Vương Quốc Bí Ẩn - Chương 12
Chương
12: Ngộ Độc
Ngày
hôm sau, họ đi đến một ngôi làng, dường như có một điều gì đó không bình thường
đang diễn ra ở đây. Một điềm xấu. Mùi khói của gỗ cháy trên các bếp lửa đã
không còn. Có một thứ mùi khác: mùi của chết chóc và mục rữa. Đêm xuống nhanh
chóng, nhưng những con ngựa đã luôn ở trong bóng tối. Xung quanh không c
ó một
tia sáng nào. Cả ngôi làng chìm ngập trong sự im lặng đáng sợ.
Timoken
không muốn dừng lại ở đây. Cậu đang lo lắng cho mười một đứa trẻ, cậu chỉ muốn
nhanh chóng tìm thấy chúng trước khi trời tối hẳn. Nhưng Gabar thì lại cần được
nghỉ ngoi. Nó nhìn thấy một cái máng nước bằng đá bên dưới chiếc vòi bơm đặt
ngay trung tâm ngôi làng, Gabar đi thẳng đến đó. Nó đang chực cúi đầu xuống uống
nước, thì Timoken kéo dây cương ngăn lại, không cho con lạc đà chạm vào máng nước.
Con
lạc đà giận dỗi nói: “Tôi khát lắm rồi. Tại sao cậu không để tôi uống nước chứ?”
“Nhìn
xuống nước kìa, Gabar! Nhìn đi!”
Dưới
ánh sáng từ ngọn đèn của Timoken, mặt nước trở nên óng ánh. Với Gabar, nước mới
mát ngọt làm sao.
“Có
chuyện gì thế?” Edern nhìn khắp lượt Timoken. “Tại sao cậu không cho con lạc đà
uống nước?”
“Bởi
vì, có ai đó đã bỏ thuốc độc vào nước.” Ngay khi đã nói ra, Timoken nhận ra rằng,
Edern không thể nhìn thấy lớp sương mù mỏng, màu xanh đang bao trùm lấy mặt nước,
trong nước có cả những sinh vật nhò xíu với hình thù kỳ lạ. Chúng đang cười với
Timoken, khuôn mặt gian xảo của chúng quá ư hiểm ác.
“Làm
sao cậu biết được?” Edern thắc mắc. “Làm sao cậu biết giếng nước đã bị đầu độc
“Tôi
có thể nhìn thấy chúng,” Timoken giải thích thật đơn giản.
“Chúng
là ai?”
“Ma
quỷ.”
Giờ
thì Gabar có thể cảm nhận được có gi đó bất an đang diễn ra. Nó không thể nhìn
thấy những sinh vật đó, nhưng nó cảm nhận được chúng, nó bắt đầu lùi lại.
Edern
vẫn không thấy gì cả, nhưng cậu tin vào lời nói của Timoken. “Vậy chúng ta phải
làm sao đây?”
“Có
lẽ cả ngôi làng này đã bị đầu độc rồi,” giọng Timoken trầm ngâm. “Có lẽ, họ đã
chết hết rồi, nhưng biết đâu còn người nào sống sót quanh đây.”
Edern
nhìn những ngôi nhà xung quanh, tất cả đều chìm trong bóng tối và sự tĩnh lặng.
“Chúng ta có nên vào nhà xem không?” giọng nói cậu xen lẫn chút sợ hãi.
“Bắt
buộc đấy.”
Gabar
quỳ xuống cho hai cậu bé leo xuống đất. Căn nhà đầu tiên hai cậu bước vào khá
là trống trải. Căn nhà kế tiếp cũng thế. Trong cả hai căn nhà, đồ ăn đang được
bày trên bàn, có cả bình nước và một vài cái cốc. Bình nước trống rỗng, cả những
cái cốc cũng thê”. Khi họ đi đến ngôi nhà thứ ba, vẫn một viễn cảnh gần giống
như thế hiện ra, họ bắt đầu nghĩ rằng, có lẽ những người dân làng đã khiếp sợ bỏ
trốn hết, và có lẽ họ đã không bị đầu độc.
Timoken
quay trở lại máng nước. Cậu buộc mình nhìn xuống mặt nước một lần nữa. Những
sinh vật ma quỷ nhỏ xíu ấy vẫn còn, chúng đang bơi trong nước như những hạt đậu
xanh. Cậu cẩn thận nhún ngón tay đeo nhẫn vào màn sương mù. Những con quỷ chạm
vào tay cậu đều la lên đau đớn và nhảy ra khỏi mặt nước; chúng bắn lên như những
đốm sáng màu xanh vỏ chanh lên bầu trời tối đen.
“Tôi
thấy chúng rồi,” Edern gào lên đầy mê hoặc khi nhìn thấy những đốm sáng xanh ấy.
“Cậu đã làm
“Tôi
cũng không biết nữa,” Timoken trả lời. “Nhưng chúng không còn cười với tôi nữa.”
Bên kia cái máng nước, cậu trông thấy một ngôi nhà lớn, to hơn so với những cái
còn lại. Có lẽ, đó là nơi hội họp của cả làng, hay là nhà của trường làng. Cũng
có thể tất cả dân làng đang tụ tập ở đó. Phải chăng họ đến đó để hỏi trưởng
làng về căn bệnh lạ do nguồn nước gây ra? Timoken đang định tiến đến để xem xét
ngôi nhà, thì Edern kéo tay cậu lại:
“Nghe
kìa,” Edern thì thào.
Giọng
của một cậu bé trai vang lên trong không gian. Giọng hát thật trong trẻo và ngọt
ngào, cậu bé đang hát bằng ngôn ngữ của Edern.
“Gereint!”
Edern hét lên. “Tôi chắc đây là giọng của cậu ấy. Cậu ấy là ca sĩ ưa thích của
hoàng tử chúng tôi.” Edern chạy về phía ngôi nhà phát ra tiếng hát. Timoken chạy
theo cậu.
Cửa
không khóa, hai cậu bé cùng chạy vào nhà. Đèn cầy sáng lung linh trên một cái
bàn thô nhám và chín đứa trẻ đang ngồi ở đó, khuôn mặt của mọi người đều sợ
hãi, trắng bệch. Khi chúng vừa nhìn thấy Edern và Timoken bước vào, bọn trẻ nhảy
cẫng lên, thở phào nhẹ nhõm.
Chạy
đến bên Edern, Peredur nói như gào: “Chúng tôi cứ tướng các cậu bị lạc, hay là
bị những tên bắt cóc bắt lại rồi.”
“Tại
sao chỉ có chín người các cậu ở đây?” Timoken lo lắng hỏi. “Còn những người
khác đâu rồi?”
Khuôn
mặt Peredur trở nên buồn rầu: “Chúng tôi nghĩ họ chết rồi.” Cậu chỉ tay vào góc
tối, nơi có hai đứa trẻ đang nằm trên tấm nệm, một đứa con trai và một đứa con
gái. Những đứa trẻ đã phủ lên người chúng áo khoác của mình, hai đứa bé trông
như đã chết rồi. Mắt chúng nhắm nghiền, chúng gần như không thở nữa.
Một
đứa bé trai đến bên Timoken. Cậu bé nhỏ hơn Peredur, tóc của cậu màu vàng óng.
“Tôi đang hát cho họ,” cậu bé nói bằng tất cả lòng thương cảm cho bạn mình.
“Tôi nghĩ tiếng hát của tôi sẽ giúp họ đi đến thiên đường trong hạnh phúc.”
“H
chết.” Timoken đi về phía tấm nệm, quỳ xuống bên cạnh hai đứa bé. “Cậu ấy vẫn
còn ấm mà,” cậu nói, nắm lấy tay của đứa bé trai. “Chuyện gì đã xảy ra?”
“Họ
dẫn đầu trong số chúng tôi,” Peredur nói. “Henri thúc cho ngựa của cậu ấy phi rất
nhanh, thật tội nghiệp cho Isabella, cô bé ngồi sau lưng Henri trong bộ váy
dài, lúc nào cũng sợ bị té khỏi ngựa. Khi chúng tôi đi đến ngôi làng này, chúng
tôi thấy họ cột ngựa ở một cây cột, và rồi, chúng tôi thấy Henri và Isabella nằm
bất tỉnh bên cạnh máng nước. Môi của họ màu xanh lá cây và nhơn nhớt, mặt họ trắng
bệch như xác chết.
“Chúng
tôi nghĩ họ đã uống phải nước độc,” Gereint nói. “Vì thế nên chúng tôi không
dám đụng đến nó.”
“Cậu
thật thông minh,” Timoken khen ngợi. Cậu đi ra cửa, đến bên Gabar, vẫn đang
kiên nhẫn chờ đợi.
“Nước
à?” Gabar hỏi, khi Timoken lấy áo choàng mặt trăng trong túi ra.
“Chờ
một chút nữa, Gabar,” Timoken nói. “Nước trong máng đã bị đầu độc, hãy biết ơn
vì ta đã ngăn cản ngươi kịp lúc.”
“Tôi
luôn biết ơn cậu mà, Gia đình,” con lạc đà nói với theo khi Timoken đi ngược về
phía ngôi nhà.
Cậu
mang áo choàng mặt trăng để bên cạnh hai đứa trẻ và ngồi xuống bên canh chúng.
Edern mang đèn cầy đên, để ánh sáng soi trên mặt họ. Những đứa trẻ còn lại đứng
sau lưng Edern, thì thầm lo lắng. Áo choàng mặt trăng tỏa sáng lấp lánh dưới
ánh đèn, những sợi tơ của nó trông như những ngôi sao.
“Đây
là gì vậy?”
Timoken
nhận ra giọng nói của cô gái “ở trong lồng”. Cô gái có vẻ đang rất tò mò.
Timoken không biết giải thích thế nào với cô về áo choàng mặt trăng.
“Phù
thủy nhỏ, hãy nói cho tôi biết cậu đang làm gì.” Giọng nói của cô trở nên dịu
dàng. “Tôi đã tin tưởng cậu, nhưng tôi vẫn muốn biết cậu đang làm gì.”
Timoken
hít sâu, tấm tơ nhện lên và nói: “Tôi gọi nó là áo choàng mặt trăng. Nó được
làm từ tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nó bảo vệ cho tôi và thỉnh thoảng,
nó còn có thể chữa lành cả vết thương.” Cậu giải thích về áo choàng mặt trăng
cho mọi người.
Những
đứa trẻ sau lưng cậu xì xào bàn tán đầy kinh ngạc. Rồi tiếng xì xầm biến thành
tiếng reo vui đầy phấn khích khi Henri từ từ quay đầu lại và rên rỉ.
“Cậu
ấy đang hồi phục,” Peredur nói.
Mọi
người háo hức theo dõi từng chuyển biến trên sắc mặt của Henri. Đột nhiên, cậu
bé ngồi dậy và thì thào: “Hình như tôi đang bị bệnh!” Mặc dù, những đứa trẻ người
Anh không hiểu được những gì cậu nói, nhưng chúng đoán được điều gì sẽ xảy ra,
tất cả cùng lùi lại, đứng sát vào nhau. Henri gập người và bắt đầu nôn ọe. Một
thứ chất lỏng màu xanh chảy xuống, đọng thành một cái vũng trên nền đất. Chỉ có
Timoken nhìn thấy những con quái vật màu xanh đang quằn quại đau đớn trong cái
vũng đó và từ từ chết đi. Chỉ trong một vài giây, chất lỏng màu xanh nhanh
chóng thấm xuống đất, chỉ còn để lại vết tích của một mảng đất ướt.
“Là
cậu!” Henri nói, nhìn lên Timoken. “Cậu đã cứu sống tôi một lần nữa.”
Timoken
cười: “Không. Là áo choàng mặt trăng cứu cậu đó.”
Henri
nhíu mày nhìn tấm tơ nhện lấp lánh. “Ui!” Cậu thả chân xuống đất, từ từ đứng dậy,
tấm tơ nhện trượt xuống bên cạnh Isabelle. “Ổ! Isabelle!” Henri lấy tay che miệng.
“Cậu ấy vẫn còn chưa tỉnh sao? Đó là lỗi của tôi. Tôi đã bảo bạn ấy uống nước.
Nó có thuốc độc đúng không?”
“Cậu
ngốc thật!” một cậu bé người Pháp nói. Cậu bé cao và gầy, với mái tóc xoăn
thành lọn màu vàng. “Tại sao lúc nào cậu cũng thích chạy trước thế?”
“Tớ
xin lỗi, Gerard. Tớ đã không tự chủ được. Tớ không cố ý... Ôi...” Henri lấy tay
ôm lấy mặt. “Cậu ấy sẽ chết phải không?”
“Không,”
Timoken khẳng định chắc nịch
“Cô
ấy đang mở mắt kìa!” Edern la lên.
Chỉ
trong chốc lát, Isabelle ngồi thẳng dậy. Những lọn tóc ướt xõa xuống mặt, cô bé
trông có vẻ bối rối, cô vẫn không biết mình đang ở đâu và làm sao cô đến được
đây. “Uiiiiiiii!” cô bé rên rỉ, nghiêng người trên tấm nệm.
Những
đứa trẻ càng lùi ra xa hơn, Isabelle bắt đầu nôn ói, chất lỏng màu xanh ấy lại
tuôn xuống nền nhà.
“Chuyện
gì đã xảy ra với mình thế?” cô bé tội nghiệp thút thít.
Phớt
lờ những sinh vật màu xanh đang chết dần dưới chân cậu, Timoken ngồi xuống bên
cạnh cô bé, choàng tay qua vai cô. “Cậu đã bị trúng độc,” Timoken dịu dàng nói.
“Nhưng giờ thì ổn rồi. Cậu đang ở đây với những người bạn.”
Isabelle
nhìn lên. Cô bé cười thật tươi, nụ cười làm khuôn mặt cô nhỏ bừng sáng: “Cậu
chính là cậu bé đã cứu chúng tôi. Chúng tôi cứ nghĩ cậu đã bị lạc đường.”
“Không.
Không phải bị lạc,” Timoken nói. “Tôi không bao giờ bị lạc cả.” Timoken đứng dậy.
Những đứa trẻ khác quây quần bên Isabelle, ai cũng vui mừng và nhẹ nhõm. Cô bé
đứng dậy, cầm tấm mạng nhện lên, nhìn chăm chăm vào những đường tơ lấp lánh.
“Đó
là phép thuật,” Henri nói với cô. “Nó đã cứu chúng ta. Tớ xin lỗi, Isabelle. Tất
cả đều là lỗi của tớ.”
Khi
những đứa trẻ người Pháp trò chuyện rôm rả với nhau, những đứa trẻ người Anh đi
tìm thức ăn. Chúng đã ăn hết một lát bánh mì trên bàn.
“Tôi
sẽ đi đến căn nhà lớn ở đằng kia,” Timoken nói với chúng. “Những người dân làng
có lẽ đang ở đó.”
“Không!”
một đứa bé trai lắc đầu. Cậu ta già dặn hơn và trông cao lớn hơn những đứa trẻ
còn lại. Tóc của màu vàng, nó màu nâu đậm. Có lẽ cậu bị bắt cóc vì màu mắt; mắt
cậu xanh màu xanh thật mờ ảo.
“Tại
sao chúng ta không nên đến đó, Mabon?” Edern hỏi.
“Trong
căn nhà đó... trong căn nhà đó chỉ toàn người chết thôi,” Mabon mạnh dạn nói.
“Chúng tôi đã đi đến đó trước tiên vì nghĩ rằng những vị trưởng lão sẽ ở trong
ngôi nhà lớn nhất.”
“Tất
cả đều đã chết ư?” Timoken thì thầm
“Tất
cả,” Mabon nói.
“Có
thể, họ đến tìm trưởng làng để xin lời khuyên cho căn bệnh của mình,” Peredur
nói.
Timoken
cúi đầu. Cậu thấy đầu mình trở nên nặng nề. “Vậy là đã quá muộn.”
Bọn
trẻ đã tìm thấy được một ít đậu khô và một số rau củ. Chỗ thức ăn đó có lẽ sẽ đủ
cho tất cả mọi người, nhưng ở đây không có gì để uống cả, chúng không dám dùng
nước từ cái máng để nâu ăn.
“Trời
sẽ mưa thôi,” Timoken nói. “Hãy mang tất cả các bình nước, thau chậu, và cả những
chiếc cốc ra ngoài. Chúng ta sẽ có nước.”
Bọn
trẻ nhìn Timoken hoài nghi, nhưng trước khi chúng cất tiếng hỏi, Edern giục:
“Nhanh lên nào, mọi người. Các cậu nghe Timoken nói rồi đấy. Trời sẽ mưa.”
Tất
cả im lặng một lúc, sau đó, mọi người mang tất cả những vật có thể đựng nước ra
ngoài. Họ đi theo Timoken, tay cầm bình, lọ, cốc, chúng há hốc mồm nhìn cậu bé
người Châu Phi vung áo choàng mặt trăng lên trời và những hạt mưa bắt đầu rơi
xuống từ bầu trời tối đen, làm đầy tất cả các vật đựng nước. Khi trời đang mưa,
Timoken chạy vào những nhà khác để lấy thêm bình đựng nước. Cuối cùng, cậu cũng
tìm thấy các thứ mình cần - một cái vạc to. Cậu mang cái vạc đến trước cửa một
cái chuồng và gọi Gabar.
“Tôi
tưởng cậu quên tôi rồi chứ,” con lạc đà càu nhàu khi đi đến cái chuồng.
“Nhanh
lên, vào trong đi, Gabar,” Timoken ra lệnh. “Nếu không thì ngươi sẽ lại phàn
nàn vì ta làm ướt ngươi. Khi cái vạc này đầy, ngươi chỉ việc cúi đầu vào và uống
nước thôi.”
“Tốt
lắm,” Gabar nói và thả lỏng người trong cái chuồng thấp mái. “Cảm ơn Gia đình
nhé!”
Khi
Timoken quay lại căn nhà, cậu thấy bọn trẻ đang bắt đầu đặt nồi lên bếp lửa nấu
nướng. Khi cậu đến gần bọn trẻ, cậu chợt nhận ra rằng, những đứa trẻ này đã biết
tất cả những bí mật của cậu, cậu nhớ lại lời căn dặn của chị minh. Nhưng làm
sao cậu có thể giữ bí mật chứ? Nếu là chị, chị sẽ làm gì, Zobayda? Timoken tự hỏi.
Một cơn đau nhói chạy từ ngón tay đeo nhẫn của cậu, lên đến cánh tay cậu và đi
thẳng vào tim. Chỉ có một đứa trẻ trông thấy cậu rung lên.
“Có
chuyện gì vậy, Timoken?” cô gái trong lồng hỏi cậu. “Cậu bị đau à?”
Cơn
đau ngừng hẳn sau vài giây, lúc đó Timoken mới có thể trả lời thật lòng: “Không
có gì.”
“Cậu
chắc chứ?” cô bé chạm vào cánh tay cậu. Trong căn phòng tràn ngập ánh nến, đôi
mắt của cô có màu tím phơn phớt xanh thẫm. Cô ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ, nhưng
trông cô thật xinh đẹp. Chiếc nơ trên tóc cô được làm từ lụa thượng hạng, cậu
còn thấy rằng viền áo của cô được làm bằng vàng. Cô ấy chắc chắn là một người rất
đặc biệt, cậu nghĩ. Khi cậu định hỏi tên, thì cô gái nói: “Tôi tên là Beri.”
Món
súp đặc cũng đã được nấu xong, bọn trẻ chia nó ra từng tô nhỏ, rồi ngồi xúm xít
bên nhau trên hai chiếc ghế dài ở hai bên bàn. Một số đứa đã ăn vội khi còn
chưa kịp ngồi vào bàn.
“Đó
là gì vậy?” Gereint nhìn ra cửa khi nghe một tiếng động.
Timoken
cũng nghe thấy tiếng động đó. Một âm thanh êm êm, nghe như tiếng bước chân kéo
lê trên đất. Theo sau đó là nhiều âm thanh hỗn tạp khác. Then cửa từ từ được nhấc
lên và cánh cửa mở ra.
Một
khuôn mặt già nua xuất hiện. Khuôn mặt đầy những nếp nhănà xương xẩu, đến mức
không thể phân biệt được đó là đàn ông hay đàn bà, nhưng khi người đó đi vào
phòng, rõ ràng, đó là một bà lão. Bên dưới tấm khăn choàng màu xám, lưng bà lão
còng xuống, bộ quần áo bà ta mặc trên người trông như một mảnh vải quấn trên một
khung xương. Gấu váy của bà ta rách bươm, dính đầy bùn đất vì bị kéo lê và giẫm
đạp.
“Những
đứa trẻ kia!” giọng bà ta ồm ồm. “Các ngươi đã chết hay là những con ma?”
“Chúng
tôi chưa chết,” Timoken đứng dậy.
Người
đàn bà già nua nhìn Timoken sợ hãi. “Chính là ngươi!” bà ta nói rõ to. “Ngươi
chính là người ông ta đang tìm kiếm.”
Timoken
rùng mình trước cái nhìn buộc tội của bà lão. “Ai đang tìm kiếm tôi?” cậu hỏi bằng
giọng thật nhỏ.
Đôi
môi khô khốc, nhăn nheo của bà ta rung lên giận dữ, cố phát ra tiếng nói. Cuối
cùng, bà ta cũng nói thành từ: “Bọn phù thủy!” Những từ cuối cùng tuôn ra trong
tiếng khò khè hổn hển trước khi bà ta ngã xuống đất.