biết cụ bao nhiêu tuổi và đang ở trong nhà an dưỡng. Người thân của cụ giờ chỉ còn duy nhất một cháu cố họ.

Dù bà Jesson ít khi phàn nàn, nhưng chúng tôi biết cụ Margaret đã đánh thức bà nhiều lần trong đêm khi cụ lẩn thẩn không biết phòng tắm ở đâu hay tiếng động cụ nghe trong đêm là gì. Bà Jesson phải nhắc cụ Margaret đến giờ ăn và dắt cụ vào phòng ăn. Cụ Margaret không thể nhận thức được là trong phòng chỉ có một cái tủ là của cụ, còn cái kia là của người bạn cùng phòng. Có khi cô y tá phải đưa cụ Margaret trở về phòng để thay áo vì cụ đang mặc nhầm áo của bà Jesson.

- Chà bà cụ có khiếu thẩm mỹ lắm đó, - Bà Jesson nói một cách hài hước - đó là chiếc áo lụa đẹp nhất mà người ta vừa tặng tôi hôm sinh nhật.

Một ngày nọ chúng tôi sắp xếp để nhận thêm một bà cụ vào ở, người mà chúng tôi nghĩ rằng sẽ là bạn cùng phòng tốt hơn cho bà Jesson. Tôi nói với bà:

- Cháu nghĩ là trong vài ngày tới bọn cháu có thể đưa đến cho bác một người bạn cùng phòng phù hợp với bác hơn, bọn cháu sẽ đưa cụ Margaret sang một phòng khác.

Cuối ngày hôm ấy bà Jesson xuống phòng làm việc của tôi. Bà nói:

- Đừng chuyển cụ Margaret đi, cụ ấy thật sự cần có ai đó chăm sóc. Ban đêm cụ hay lo lắng lắm. Cụ ấy chẳng có gia đình và đã quen ở với tôi rồi. Cô biết không, tôi đã hỏi Chúa trời nhiều lần là tại sao tôi lại phải tiếp tục sống. Khi ông John nhà tôi mất đi, tôi cảm thấy như thể cuộc đời tôi cũng đã kết thúc theo. Nhưng gia đình, bạn bè và niềm tin đã an ủi tôi rất nhiều. Rồi khi bị tai biến mạch máu não, tôi lại nghĩ Tại sao Chúa lại hành hạ con như thế này? Tại sao lại để con tiếp tục sống? Nhưng có lẽ Người có việc còn cần đến tôi. Có lẽ người muốn tôi sống là để chăm sóc cho cụ Margaret. Tôi có thể chia sẻ với cụ ấy chút ít an ủi mà gia đình tôi đã đem lại cho tôi. Cứ để cụ bà ở với tôi. Trông chừng cụ ấy một chút cũng chẳng mất nhiều công sức lắm đâu

Tựa vào cái gậy chống, bà Eve Jesson nhân từ quay trở lại hành lang dẫn về phòng để thực hiện nhiệm vụ yêu thương cuối cùng mà Chúa đã phân công cho bà.

MARIAN LEWIS

 

Thiên thần trên chiếc du thuyền

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1993, vợ chồng tôi đã mất đi đứa con trai mười một tuổi chỉ ít ngày trước hôm sinh nhật của thằng bé. Hành trình vượt qua đau buồn đó khiến con người gần như kiệt sức, và có những lúc tưởng như sắp ngã quỵ. Nhưng chúng tôi vẫn phải tiếp tục sống, vì con gái Jayme mười ba tuổi của chúng tôi đang cần một chỗ dựa, quan trọng hơn nữa, Sean – đứa con trai đã mất - chắc chắn cũng không muốn chúng tôi bỏ cuộc. Mỗi lần nhớ đến những câu nói đùa, những tiếng cười trong trẻo, và cảm nhận được tình yêu của con vẫn còn đây là chúng tôi lại lướt qua được những khoảnh khắc khó khăn.

Trong nỗi đau mất con, lúc nào chúng tôi cũng thấy ganh tị trước sự đầy đủ của những gia đình hạnh phúc. Vào lễ Tạ ơn năm đó, năm 1994, một việc đã thay đổi cái nhìn của vợ chồng tôi.

Trước đây, khi Sean còn sống, lễ Tạ ơn luôn là một dịp đặc biệt đối với gia đình chúng tôi. Mọi người trong gia đình quây quần bên nhau, chỉ có bốn người mà thôi. Chúng tôi đã thay nhau nấu những món ăn ưa thích, cùng nhau ăn tối, trang trí nhà cửa với những bóng đèn chớp nháy vui mắt, sau đó ngồi ở ghế bành, vừa ăn bánh trái vừa ngắm nghía công trình của mình. Lần lễ Tạ ơn này, ba người chúng tôi, vì quá đau buồn, nên cần có một kỳ nghỉ lễ “khác biệt” hơn. Mike, chồng tôi, từng ao ước được một lần đi du lịch trên một chiếc du thuyền và chúng tôi nghĩ rằng biết đâu đi du thuyền sẽ giúp chúng tôi vượt qua được lễ Tạ ơn mất mát đầu tiên”. Khi mất đi người mà bạn thương yêu, cuộc sống của bạn dường như bị cắt đôi thành hai nửa: nửa trước và sau khi người ấy mất, giống như bạn phải bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới dù bạn có thích hay không.

Người ta thường nghĩ mình có thể thoát ra khỏi nỗi buồn bằng việc đi du lịch, và vì thế tôi đã cầu nguyện rất nhiều với hy vọng, rằng chuyến đi sẽ làm vơi đi chút ít nỗi đau.

Chúng tôi lên một chiếc du thuyền xinh đẹp đến Key West. Thời tiết rất đẹp, và vào ngày thứ hai của chuyến đi, một gia đình từ Orchard Lake, Michigan, bước lên thuyền. Đến buổi chiều thì chúng tôi đã biết, đó là gia đình Falzon. Họ có con gái tên Chris bằng tuổi với Jayme nhà tôi. Cả hai đứa có nhiều điểm giống nhau, ngoại trừ mỗi một chuyện, Jayme nhà tôi vừa mới mất em trai.

Hai cô bé chơi với nhau rất vui vẻ. Ngày hôm ấy gia đình chúng tôi ở trên boong tàu cùng với gia đình Falzon, nằm duỗi dài thư giãn và trò chuyện với nhau. Denise hỏi tôi còn đứa con nào nữa không và tôi đã trả lời là không, chỉ có Jayme thôi. Tôi nghĩ chắc gì mình còn có dịp gặp lại họ nữa nên kể cho họ nghe chuyện đau buồn của gia đình mình mà làm gì. Buổi tối hôm đó, khi xem trình diễn ca nhạc trên boong, tôi đã nhìn gia đình Falzons trong nỗi ghen tị âm thầm và tự hỏi Làm sao họ biết được gia đình mình đang đau đớn đến chừng nào! Rồi mình sẽ ra sao khi trở lại “bình thường” đây?

Tuy nhiên, bọn trẻ con rất thích những ngày cùng nhau vui chơi trên thuyền. Đến cuối chuyến đi, hai gia đình cho địa chỉ và hứa hẹn sẽ viết thư cho nhau.

Vài ngày sau lễ Giáng sinh, tôi nhận được thiệp mừng Giáng sinh của gia đình Falzons. Vừa đọc được vài dòng trên tấm thiệp, tôi rùng mình. Denise cám ơn chúng tôi ì đã giúp họ qua được một kỳ nghỉ lễ. Con trai Brian mười chín tuổi của họ đã mất vào ngày 1 tháng mười năm 1993 tại ký túc xá trường đại học, sau khi rơi vào hôn mê vì đột ngột rối loạn nhịp tim. Tôi rụng rời, thế là giờ đây Nikki và Jayme nhà tôi đã giống y như nhau rồi đấy: cả hai đều vừa mất đi một người thân.

Trời ạ, trong hơn hai ngàn người đi trên chiếc du thuyền ấy, chúng tôi đã gặp một gia đình cũng mất con trai gần như cùng một thời gian với con trai tôi – cứ như thể các con trai của chúng tôi đã sắp đặt cho chúng tôi gặp nhau vậy. Biết gia đình Falzons đang đón Giáng sinh ở một thành phố khác, nhưng tôi vẫn vội vàng viết ngay cho họ một bức thư kể về Sean của tôi, kèm thêm một tấm hình của Sean. Tôi muốn khi đi nghỉ Giáng sinh về họ sẽ nhận được ngay lá thư.

Quả vậy, Chris và Denise đã hết sức bất ngờ. Họ gọi điện cho chúng tôi ngay khi đọc thư xong. Hai gia đình như mở hết lòng ra trò chuyện với nhau – và cứ thế, chúng tôi trở thành thân thiết với nhau mãi đến bây giờ. Denise và tôi thường gọi điện an ủi nhau mỗi khi đến ngày mất của con trai chúng tôi.

Nếu còn sống, lẽ ra năm nay Sean đã tốt nghiệp phổ thông. Và thế là gia đình chúng tôi lên kế hoạch một chuyến đi thăm gia đình Denise trong tuần học sinh trung học phổ thông thi tốt nghiệp.

Sau đau đớn, chúng tôi vô cùng biết ơn những niềm an ủi đã đến với mình, bằng cách này hay cách khác. Và tôi đã hiểu, có yêu thương những người chung quanh, chúng tôi mới cảm nhận được tình yêu của con trai dành cho mình. Chính gia đình Denise đã dạy chúng tôi rằng, có mở lòng ra giúp đỡ người khác, ngay cả khi ta đang rất đau buồn, thì ta mới không bị nỗi buồn chôn chân lại.

SHARI DOWDALL

 

Báo cáo nội dung xấu