Người giúp việc - Chương 13-P1

TUẦN TIẾP ĐÓ, ba người chúng tôi lại ngồi đúng vị trí cũ
trong căn phòng khách nhỏ ấm cúng nhà Aibileen. Minny sồng sộc bước vào, giọng
dịu dần khi kể chuyện cho Aibileen nghe, sau đó lại lao đi trong giận dữ sôi
sục, nhanh không kém gì lúc đến. Tôi cố gắng ghi lại chi tiết: hết mức có thể.

Có những lúc Minny vô tình hở miệng nhắc đến Celia - “Cô ta
lẻn lên gác, tưởng cháu không nhìn thấy, nhưng cháu biết, mụ đàn bà điên khùng
ấy đang làm chuyện gì mờ ám lắm” - cô lập tức im bặt, y như Aibileen khi bác ấy
nói tới Constantine. “Đấy không phải là chuyện tôi muốn nói. Cô bỏ ngay cô
Celia ra cho tôi.” Cô săm soi tôi cho đến khi tôi ngừng viết.

Ngoài nỗi căm hờn dành cho người da trắng, Minny rất thích
nói về chuyện nấu nướng. “Này nhé, cháu bỏ đỗ xanh vào trước, tiếp đến cháu cho
sườn vào đảo, chà chà, cháu thích xào sườn cho thật nóng, cô biết rồi đấy.”

Một hôm, cô đang kể, “… một tay cháu cắp đứa bé da trắng,
đậu xanh trong nồi thì...” đột nhiên cô ngưng bặt, hất hàm về phía tôi, bàn
chân gõ gõ xuống sàn.

“Phân nửa những chuyện này đều chẳng có liên quan gì đến
quyền lợi của người da màu cả. Rặt những công việc hàng ngày.” Cô nhìn tôi từ
đầu đến chân. “Xem ra cô đang viết truyện đời thì phải.”

Tôi dừng bút. Cô ấy nói đúng. Tôi chợt nhận ra đó chính là
điều tôi muốn làm. Tôi đáp, “Tôi hy vọng thế.” Cô đứng dậy và nói cô còn nhiều
việc quan trọng cần làm hơn là những thứ tôi hy vọng.

BUỔI TỐI HÔM SAU, lúc tôi đang ngồi làm việc trên phòng, tay
lọc cọc gõ lên chiếc máy chữ Corona thì đột nhiên nghe thấy tiếng mẹ chạy rầm
rập lên cầu thang. Chỉ sau có hai giây, mẹ đã đứng trước cửa phòng tôi. Mẹ thì
thào, “Eugenia!”

Tôi đứng phắt dậy, nhanh đến nỗi chiếc ghế rung lên lập bập,
cố gắng che đi những đoạn văn tôi đang đánh máy dở “Dạ vâng?”

“Đừng cuống nhé, nhưng ở dưới nhà có một anh chàng một anh
chàng rất cao - muốn gặp con đấy.”

“Ai ạ?”

“Anh ta nói tên anh ta là Stuart Whitworth?

“Gì ạ?”

“Anh ta nói các con đã gặp nhau một tối cách đây ít lâu,
nhưng làm sao có chuyện đó được, mẹ chẳng biết gì cả..,”

“Lạy Chúa.”

“Đừng có lôi Chúa ra vô ích, Eugenia Phelan. Tô ít son nhanh
lên.”

“Mẹ tin con đi,” tôi nói, dù vẫn bôi son lên môi. “Đến Chúa
cũng chẳng ưa nổi anh ta đâu.”

Tôi chải lại tóc vì biết trông nó khiếp lắm. Tôi còn rửa
sạch những vết mực máy chữ và bút xóa dính đầy trên hai bàn tay và khuỷu tay.
Nhưng tôi không thay đồ, không phải lễ nghi với kẻ như anh ta.

Mắt mẹ quét khắp lượt chiếc quần yếm cùng cái áo sơ mi trắng
cũ mèm của bố mà tôi đang mặc trên người. “Anh ta là người họ Whitworth ở
Greenwood hay Natchez?”

“Anh ta là con trai ngài nghị sĩ bang.”

Mồm mẹ há hốc ra thảng thốt, cằm dễ phải chạm đến chuỗi hạt
đeo trên cổ. Tôi bước xuống cầu thang, đi qua những tấm ảnh chân dung chụp hai
anh em hồi bé treo dàn hàng. Ảnh của Carlton xếp thành một đường ngang trên
tường, bức mới nhất có lẽ vừa được chụp hôm kia. Còn tôi chỉ có ảnh đến lúc lên
mười hai. “Mẹ, mẹ để bọn con nói chuyện riêng một chút nhé.” Tôi nhìn mẹ chậm
chạp lê bước trở về phòng của bà, còn cố quay lại nhìn vớt một lần cuối trước
khi biến mất hẳn.

Tôi bước ra ngoài, và anh ta ở đó. Ba tháng sau cuộc hẹn, và
kia, chính là Stuart Whitworth, đứng trên hiên trước nhà tôi trong chiếc quần
kaki và áo khoác xanh lơ cùng một cái cà vạt đỏ như thể đã sẵn sàng cho một bữa
tối ngày Chủ nhật.

Đồ khốn.

“Cái gì đã đưa anh đến đây vậy?” Tôi hỏi nhưng không cười.
Tôi không cười với anh ta.

“Tôi chỉ... tôi muốn ghé qua.”

“Ra thế. Để tôi hầu anh chút gì lót giọng nhé?” tôi hỏi mỉa.
“Hay tôi mang cho anh cả chai Old Kentucky luôn cho tiện?”

Anh ta cau mày, mũi và trán hồng rựng lên, như thể vừa phải
làm việc dưới nắng. “Cô nghe này, tôi biết chuyện xảy ra... cũng đã lâu rồi,
nhưng tôi vẫn muốn đến đây để xin lỗi.

“Ai bảo anh đến đây - Hilly à? Hay William?” Trên hiên nhà
kê tới tám cái ghế bập bênh còn trống, nhưng tôi không mời anh ta ngồi vào cái
nào cả.

Anh ta đưa mắt nhìn ra cánh đồng bông phía tây, nơi mặt trời
đang chìm dần xuống đất. Anh ta đút hai tay vào túi quần trước như một thằng bé
mười hai tuổi. “Tôi biết hôm đó mình đã cư xử... rất thô thiển, và tôi cũng đã
nghĩ về chuyện đó rất nhiều và...”

Tôi cười phá lên. Tôi quá xấu hổ khi anh ta dám vác mặt đến
đây và khơi lại những chuyện cũ.

“Cô nghe tôi đi,” anh ta nói, “tôi đã bảo chị Hilly cả chục
lần là tôi chưa sẵn sàng để hẹn hò. Thực ra là tôi rất không sẵn sàng...”

Tôi nghiến răng. Tôi không thể tin nổi sống mũi mình đang
cay xè; cuộc hẹn đã lùi xa hàng mấy tháng trời kia mà. Nhưng tôi vẫn nhớ tối
hôm đó mình đã cảm thấy bị rẻ rúng biết chừng nào, tôi đã cố gắng chải chuốt ăn
diện đến nực cười, chỉ vì anh ta. “Đã thế anh còn vác mặt đến làm gì?”

“Tôi không biết.” Anh ta lắc đầu. “Cô biết tính Hilly rồi
đấy .”

Tôi đứng đó chờ nghe bất cứ lý do gì khiến anh ta đến đây.
Anh ta lùa tay qua mái tóc nâu nhạt. Tóc anh ta dày quá, nom gần như rễ tre.
Trông anh ta thật mệt mỏi.

Tôi nhìn lảng đi chỗ khác vì anh ta dễ thương quá, kiểu dễ
thương của một thằng bé già tuổi và đó không phải là điều tới muốn nghĩ đến
ngay lúc này. Tôi muốn anh ta đi về - tôi không muốn nếm trải lại cảm giác ê
chề này một lần nữa, song tôi lại nghe thấy chính giọng mình nói, “Chưa sẵn
sàng, ý anh là sao?”

“Chỉ là chưa sẵn sàng thôi. Sau những gì vừa xảy ra.”

Tôi nhìn anh ta chằm chằm. “Anh còn muốn tôi phải đoán ư?”

“Tôi và Patricia van Devender. Chúng tôi đính hôn năm ngoái
và sau đó... tôi tưởng cô biết rồi.”

Anh ta gieo mình xuống một chiếc ghế. Tôi không ngồi xuống bên
cạnh anh ta nhưng cũng chẳng đuổi anh ta về.

“Sao, cô ấy bỏ anh đi với người khác à?”

“Trúng rồi đấy.” Anh ta úp mặt lên hai tay, rền rĩ. “So với
những chuyện vừa xảy ra, thgọi là một bữa đại tiệc Mardi Gras mới xứng tầm.”

Tôi không dám cho phép mình nói ra điều mình muốn, rằng dù
cô ta có làm gì đi chăng nữa, thì có lẽ cũng đáng đời anh lắm, song trông anh
ta khổ sở quá. Giờ đây, khi tất cả những cuộc trò chuyện anh anh chú chú sặc
mùi rượu mạnh đã bốc hơi hết, tôi bỗng tự hỏi phải chăng lúc nào anh ta cũng
thảm hại như thế.

“Chúng tôi đã yêu nhau từ hồi mười lăm tuổi. Cô biết cảm
giác thế nào rồi đấy, khi mình gắn bó với một người duy nhất trong khoảng thời
gian dài đến vậy.”

Tôi không biết tại sao mình lại thú thực, trừ việc tôi chẳng
còn gì để mất cả. “Thành thật mà nói, tôi không biết,” tôi nói. “Tôi đã yêu ai
bao giờ đâu.”

Anh ta ngước lên nhìn tôi, gần như bật cười. “Đấy, chính là
cái đấy.”

“Cái đấy là cái gì?” Tôi gồng mình lên, nhớ lại chuyện phân
bón và cái máy kéo.

“Cô rất... khác. Tôi chưa bao giờ gặp ai dám nói thẳng những
gì họ đang nghĩ trong đầu. Đúng hơn là chưa gặp phụ nữ nào như thế.”

“Tin tôi đi, tôi còn rất nhiều điều muốn nói nữa cơ.”

Anh ta thở dài. “Khi thấy khuôn mặt cô, lúc cô đứng cạnh
chiếc xe tải... tôi không phái người như thế. Tới thật sự không thô lỗ đến
thế.”

Tôi nhìn lảng đi chỗ khác, thẹn thùng. Tôi bắt đầu xiêu lòng
bởi những gì anh ta nói, rằng mặc dù tôi khác biệt, song có lẽ không phải theo
kiểu kỳ quặc hay bất bình thường của những đứa con gái cao kều. Mà là theo chiều
hướng tích cực.

“Tôi ghé qua để hỏi xem cô có muốn vào thị trấn ăn tối với
tôi không. Chúng ta có thể nói chuyện một chút,” anh ta nói và đứng dậy. “Lần
này chúng ta có thể... tôi không biết, lắng nghe đôi bên chẳng hạn.”

Tôi đứng đó, sững sờ. Đôi mắt anh ta xanh biếc, trong veo,
và đóng đinh lên tôi như thể câu trả lời của tôi thực sự rất quan trọng đối với
anh ta. Tôi hít vào một hơi thật sâu, dợm miệng đáp có o vì cớ gì một đứa như
tôi lại nỡ từ chối kia chứ - còn anh ta cắn môi, chờ đợi.

Và đột nhiên tôi nhớ ra anh ta đã đối xử với tôi như cỏ rác.
Anh ta đã nốc rượu như điên, quá ngán ngẩm vì bị gán ghép với tôi. Tôi nhớ tới
lúc anh ta nói người tôi có mùi phân. Tôi đã mất trời mới thôi không nghĩ về
lời bình phẩm đó nữa.

“Không,” tôi buột miệng. “Cảm ơn anh. Nhưng tôi thực sự
không thể nghĩ ra điều gì tệ hơn thế nữa.”

Anh ta gật đầu, mắt nhìn xuống chân, rồi chậm chạp bước
xuống bậc thềm.

“Tôi xin lỗi,” anh ta vừa nói, vừa mở hé cánh cửa xe. “Tôi
đến cốt để nói vậy và, đấy, tôi nghĩ mình đã nói xong rồi.”

Tôi đứng trên hiên nhà, lắng nghe những âm thanh xôn xao của
buổi tối, tiếng sỏi lạo xạo dưới bàn chân Stuart, mấy con chó chạy trong ánh
chiều chạng vạng. Trong phút chốc, tôi bỗng nhớ tới Charles Gray, nụ hôn duy
nhất trong đời tôi từng được nếm. Tôi đã đẩy anh ấy ra, chẳng hiểu vì đâu tôi
đã tin chắc rằng nụ hôn đó không phải dành cho mình.

Stuart ngồi vào xe và cánh cửa đóng sập lại. Anh ta chống
tay lên, khuỷu tay chìa hẳn ra ngoài cửa sổ để ngỏ, song mắt vẫn nhìn xuống.

“Chờ một chút,” tôi hét lên. “Để tôi mặc thêm cái áo len
đã.”

CHẲNG AI BẢO CHÚNG TÔI, những cô gái hiếm khi hẹn hò, rằng
cảm giác khi nhớ lại cũng ngọt ngào không kém gì thực sự nếm trải những gì đã
xảy ra. Mẹ hì hục leo lên tận tầng ba và đứng bên giường tôi, nhưng tôi vờ như
đang ngủ. Vì tôi chỉ muốn nhớ thêm một chút nữa.

Hôm trước, chúng tôi đã lái xe đến khách sạn Robert E. Lee
để ăn tối. Tôi mặc chiếc áo len màu xanh lơ và một cái chân váy bó màu trắng.
Thậm chí tôi còn để mẹ chải tóc cho mình, cố bỏ ngoài tai những lời căn dặn rắc
rối, phức tạp của mẹ.

“Nhớ phải cười nhiều vào. Đàn ông không thích mấy cô cứ suốt
ngày ủ ê sưng sỉa lên đâu, mà đừng có ngồi ệnh ra như bọn da đỏ, nhớ bắt
chéo...”

“Mẹ, bắt chéo chân hay mắt cá...”

“Mắt cá chân. Ngần ấy nghi thức học ở lớp cô Rheimer mà con
chẳng chịu nhớ tí gì à? Đừng ngại nói dối cậu ấy là Chủ nhật nào con cũng đi lễ
nhà thờ, và làm gì thì làm, đừng nhai đá viên ngay trước mặt người ta, mất lịch
sự lắm. À, mà khi nào câu chuyện có vè loãng, thì con hãy kể cho cậu ta nghe về
ông anh họ xa của con, cái cậu đang làm ủy viên hội đồng thành phố ở Kosciusko
ấy...”

Vừa miệt mài chải vàải và vuốt, mẹ vừa luôn miệng lục vấn,
hỏi tôi gặp anh ấy như thế nào rồi đã có chuyện gì xảy ra trong lần hẹn trước,
song tôi đã kịp lỉnh đi và phi xuống tầng dưới, chính tôi cũng run bần bật vì
kinh ngạc và lo lắng. Đến khi tôi và Stuart vào đến khách sạn, ngồi xuống ghế
và trải khăn ăn lên đùi, thì người bồi bàn nói họ sắp đóng cửa. Họ sẽ chỉ phục
vụ chúng tôi món tráng miệng.

Stuart bỗng đâm ra trầm tư.

“Em... muốn gì, Skeeter?” Anh hỏi còn tôi gần như muốn toát
mồ hôi hột, hy vọng anh ấy không định nốc say bí tỉ như lần trước.

“Em uống Co-Cola. Nhiều đá.”

“Không.” Anh ấy cười. “Ý anh là... trong đời em cơ. Em mong
muốn gì?”

Tôi hít một hơi thật sâu, tôi biết nếu là mẹ, mẹ sẽ khuyên
tôi đáp là: những đứa con ngoan ngoãn, khỏe mạnh, một người chồng để yêu thương
chăm sóc, những món đồ gia dụng mới tinh bóng loáng để tôi có thể nấu những bữa
ăn ngon lành, bổ dưỡng. “Em muốn theo nghiệp viết lách,” tôi đáp. “Nhà báo.
Hoặc có thể là nhà văn. Hoặc cả hai.”

Anh ngước lên và nhìn tôi, mắt đối mắt.

“Anh thích thế,” anh nói và rồi cứ nhìn tôi trân trân như
vậy. “Anh đã nghĩ đến em rất nhiều. Em thông minh, em xinh đẹp, em...” - anh
cười - “...cao.”

Xinh đẹp?

Chúng tôi ăn bánh kem dâu và mỗi người uống một ly Chablis.
Anh ấy nói cho tôi nghe làm cách nào để biết có mạch dầu bên dưới một cánh đồng
bông, còn tôi kể bà tiếp tân và tôi là hai người phụ nữ duy nhất ở tòa báo.

“Anh hy vọng em sẽ viết được một tác phẩm thật hay. Về điều
gì đó em thực sự tin tưởng.”

“Cảm ơn anh. Em... cũng mong thế.” Tôi không đả động gì đến
Aibileen hay bà Stein.

Tôi hầu như chưa có cơ hội được nhìn sát tận mặt mấy người
đàn ông và tôi nhận thấy da anh ấy dày hơn da tôi và hao hao màu vỏ bánh mì
nướng rất đẹp; những sợi lông hoe vàng cứng đơ trên má và cằm anh ấy dường như
đang đâm lên từ từ ngay trước mắt tôi. Người anh ấy tỏa ra mùi bột hồ. Như gỗ
thông vậy. Và mũi anh ấy cũng đâu có nhọn lắm.

Người bồi bàn đứng ở góc phòng ngáp ngắn ngáp dài, nhưng cả
hai chúng tôi đều lờ tịt anh ta và cố ngồi nán lại để chuyện trò thêm. Và đến
lúc tôi thầm ước giá như sáng nay mình chịu gội đầu thay vì chí tắm qua quít và
cảm thấy may mắn vô cùng vì ít ra mình cũng đã đánh răng, thì đột nhiên, anh ấy
hôn tôi. Ngay giữa nhà hàng khách sạn Robert E. Lee, anh ấy hôn tôi thật chậm
bằng khuôn miệng rộng mở và từng tế bào trong cơ thể tôi - da, xương đòn gánh,
xương kheo, tất thảy mọi bộ phận trên người tôi, đều ngập chìm trong ánh sáng.

VÀO MỘT BUỔI CHIỀU THỨ HAI, vài tuần sau cuộc hẹn với
Stuart, tôi ghé qua thư viện trước khi tới cuộc họp của Hội phụ nữ. Bên trong
tòa nhà sực lên thứ mùi gây gây như ở trường tiểu học - mùi buồn chán, mùi hồ
dán, và mùi những bãi nôn ọe được tẩy bằng Lysol. Tôi đến để lấy thêm sách cho
Aibileen, tiện thể tìm xem đã có cuốn sách nào về người giúp việc trong gia
đình từng được xuất bản chưa.

“Ồ kìa, chào cậu, Skeeter!”

Lạy Chúa tôi. Đó là Susie Pernell. Hồi còn ở trung học, chắc
cô ta phải được bầu là đứa lắm mồm nhất trường. “Chào... Susie. Cậu làm gì ở
đây thế?”

“Tớ trực ở đây cho ban chấp hành Hội, nhớ không? Lúc nào đó
cậu cũng thử làm mà xem, Skeeter, vui lắm ấy! Cậu được đọc tất cả tạp chí số
mới nhất, rồi sắp xếp giấy tờ, lại con được ép cả thẻ thư viện nữa chứ.” Susie
ra sức tạo dáng bên chiếc máy màu nâu khổng lồ, làm như cô nàng đang tham gia
chương trình Hãy chọn giá đúngtrên tivi không bằng.

“Hay quá nhỉ.”

“Vậy, tôi có thể giúp cô tìm gì đây, thưa quý cô? Chúng tôi
có truyện trinh thám, tiểu thuyết lãng mạn, sách hướng dẫn trang điểm, sách
hướng dẫn làm tóc,” cô ta ngừng nói, đoạn rặn ra một nụ cười toe toét, “trồng
hoa hồng, trang trí nhà cửa...”

“Tớ chỉ định ngó nghiêng tí thôi, cảm ơn cậu nhé.” Tôi vội
đánh bài chuồn. Tôi sẽ tự biết cách xoay xở. Làm sao tôi có thể nói hở cho cô
ta biết mình đang tìm gì. Ngay lúc này đây tôi đã có thể nghe thấy tiếng cô ta
xì xào trong buổi họp mặt Hội, Em biết ngay con bé Skeeter Phelan đấy có vấn đề
mà, nó đang kiếm tư liệu về người da màu đấy...

Tôi săm soi mấy quyển danh mục sách và lướt qua các kệ giá,
nhưng không tìm thấy gì liên quan đến người giúp việc. Ở gian sách nghiên cứu,
tôi nhác thấy một quyển Frederick Douglass, người nô lệ Mỹ. Tôi vồ lấy, háo hức
muốn đưa cho Aibileen ngay, nhưng khi giở ra, tôi thấy phần giữa đã bị xé mất.
Trong ruột, đã có ai đó viết mấy chữ SÁCH MỌI Đ bằng bút sáp tím. Bản thân dòng
chữ không khiến tôi bức bối bằng việc nó được viết với những nét nguệch ngoạc,
trông như chữ của một đứa lớp ba. Tôi ngó nghiêng xung quanh, rồi bỏ tọt quyển
sách vào túi. Như thế xem ra tốt hơn là trả nó lại trên giá.

Trong phòng sách Lịch sử Mississippi, tôi cố tìm thứ gì đó
ít nhiều phản ánh mối quan hệ sắc tộc nhưng chỉ tìm thấy các cuốn sách về nội
chiến, bản đồ, và danh bạ điện thoại cũ. Tôi kiễng chân lên để nhìn xem trên
giá cao có gì. Đó là khi tôi phát hiện ra một cuốn sách nhỏ, nằm ở phía cuối
ngăn trên cùng của giá sách Thống kê các trận lũ tại thung lũng sông
Mississippi. Một người có tầm vóc trung bình chắc sẽ không bao giờ nhìn thấy
được. Tôi lấy xuống để xem bìa. Cuốn sách mỏng dính, in trên giấy vỏ hành, mép
hơi quăn, được đính lại bằng ghim dập. Trên bìa ghi “Tuyển tập các điều luật
Jim Crow của miền Nam.” Tôi bèn lật tờ bìa đầy những chữ đao to búa lớn ấy sang
một bên.

Cuốn sách chỉ đơn giản là một danh sách các điều luật quy
định những gì người da màu được và không được làm, được phân theo các bang miền
Nam. Tôi đọc lướt qua trang đầu tiên, bối rối không hiểu sao nó lại ở đây.
Giọng điệu của các điều luật không hăm dọa, cũng không mời gọi, chỉ đơn thuần
liệt kê sự việc:

Không một ai được quyền đòi bất kỳ nữ y tá da trắng nào phục
vụ trong phòng bệnh hoặc khu bệnh có bệnh nhân người Phi.

Một người da trắng kết hôn với bất kỳ ai thuộc tộc người nào
khác ngoài da trắng đều là trái pháp luật. Bất kỳ cuộc hôn nhân nào vi phạm
điều luật này đều không có giá trị pháp lý.

Không một thợ cắt tóc da màu nào được phép phục vụ các phụ
nữ và trẻ em gái da trắng.

Nhân viên quản trang không được phép chôn bất kỳ người da
màu nào trong khu vực dành riêng cho việc chôn cất người da tráng.

Các loại sách không được phép lưu chuyển giữa các trường da
màu và da trắng, song có thể tiếp tục được tái sử dụng bởi những người cùng sắc
tộc với nhóm người sử dụng đầu tiên.

Tôi đọc qua bốn trong số hai mươi lăm trang, gần như bị thôi
miên bởi ngần ấy điều luật tồn tại chỉia cắt chúng tôi. Người da màu và người
da trắng không được phép dùng chung vòi nước, rạp chiếu phim, nhà vệ sinh công
cộng, sân bóng, bốt điện thoại, rạp xiếc. Người da màu kông được mua thuốc ở
cùng một hiệu thuốc hoặc mua tem ở cùng một ô cửa với tôi. Tôi nhớ đến
Constantine, có lần cả gia đình tôi đưa bác ấy cùng đi lên Memphis và đường cao
tốc khi ấy gần như ngập chìm dưới làn nước lũ, song chúng tôi vẫn phải lái xe
đi tiếp vì biết rằng các khách sạn sẽ không cho bác ấy vào. Tất cả mọi người
trong chúng tôi đều biết những luật lệ đó, chúng tôi sống ở đây kia mà, nhưng
chúng tôi không đề cập đến chúng. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy các
điều luật viết trên giấy trắng mực đen.

Quán ăn trưa, hội chợ, bàn bi a, bệnh viện. Riêng điều luật
bốn mươi bảy tôi phải đọc lại đến lần thứ hai, vì sự trớ trêu của nó.

Ban quản trị phải dành riêng một tòa nhà biệt lập trên một
khu đất biệt lập để những người mù thuộc chủng da màu có thể dễ dàng phân biệt.

Sau vài phút, tôi buộc mình ngừng đọc. Tôi giơ cuốn sách lên
tính cất trở lại giá, tự nhủ rằng mình đâu có định viết sách về luật pháp miền
Nam, đọc thêm cũng chỉ phí thời giờ. Song đột nhiên tôi ngộ ra, như thể có một
lớp vỏ nứt bung ra trong đầu tôi, chẳng có gì khác biệt giữa những điều luật
của chính phủ và việc Hilly xây cho Aibileen một phòng vệ sinh riêng trong
gara, ngoại trừ những chữ ký phê chuẩn của chính quyền bang mà người ta chỉ mất
vỏn vẹn mười phút là ký xong.

Ở trang cuối, tôi đọc được dòng chữ in Tài sản của thư viện
luật bang Mississippi. Cuốn sách đã bị trả nhầm chỗ. Tôi viết nguệch ngoạc khám
phá của mình lên một mảnh giấy và kẹp nó vào giữa cuốn sách: Jim Crow và kế
hoạch xây nhà vệ sinh của Hilly - có gì khác đâu? rồi nhồi nó vào sâu trong
túi. Susie Vita hắt xì hơi sau chiếc bàn kê ở đầu kia gian phòng.

Tôi xoay người đi ra cửa. Tôi có một cuộc họp Hội phải tham
dự trong ba mươi phút nữa. Tôi dành cho Susie một nụ cười thân thiện quá mức.
Cô ta đang thì thầm to nhỏ gì đó trẽn điện thoại. Mấy cuốn sách ăn trộm trong
túi tôi như rung lên, bỏng rẫy.

“Skeeter,” Susie bỗng rít lên, mắt trợn tròn. “Tớ nghe nói
cậuđi chơi với Stuart Whitworth, có thật không?” Cô ta nhấn giọng vào chữ cậu
ghê quá, khiến tôi không tài nào giữ nổi nụ cười của mình nữa. Tôi vờ như không
nghe thấy gì và bước về phía ánh nắng rực rỡ. Đời tôi chưa từng một thứ gì,
trước ngày hôm nay. Tôi khá hả dạ, khi đó lại chính là ca trực của Susie.

CÕI HOAN LẠC của mỗi người chúng tôi rất khác nhau, tôi và
hai cô bạn, âu cũng là điều dễ hiểu. Elizabeth ngày đêm còng lưng trước máy
khâu, cố sao để cuộc đời mình trông như đồ hiệu, không một tì vết. Với tôi là ở
bên chiếc máy chữ, viết ra những áng văn đanh thép sôi sục mà tôi không bao giờ
có đủ can đảm để nói ra thành lời. Và với Hilly là ở sau chiếc bục diễn thuyết,
nói với sáu mươi lăm chị em phụ nữ rằng ba hộp thức ăn mỗi cháu là chưa đủ để
làm no lòng tất cả các PSCA(7). Tức là trẻ em nghèo đói vùng châu Phi. Dẫu vậy,
Mary Joline Walker lại cho rằng ba là quá nhiều.

“Mà làm thế có đắt đỏ quá không, tội gì phải chuyển ngần ấy
hộp thức ăn sang tận Ethiopia?” Mary Joline hỏi. “Ta cứ gửi luôn một tấm séc
sang đó chẳng tiện hơn à?”

 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3