Vương Quốc Bí Ẩn - Chương 17

Chương
17: Lâu Đài Vàng

Khi
hai chị em Timoken đi ra vườn, họ được chào đón bằng những tiếng reo hò nồng
nhiệt. Những đứa bé trai quây quần xung quanh họ, từng người một, đứng ra giới thiệu
mình với Zobayda, nụ cười của cô càng lúc càng tươi hơn. Rồi sau đó cô nhìn thấy
Beri ngồi một mình trên hòn đá.

“Vậy
còn cô bé này là ai?” Zobayda hỏi, nhìn về phía Beri.

“Một
cô gái dũng cảm đến từ Toledo,” Timoken nói.

“Ta
đã từng gặp qua cô thì phải,” Zobayda hỏi.

“Vâng,”
Beri đứng dậy. “Cha tôi đã đưa tôi đến đây... để mua một con búp bê.”

“Cha
cô,” Zobayda cau mày. Giờ thì cô đã nhận ra cô bé. “Ta xin lỗi.”

“Phải.
Đó là Esteba Diaz,” Beri đan hai tay vào nhau. “Tôi rất mừng khi thấy bà... đã
phục hồi,” cô nói với Zobayda, “nhưng tôi không thể vui cười trong lúc này.” Cô
lướt mắt qua những đứa con trai, rồi đừng lại ở Timoken. “Tạm biệt,” cô nói.
“Chúc cậu nhiều may mắn.” Trước khi mọi người kịp phải ứng, cô nhẹ nhàng bước
ra khỏi cổng và ra đi.

Chỉ
một lúc sau khi Beri đi khỏi, hai người đàn ông trong trang phục chỉnh tề đến
trước cửa.

“Những
đứa trẻ mồ côi nói với tôi rằng bọn xâm lược đã bị đánh đuổi,” người đàn ông trẻ
hơn nói.

“Trẻ
mồ côi

“Thật
buồn khi thấy nhiều đứa trẻ đã trở nên mồ côi trong thành phố,” người đàn ông lớn
tuổi hơn nói. “Cũng không trách được khi cậu không nhận ra chúng, nhưng chúng
là người đã chứng kiến những gì đã xảy ra.”

“Chúng
tôi đến đây để chúc mừng và cũng là để cảm ơn cậu.” Dù đang mặc quần áo chỉnh tề,
nhưng gương mặt của người đàn ông trẻ tuổi nói rằng, ông đã trải qua nhiều cuộc
phiêu lưu. Tóc của ông đen nhánh và xoăn tít, ông ta đeo một chiếc bông tai ở
tai trái. “Tôi tin rằng một người trong số các cậu... làm sao tôi có thể diễn tả
đây... một pháp sư chăng?”

“Em
trai tôi, Timoken.” Zobayda tự hào nâng cánh tay của em mình lên.

Timoken
thật ngạc nhiên khi thấy hai người đàn ông cúi người. Họ tự giới thiệu là
Francisco Padilla, người lớn tuổi hơn trong hai người, và Juan Pizarro. Họ là
những thương nhân giàu có, họ nói rằng, họ sẽ rất lấy làm vinh hạnh khi được
chiêu đãi vị pháp sư và những người bạn của cậu một bữa yến tiệc. Tuy nhiên, mọi
người đang chìm trong nỗi đau mất đi một người lính dũng cảm và đáng tự hào như
Esteban Diaz, thế nên, bản thân họ và những người dân trong thành phố sẽ không
ai đến dự tiệc. “Nhưng tất cả các bạn,” Francisco nói, nghiêng người trước những
người bạn nhỏ, “tất cả sẽ được chiêu đãi những món ăn ngon nhất mà chúng tôi có
và chúng tôi rất vui khi được mòi các bạn nghỉ lại tại nhà tôi, mỗi người sẽ có
một chiếc giường thật êm ái.”

Timoken
cảm ơn Francisco. Cậu rất mong chờ được dự bữa tiệc, nhưng cậu nói, cậu muốn được
ở lại nhà chị mình, tuy nhiên, các bạn cậu - những cậu bé người Anh - họ sẽ tự
mình quyết định.

“Người
Anh?” Juan Pizarro nói, cau mày suy nghĩ. “Đó là cả một quãng đường dài.”

“Bọn
họ đã bị bắt cóc,” Timoken giải thích. “Nhưng họ đang nóng lòng để trở về nhà của
mình, ngay khi có thể, còn tôi thì...” Cậu nhìn Zobayda. “Tôi đã định đi cùng họ,
nhưng giờ thì...”

“Chị
vẫn chưa chán những chuyến phiêu lưu,” Zobayda vui vẻ nói. “Giờ thì không gì có
thể chia rẽ chúng ta nữa.

Cho
tới lúc này, bốn cậu bé người Anh vẫn có vẻ sửng sốt. Timoken nhanh chóng phiên
dịch để họ hiểu câu chuyện. Cậu không thể nhịn cười khi đề cập đến bữa tiệc, mắt
của bốn người bạn của sáng rực lên khoái chí, thậm chí, Mabon còn lấy tay xoa bụng.

Khi
Timoken phiên dịch, Juan Pizarro lấy tay vuốt râu, quan sát: “Tôi có một con
thuyền. Nó sẽ đi về hướng Bắc trong bảy ngày tới. Nó sẽ chở lụa và thảm đến
Anh. Các cậu có thể đi theo con thuyền đó. Nhung các cậu phải rời thành phố vào
sáng sớm mai.”

Khi
Timoken phiên dịch lời của Juan Pizarro, những đứa trẻ reo hò, ôm lấy nhau vui
mừng.

“Những
con ngựa mới sẽ được chuẩn bị sẵn cho các cậu vào ngày mai,” Juan nói. “Các cậu
có thể để nó lại bến cảng và người của ta - Pedro - sẽ đến mang chúng về.”

“Xin
cảm ông,” Timoken ngần ngại nói. “Tôi có một con lạc đà, và tôi không thể để nó
lại đây được.”

“Một
con lạc đà. Phải rồi. Nó đang được chăm sóc trong chuồng của ta.” Juan cau mày,
lại tiếp tục vuốt râu: “Ta sợ rằng thuyền trưởng sẽ không cho phép nó lên tàu.”

“Tôi
sẽ thuyết phục ông ấy,” Timoken nói.

Tối
hôm đó, năm người bạn cùng với Zobayda được tham dự một bữa tiệc lớn đến mức họ
không thể tưởng tượng được. Trên bàn có đầy những hộp chứa trái vả, những thứ
trái cây mà những cậu bé người Anh chưa bao giờ thấy; những đĩa đầy những món
cá lạ, hấp hoặc nướng, đủ loại thịt khác nhau; trứng muối và những miếng phô
mai to quá khổ màu xanh chất đầy xung quanh những khúc bánh mì nâu giòn rụm. Cuối
cùng là món tráng miệng với bánh hạnh nhân và nhiều loại bánh kem đủ mùi vị.

“Những
thức ăn này con ngon hơn những món ăn của hoàng tử nước tôi,” Edern nói, cậu ngắm
nhìn trần nhà được thắp sáng bằng những ngọn nến lung linh. Những bức tường được
trang trí bởi những tấm thảm nhiều màu sắc, trần nhà thì được vẽ bằng những hoa
văn màu đỏ và

“Thật
tốt khi lại được ăn bằng dao và nĩa,” Gereint nói, cậu có vẻ kén chọn hơn những
người bạn của mình.

Mabon
không hề quan tâm đến dao và nĩa. Cậu lấy đầy thức ăn vào cái đĩa bằng đồng của
mình, ăn ngấu nghiến như thể đây là bữa tối cuối cùng của cậu. Mặt đất xung
quanh cậu đầy những xương, xung quanh đĩa của cậu toàn những vụn bánh mì và những
trái cây đang ăn dở. Cậu quyết tâm nếm thử tất cả mọi thứ.

Timoken
trao dổi ánh mắt với chị của mình, cô đang ngồi ngay bên cạnh cậu. Họ vẫn có thể
nhớ rõ những ngày còn ở vương quốc bí ẩn, khi họ được ăn trong đĩa bằng vàng,
và uống nước từ chiếc cốc bằng bạc. Timoken cũng nhớ cả những đêm cùng ăn tối với
những người bạn đồng hành của mình, họ ngồi bên nhau bên đống lửa, ăn những thức
ăn kiếm được trong rừng, khung cảnh quanh họ là bầu trời đầy sao. Cậu tự nhủ với
mình rằng, đó là những bữa tiệc ngon nhất.

Khi
họ đã no căng đến mức không thể ăn được nữa, mắt họ gần như đã nhắm lại, những
đứa trẻ người Anh được dẫn đường đến những chiếc giường đã được chuẩn bị sẵn
sàng. Đó là hai căn phòng lớn, mỗi phòng có bốn chiếc giường. Khăn trải giường
được làm bằng vải lanh thật mịn, những tấm rèm thì được làm bằng lụa.

“Chúng
ta có thể cùng ngủ trên một cái gường,” Edern nói.

Nhưng
những đứa trẻ còn lại đều nói rằng, chúng muốn được ngủ trên chiếc giường thật
to, dù chỉ là một đêm. Vì Edern không phải là đứa ghét chật chội, nên cậu quyết
định ngủ cùng với Mabon, đứa trẻ to lớn nhất trong cả bọn, anh bạn này lẽ ra
nên có hẳn một cái giường riêng.

“Có
lẽ đêm nay tớ sẽ không tài nào chợp mắt được,” Edern thì thầm với Timoken, khi
cậu đi đến để chúc mọi người ngủ ngon. “Hôm nay Mabon ăn quá nhiều, tôi cá là
đêm nay cậu ta sẽ ngáy như sấm.”

Timoken
vẫn thấy buồn cười khi cậu đi về với chị mình.

“Lúc
nào chị cũng mong có một đứa con,” Zobayda nói với em trai. “Nhưng Tariq và chị
không có được may mắn đó. Nhưng giờ chị đã có những năm đứa trẻ để sóc. Chị thật
hạnh phúc.”

“Lẽ
ra sẽ là sáu,” Timoken nói, cậu đang nghĩ đến Beri.

Trước
khi đi, Timoken đến để cảm ơn những người đầu bếp của Francisco Padilla vì những
món ăn thật tuyệt vời, cậu cũng gửi đến chủ của họ những lời chúc tốt đẹp nhất.
“Và còn một điều nữa. Thức ăn vẫn còn thừa quá nhiều; xin các ông hãy mang chỗ
thức ăn ấy cho những đứa trẻ mồ côi trong thành phố.”

“Chúng
tôi sẽ làm những điều tốt nhất cho chúng,” người bếp trưởng nói. “Francisco
Padilla sẽ rất vui khi chấp nhận lời đề nghị của cậu.”

Khi
họ bước ra bầu trời đêm lạnh lẽo, Timoken hỏi: “Zobayda, chị có biết Beri sống ở
đâu không?”

“Tất
nhiên rồi. Mọi người đều biết. Esteban Diaz có một căn nhà rất lớn ở đầu thành
phố?’

“Chị
có thể đưa em đến đấy không?”

“Timoken,”
Zobayda dịu dàng nói. “Không ai đến nhà họ vào lúc này cả. Gia đình họ hẳn là
đang rất đau buồn.”

“Hãy
đưa em đi mà,” Timoken nài nỉ.

Cuối
cùng thì Zobayda cũng đưa em mình đi lên con dốc, đến một căn nhà rộng lớn được
trang trí bằng nhiều bức phù điêu. Timoken đi lên những bậc thang và gõ vào
cánh cửa lớn bằng gỗ sồi. Không có tiếng trả lời. Cậu nghe thấy tiếng khóc từ
sau bức tường dày. Tiếng khóc vang lên từ khắp mọi nơi trong tòa nhà.

“Đi
thôi, Timoken,” Zobayda nói.

Timoken
đứng chờ thêm một lúc nữa, mặc dù cậu biết là đã không còn hy vọng nào nữa. Nhưng
nghĩ đối việc không bao giờ còn gặp lại Beri nữa, cậu thấy thật đau lòng.

“Em
chỉ muốnạm biệt thôi,” Timoken thì thầm, miễn cưỡng rời xa cánh cửa.

Hai
chị em Timoken có quá nhiều chuyện để kể cho nhau nghe, họ chỉ chìm vào giấc ngủ
khi đã quá nửa đêm. Chỉ vài tiếng sau, Timoken nghe thấy tiếng bước chân từ
ngoài sân.

“Cậu
đã sẵn sàng chưa, Timoken?” Edern nói, khi Timoken thò gương mặt ngái ngủ của cậu
ra ngoài cửa. “Những con ngựa đang đợi chúng ta đấy. Những người khác đã lên ngựa
cả rồi, Juan Pazirro cũng đã cho người đi theo chỉ đường cho chúng ta.”

“Chúng
tớ đã nói chuyện,” Timoken dụi mắt. “Ngựa, cậu nói...” Cậu giật mình choàng tỉnh.
“Nhưng còn con lạc đà của tớ, Gabar thế nào rồi? Tối hôm qua, tớ quên mất nó,
có quá nhiều chuyện xảy ra.”

Edern
cười: “Con lạc đà đã được chăm sóc rất tốt. Cậu bé chúng ta gặp ở cổng thành phố
đã chăm sóc cho nó.”

Timoken
quay lại, cậu nhìn thấy Zobayda đang vội vã ném những vật dụng của mình vào
túi.

“Chị
không thể bỏ những món đồ chơi này lại được,” cô nói. “Chị phải đem theo cái gì
đó gợi chị nhớ về Tariq.”

Timoken
kiên nhẫn ngồi nhìn chị mình quấn những con thú vào khăng choàng và váy. Cô bỏ
đồ vào hết túi này đến túi khác. Họ không thể mang nhiều thứ như vậy xuống đường,
nên Timoken chạy đi tìm Gabar, dắt nó đến tận bậc thềm.

Thật
là một cuộc hội ngộ lạ lùng. Zobayda và Gabar nhìn nhau chằm chằm trong chừng một
phút, cho đến khi Zobayda nhẹ nhàng hỏi: “Em có nghĩ là nó nhận ra chị không?”

Gabar
gần như bất động. Không một cơ bắp nào của nó cử động, không một cái vẫy đuôi,
mí mắt cũng không chớp.

“Ngươi
có nhớ Zobayda không?” Timoken hỏi con lạc đà.

“Tôi
vẫn không thể nào quên được,” Gabar nói.

Vớ
tiếng kêu của Gabar như đang chào đón cô. Cô bước xuống bậc thềm, đến gần và
hôn lên mũi con lạc đà, con lạc đà dí mũi vào cổ cô. Dường như họ chưa bao giờ
phải xa nhau.

Họ
đuổi kịp những người khác ở trên cầu, một cuộc hành trình dài nữa lại bắt đầu.

Họ
đến bến cảng chỉ vừa kịp lúc. Hàng hóa đã được chất hết lên tàu từ tối hôm qua,
chuẩn bị sẵn sàng để lên đường vào sáng hôm sau. Người dẫn đường Pedro đi bằng
một con thuyền nhỏ đến gặp người thuyền trưởng, đưa cho ông lá thư đã được đóng
dấu của ông chủ. Cậu ta trở về với một tin tốt và một tin xấu. Người thuyền trưởng
rất vui khi chào đón sáu đứa trẻ và một quý bà lên tàu, nhưng không phải là con
lạc đà, điều đó là không thể. Con lạc đà quá lớn, quá nặng và nguy hiểm.

“Nhưng
nó là một con lạc đà biết nghe lời,” Timoken phản đối.

Pedro
lắc đầu: “Họ không cho phép nó lên tàu.”

Timoken
nhìn Gabar. Không biết nó có hiểu những điều Pedro vừa nói không? Nó không có
biểu hiện gì khác thường cả. Mắt nó lúc nào cũng buồn bã, nó luôn luôn tỏ ra
ngoan ngoãn.

“Tôi
sẽ đảm bảo rằng con lạc đà được đối xử thật tốt,” Pedro trấn an. “Juan Pizarro
sẽ chăm sóc nó thật chu đáo. Nó sẽ có một cuộc sống vui vẻ.”

Timoken
dẫn Gabar đến noi những con ngựa đang được cột. Cậu nhìn con lạc đà uống từng
ngụm nước lớn từ trong máng, cậu rời đi khi Gabar vẫn còn đang quay đi. Cậu
không biết làm cách nào để nói lời từ biệt với người bạn đồng hành của mình trong
suốt hai trăm năm qua.

Trên
thuyền chỉ có một căn phòng duy nhất ở cạnh hầm rượu. Zobayda cố thuyết phục mọi
người rằng, cô có thể ngủ bên những kiện rơm, nhưng cuối cùng thì cô cũng chấp
nhận chiếc gường, những đứa trẻ sẽ ngủ ở kho thóc cạnh cái chuồng.

Timoken
không buồn ngủ. Cậu nằm trên đống rơm, đầu gối lên hai tay. Nhìn ra bầu trời
đêm. Cậu có thể nghe thấy tiếng những con vật đang di chuyên trong chuồng, cậu
nhớ tới Gabar.

Một
cái bóng nhỏ, đang cầm cây đèn, xuất hiện ở cửa, một người nhỏ nhắn, quay lưng
về phía ánh sáng.

Timoken
với tay lấy con dao ở thắt lưng, nhưng một giọng nói dịu dàng vang lên:
“Timoken, mình đây.”

Những
đứa trẻ khác cũng tỉnh dậy. Những chuyến đi nguy hiểm làm mọi người phản ứng
nhanh nhạy với bất kỳ tiếng động nào.

“Ai
đấy?” Peredur nói.

“Là
tôi đây, Beri.”

“Beri?”
Timoken ngồi bật dậy.

Ngọn
đèn được giơ cao lên, Timoken có thể nhìn thấy cô rõ hơn. Cô lại hóa trang
thành một cậu con trai, tóc của cô được giấu sau chiếc nón da.

“Đó
là thỏ rừng nhảy nhót,” Mabon reo lên.

“Thỏ
Rừng!” Gereint cũng reo lên.

“Chúng
ta sẽ lại có sáu người,” Mabon nói như reo. “Chó sói và gấu, cá và Đại bàng...”

“Mặt
trời rực rỡ và thỏ rừng nhảy nhót.” Edern nhổm dậy khỏi chiếc gường rơm, bò lại
chỗ Timoken.

Beri
tiến vào kho thóc, ngồi xuống bên những cậu con trai. “Một người bạn của mình
làm thợ phụ trong nhà bếp của Francisco Padilla,” cô nói. “Cô ấy nói cho mình
biết về con thuyền khi nghe các cậu nói chuyện với nhau. Mình rời thành phố chỉ
một giờ sau các cậu. Ngựa của mình đã về chuồng và bây giờ, mình chả mong muốn
gì hơn là một giấc ngủ.”

“Nhưng
cậu đang rất đau buồn... còn mẹ cậu...”

“Mình
có đến bảy anh chị em, họ có thể làm cho mẹ mình vui vẻ,” Beri thở dài. “Bà ấy
sẽ lại tìm cách gả mình cho một người đàn và nhàm chán. Bà ấy sẽ không nhớ mình
đâu.”

“Tớ
thật sự, thật sự rất vui vì có cậu đi cùng,” Timoken nói và cười thật tươi dưới
ánh đèn lồng, Beri cũng phá lên cười.

“Cô
ấy sẽ đi với chúng ta,” cậu nói với những người bạn.

“Hoàng
tử của chúng tôi rất thích những người khách,” Edern nói. “Ngài rất vui khi
chào đón những người khách đến từ khắp mọi nơi. Đặc biệt là cậu, Timoken,” cậu
nói thêm. “Và rồi, dĩ nhiên, chú của tôi, nhà ảo thuật, sẽ vô cùng sung sướng...”

Timoken
đã nghe tất cả những câu nói này, cậu biết rằng Edern chỉ muốn nhấn mạnh với cậu
về sự chào đón nồng nhiệt mà cậu sẽ được nhận ở một vùng đất mới.

Beri
đã quá buồn ngủ. Cô ngáp một cái dài rồi nằm xuống ở một bụi rơm cuối kho thóc.
Cô ngủ ngay khi vừa đặt lưng xuống.

Timoken
biết mình sẽ không bao giờ ngủ được khi chưa hoành thành xong nhiệm vụ, nó đã
trở thành một thói quen không thể bỏ. Cậu đứng dậy và đi ra ngoài. Cậu có thể
nghe thấy tiếng sóng biển dào dạt vỗ bờ. Đi ra vùng vịnh, cậu có thể trông thấy
rõ con tàu lớn, cậu thấy lòng mình thật nôn nao. Cậu đi vào trong chuồng. Gabar
đang nằm ngay phía sau cửa, như thể nó đang chờ đợi một người. Timoken ngồi xuống
bên cạnh nó.

“Gabar,
ngươi còn thức không?”

“Tôi
vẫn chưa ngủ.”

“Ta
là một tên hèn nhát phải không. Ta đã không thể nói lời tạm biệt.”

“Tạm
biệt ư?” Gabar cúi đầu.

“Họ
nói rằng họ không thể cho ta đem ngươi đi Anh. Chúng ta phải lên một con tàu và
nó thật nguy hiểm khi dắt theo một con lạc đà.”

“Tôi
hiểu rồi,” Gabar nói. “Tôi chỉ là một con lạc đà. Tôi không thể giúp được nhiều
cho cậu như những con chim hay bá không cần tôi nữa.”

“Gabar!”
Timoken tha thiết nói. “Ngươi vẫn giúp ta mỗi ngày trong suốt cả cuộc đời. Nếu
không có ngươi, ta chỉ muốn chết thôi.”

Gabar
nhìn Timoken. Nó có phải đang cười không? Nhưng chắc chắn nó đã chảy nước mắt.

“Ta
thật là một người ngu ngốc!” Timoken khóc và đứng dậy. “Ta không thể bỏ ngươi lại
được. Ta sẽ không làm thế. Chúng ta sẽ cùng bay. Ngươi nghĩ sao nào?”

“Tôi
nghĩ chúng ta sẽ cùng bay,” Gabar nói.

“Đó
là cả một đoạn đường dài... bay qua cả đại dương...”

Gabar
ngẩng đầu lên và đứng dậy: “Tôi đã sẵn sàng.”

“Không
phải bây giờ,” Timoken nói, cười vang.

“Sắp
rồi phải không?”

“Sắp
rồi.”

Họ
cùng nằm bên nhau bên đống rơm, cậu bé và con lạc đà của cậu, cuối cùng thì
Timoken cũng chìm vào giấc ngủ.

Những
người còn lại trông có vẻ lo lắng khi Timoken nói cho họ nghe về kế hoạch của
mình vào sáng hôm sau.

“Đại
dương mênh mông lắm,” Edern nói. “Cậu sẽ rơi xuống mất. Cậu sẽ chết chìm.”

“Cậu
ấy sẽ không ngã đâu. Cậu ấy cũng sẽ không chết chìm,” Zobayda nói. “Timoken và
ta đi xa hơn cả đại dương rộng lớn nhất. Vì thế, ta tin tưởng em mình.”

Thế
là tất cả đều đồng ý. Trước khi Edern bước lên tàu, cậu miêu tả từng chi tiết một
về lâu đài của hoàng tử. Đó là tòa nhà cao nhất ở phía tây nước Anh, nó có màu
hoàng kim. Ngọn đồi bên dưới tòa lâu đài được bao phủ bỏi một rừng cây ba. Rừng
cây có thể có màu đỏ hoặc màu vàng, tùy vào mùa trong năm.

Timoken
nghĩ đến vương quốc bí ẩn. Cậu nhìn những người bạn của mình lên thuyền, khi
con thuyền kéo mỏ neo lên, cậu cũng trèo lên con lạc đà của mình. Cậu nắm lấy túm
lông bờm xờm ở sau lưng Gabar, hô lên: “Lên nào, Gabar! Lên nào!”

Con
lạc đà bay lên không trung nhẹ nhàng như một con chim. Họ bay lên trên con tàu,
thỉnh thoảng họ cũng bị mất dấu con tàu vì những đám mây dày, thỉnh thoảng, họ
lướt trên bọt sóng ngay bên cạnh con tàu. Vào ban đêm, họ nhìn xuống để ngắm
nhìn những chiếc đèn lồng được thắp trên boong tàu. Thỉnh thoảng, Timoken cũng
cảm nhận được ba đôi mắt đẹp, màu vàng đang nhìn về phía cậu. Và cậu thấy một đốm
màu đỏ như mặt trời, một đốm màu cam như ngọn lửa và một đốm màu vàng như ngôi
sao.

“Ta
tự hỏi làm sao chúng có thể lên tàu được,” Timoken nói, mỉm cười một mình.

Tòa
lâu đài không xa bờ biển là mấy, vị thuyền trường cho tàu cập bến ở nơi gần nhất
có thể, rồi ông còn cho hai người thủy thủ khỏe mạnh đưa họ vào bờ bằng thuyền
nhỏ.

Timoken
nhìn chị cậu và những người bạn đi đến bãi biển từ trên cao. Khi họ bắt đầu đi
vào đất liền, cậu bay liền theo sau, và rồi, cậu bay lên trước. Ngay khi cậu đến
ngọn đồi nhô lên giữa rừng cây mùa thu. Trên đỉnh đồi là một tòa lâu đài. Một
toà lâu đài xây bằng vàng giữa biển.

“Chúng
ta tới nơi rồi, Gabar,” cậu reo lên mừng rỡ.

“Đây
là đâu, Timoken?”

“Nhà
của chúng ta,” Timoken nói.

HẾT

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3