Bí Mật Hồ Cá Thần - Chương 03 - 04
Chương III.
Chúng tôi dậy sớm
hơn mọi ngày. Hai anh em tôi chạy ra sân. Cả xóm trại đã í ới những tiếng đàn
ông gọi nhau. Họ đang khiêng thuyền lên mặt đê để đi xuống đầm nước. Lũ trẻ con
xóm trại như được thông báo trước, cũng kéo nhau lên mặt đê. Cả đầm Vực im
phăng phắc trong buổi sớm mùa hạ.
Những chiếc thuyền
nan đã được hạ xuống nước. Trên mỗi chiếc thuyền lưới đã chất đầy. Tiếng chèo
khỏa nước, người thúc nhau thả lưới làm náo động cả vùng đầm. Những người đàn
ông xóm trại chia làm bốn nhóm thả lưới thành một vòng tròn rộng bao bọc lấy
lòng đầm. Tiếng gõ vào mạn thuyền đồng loạt vang lên. Tiếng động và lưới quét
làm cho lũ cá mè nhảy lao xao. Vòng khép của lưới mỗi lúc một thu nhỏ lại.
Ở phía bờ đầm sát
chân đê, lũ trẻ chúng tôi đứng tụm vào nhau. Thằng Mên đứng bên cạnh tôi thì thầm:
- Người ta sẽ bắt được
con cá anh nhỉ?
Một đứa trẻ lên tiếng
thách thức:
- Đố mà bắt được nó.
Cá thần chứ có phải thường đâu.
Một đứa khác hỏi:
- Ai bảo mày là cá
thần?
- Bà thằng Mên bảo
thế. Bà nó bảo ở đáy đầm có một bà sư vẫn sống coi chùa.
- Chùa thì có. Bà
tao cũng bảo thế. Nhưng sư thì làm sao mà sống được dưới nước.
Thằng Mên vội nói:
- Bà sư có phép đấy.
Một đứa trẻ hỏi:
- Thế sư và cá thần,
ai giỏi hơn?
- Sư phải giỏi hơn
chứ
Đứa trẻ kia cãi lại:
- Làm sao mà mày biết
được?
- Người thì phải giỏi
hơn. Thế mày có giỏi hơn con dế của mày không?
Cuộc cãi nhau của bọn
trẻ chúng tôi chợt im bặt khi những người săn cá đồng loạt kêu lên. Ở giữa vòng
lưới nổi lên cái đầu con cá như một cái chum sành đựng thóc. Rồi con cá lại từ
từ chìm xuống. Tiếng hò hét, tiếng gõ vào mạn thuyền vang lên dồn dập. Vòng lưới
dày đặc rùng rùng thu nhỏ lại.
- Kéo lưới!
Lão Bương gào lên ra
lệnh. Tất cả đàn ông trên các con thuyền đồng loạt kéo lưới, lũ trẻ chúng tôi
như nín thở. Nhưng tay lưới vẫn thấy nhẹ. Khi lưới được kéo lên gần hết thì họ
thấy lập lờ trong lòng lưới một vật gì đó dài và đen như một khúc gỗ.
Một người đàn ông
kêu lên:
- Cẩn thận nó lại giả
vờ chết đấy!
Nhưng cái vật dài và
đen kia không phải con cá mà là một bức tượng phật rêu phủ đầy.
- Phật dưới chùa đấy.
- Bố tôi nói to.
- Mang lên bờ đi.
- Mang làm gì cho tốn
công, vứt lại xuống đầm ấy.
Lúc đó lão Bương đã
áp thuyền sát bức tượng và nói:
- Cho tớ mang về làm
củi đun.
Nói xong lão cầm mái
chèo gõ vào bức tượng gỗ:
- Tượng gỗ mít đây
mà. Củi này còn đượm chán.
Lão Bương sai hai
anh con trai kéo bức tượng lên thuyền và chèo vào bờ. Lũ trẻ chúng tôi chạy ùa
lại xem bức tượng. Bức tượng như vẫn còn nguyên vẹn và phủ đầy rêu. Chỉ có đôi
mắt tượng là rêu không phủ. Tuy đôi mắt tượng đã mờ đi bởi ngâm dưới nước nhiều
năm, nhưng tôi cảm thấy đôi mắt ấy vẫn nhìn được mọi người.
Những người đàn ông
xóm trại bực bội thu lưới và khiêng thuyền vượt qua bờ đê về nhà. Lũ trẻ chúng
tôi hò nhau chạy lên mặt đê. Chúng tôi sung sướng vì lòng tin của chúng tôi đã
đúng. Con cá đó là con cá thần và không ai có thể bắt được.
Khi hai anh em tôi về
đến nhà thì bà tôi đang ngồi im lặng trên chiếc giường tre. Trên bàn thờ, ba
nén hương sắp tàn.
Tôi bảo bà:
- Bà ơi, bố cháu và
các bác không bắt được con cá.
Bà tôi không nói gì,
chỉ khẽ thở dài.
- Nhưng họ kéo được
tượng phật ở dưới chùa bà ạ.
Thằng Mên khoe. Nghe
vậy, bà tôi
- Phật à?
Tôi nói:
- Cháu nhìn thấy cả
mắt Phật. Nhưng cháu sợ lắm, mắt ông ấy như mắt người thật, cháu thấy như là chớp
chớp.
- Đâu rồi? - Bà tôi
vội hỏi - Ông Phật ấy đâu rồi?
- Ông Bương mang về
nhà rồi. - Tôi thưa. - Ông ấy bảo để làm củi.
- Giời phạt! Giời phạt!
Bà tôi kêu lên và đi
như chạy sang nhà ông Bương. Hai anh em tôi chạy theo bà.
Hai anh con trai lão
Bương đang phơi lưới ngoài sân. Ở hiên hè, lão Bương ngồi uống trà và hút thuốc
lào. Thấy bà tôi tất tả vào sân, lão Bương:
- Chào cụ, mời cụ
vào xơi nước.
Bà tôi không đáp lại
lời mời của lão mà gắt hỏi:
- Ông để ngài đâu rồi?
- Ngài nào? A! - Lão
Bương phá lên cười. - Cái khúc gỗ vớt dưới đầm chứ gì. Kia kìa.
Theo tay lão Bương
chỉ, chúng tôi nhận ra bức tượng Phật để nằm ở sát tường bếp. Bà tôi bước lại bức
tượng, giọng bà run rẩy: “Nam mô a di đà phật…”. Đứng sau bà, tôi nhìn vào đôi
mắt phật. Tôi cảm thấy đôi mắt phật chớp chớp.
- Ông cho người trả
lại chùa đi. - Bà tôi nói.
- Ấy thưa cụ, được
khối củi chứ ít à? - Lão Bương lắc lư cái đầu - Chùa ở đâu mà trả, ra bùn cả chứ
còn gì nữa.
Bà tôi nói to:
- Ông cần bao nhiêu
củi tôi đổi cho ông. Tôi mang ngài về, tôi trả lại chùa.
- Ấy, tùy cụ… - Lão
Bương nói, có vẻ tiếc.
Bà tôi nhờ người
mang bức tượng về sân nhà. Bà thắp mấy nén hương trước bức tượng và lầm rầm khấn.
Đến chiều trời nổi
giông và mưa đổ xuống như trút. Sấm nổ inh tai trên nóc nhà. Khi bữa cơm tối muộn
mằn của các gia đình xóm trại đã xong, trời vẫn mưa dữ dội. Mỗi lần chớp lóe
lên thì bức tượng lại hiện ra uy nghi và như đang giận dữ quát mắng. Bà tôi đội
nón, khoác áo tơi lá đi gọi mấy đứa cháu ngoại của bà đến giúp bà. Các anh tôi
xúm nhau vào khiêng bức tượng. Bà sai tôi xách chiếc đèn bão đi theo bà.
Đến bờ đầm, bà sai
các anh đặt bức tượng xuống. Bà chắp tay khấn vái một hồi lâu, rồi cho thả bức
tượng phật xuống đầm.
Trên đường trở về
khi lên đến mặt đê bà tôi dừng lại. Bà tôi đứng im lặng trong mưa nhìn xuống đầm
nước tối đen. Một lát sau bà nói:
- Năm xưa đê vỡ ở chỗ
này đây
Khi bà cháu tôi định
quay về thì tôi nhận ra trên mặt đê phía trước có người qua ánh chớp. Tôi sợ
quá kêu lên:
- Bà ơi! Có người!
- Ai? - Bà tôi hỏi -
Ở đâu?
Tôi chỉ tay về phía
bóng người. Bà tôi cầm lấy đèn bước về phía tay chỉ. Tôi bám chặt sau bà. Khi đến
gần bóng đen, bà tôi giơ cao ngọn đèn. Trong ánh đèn, tôi thấy một người khoác
chiếc áo tơi lá, đội mũ lá, đứng quay về phía đầm Vực. Bà tôi lên tiếng.
- Ai kia? Ma hay người?
Người đó quay lại và
khẽ nói:
- Tôi đây. Tôi là Bộc
đây mà.
- Ông Bộc! - Bà tôi
kêu khẽ - Mưa gió ông ra đây làm gì?
- Tôi… tôi... - Ông
Bộc ấp úng - Tôi định đi soi cá.
Thấy nói đi soi cá,
tôi vội nói:
- Cho cháu đi với,
ông Bộc nhé.
Ông Bộc cười:
- Cháu không đi được
đâu, có ma đấy- Cháu không sợ.
- Bạo nhỉ? - Ông Bộc
nói. - Thôi để hôm khác.
Bà tôi xách đèn bước
lại gần ông Bộc. Tôi thấy ông Bộc lúng túng quay đi.
- Về đi ông. - Bà
tôi nói khẽ.
Ông Bộc im lặng. Một
lát sau ông nói:
- Hai bà cháu về trước
đi.
Tôi nghe thấy bà tôi
khẽ thở dài. Rồi bà bảo tôi:
- Về đi cháu.
Hai bà cháu tôi bước
đi. Được một đoạn, tôi quay lại. Trong ánh chớp của mưa đêm, tôi thấy ông Bộc đứng
đó như một cây dứa dại khô.
Đến khuya thì mưa đột
ngột tạnh hẳn. Mây tan và trăng lên. Tôi tỉnh giấc thấy bà tôi đang ngồi ngoài
hiên nhà. Tôi rón rén chui ra khỏi màn đến bên bà.
- Sao bà không ngủ?
- Tôi thì thầm hỏi.
- Bà nghe thấy tiếng
mõ và tiếng tụng kinh.
Nghe bà nói, tôi ngồi
sát vào bà hơn. Người bà tôi sực mùi trầu quế. Hai bà cháu ngồi im lặng. Đêm im
ắng và xa xăm vô cùng.
Chợt
- Cháu có nghe thấy
gì không?
- Dạ, không.
- Tiếng kêu i i đấy,
nghe thấy không?
Tôi bắt đầu cảm thấy
sợ. Tôi như nín thở và dỏng tai lên. Đêm vẫn im phăng phắc, ánh trăng lành lạnh
vẫn chảy loang trên những vòm lá trong vườn. Bất chợt từ trong đêm, tôi nghe thấy
tiếng “i i” kéo dài từ đâu đó vọng về.
- Cháu nghe thấy… -
Giọng tôi tắc lại. Bà tôi nói nhỏ.
- Tiếng cá thần đấy.
- Cá thần hở bà? Vì
sao nó lại kêu?
Bà tôi nói:
- Chắc có chuyện buồn.
- Cá thần cũng biết
buồn hở bà? - Tôi hỏi lại.
Bà ôm tôi vào lòng.
Mùi trầu quế của bà sực nức làm tôi đỡ sợ. Bà nói:
- Thần cũng buồn cháu
ạ. Có khi thần còn buồn hơn cả người. Vì thần biết nhiều chuyện hơn người.
Tiếng “i i” lại vọng
về và như dài hơn lần trước. Chưa bao giờ, đêm lại huyền bí như bây giờ. Lúc ấy,
tôi chợt lo lắng cho bố tôi. Tôi hỏi:
- Bà ơi, cá thần có
trả thù những người bắt nó không?
- Có. Nếu ai đó cứ cố
tìm cách giết nó. Nhưng cá thần sẽ tha thứ. Thần dễ tha thứ, cháu ạ.
Nghe bà nói vậy, tôi
không còn thấy sợ hãi chút gì nữa. Tôi muốn chạy ra đầm nước để nói với cá thần
hãy tha thứ cho bố tôi và những người đàn ông khác của xóm trại.
- Đi ngủ đi cháu. -
Bà tôi nói và dắt tôi vào giường.
Tôi nằm xuống, không
sao ngủ được. Thằng Mên em tôi đã ngủ say từ tối. Thi thoảng nó lại cười khanh
khách trong mơ.
Thấy tôi chưa ngủ,
bà bảo:
- Ngủ đi cháu.
Tôi xoay về phía bà,
hỏi:
- Bà ơi, ông Bộc ra
đê làm gì thế?
Bà tôi nằm im lặng,
lâu sau bà mới nói khẽ:
- Ông ấy cũng muốn bắt
con cá. Hơn năm chục năm nay rồi, ông ấy tìm cách bắt con cá. Tội nghiệp.
Nghe bà nói, tôi vội
ngồi dậy.
- Sao ông ấy lại tìm
cách bắt con cá? Để làm gì hở bà?
Bà tôi lại thở dài:
- Bà không biết. Cả
làng cũng không ai biết. Mọi người bảo ông ấy lẩn thẩn. Nhưng bà thì không nghĩ
thế. Tội nghiệp. Ngày trước, ông ấy là người có tội.
- Ông ấy có tội hở
bà? Ông Bộc có tội gì hở bà?
- Bà nói ra cháu
cũng chưa hiểu được. Thôi ngủ đi cháu. Bà thì không bao giờ tin ông Bộc có tội.
Tôi nằm xuống. Nhưng
không sao ngủ được. Tôi nghĩ về ông Bộc, và tự hỏi: “Ông Bộc cũng có tội hay
sao?”.
Chương IV.
Ông Bộc là người lớn
tuổi thân thiết của anh em tôi và lũ trẻ xóm trại.
Ông sống độc thân
trong ngôi nhà nhỏ ở cuối xóm. Bà tôi bảo ông chưa bao giờ lấy vợ. Sau ngày hòa
bình 1954, ông bỏ làng đi đâu không biết. Gần mười năm sau ông trở về cất một
túp nhà lá ở cuối xóm, làm nghề đánh cá sông và câu cá đầm Vực nuôi thân.
Buổi sớm, tôi và thằng
Mên mò đến nhà ông Bộc.
Vừa thấy hai anh em
tôi ở đầu ngõ, ông đã lên tiếng:
- Vào đây. Ông vừa
đi bắt ba ba về. Vào đâyo xem này.
Hai anh em tôi xúm
quanh chiếc vại sành lớn đặt ở cạnh bể nước. Trong vại có đến năm, sáu con ba
ba rất lớn. Lâu lắm rồi ông Bộc mới lại đi bắt ba ba. Gần năm nay, ông yếu hẳn
và nhiều lúc cảm thấy sợ nước. Những con ba ba to gần bằng cái mũ cắt nằm chồng
lên nhau im thin thít. Thi thoảng chúng mới thò cái đầu ra khỏi mai, ngước đôi
mắt bé tí nhìn chúng tôi. Tôi thấy những con ba ba thật hiền lành. Bà tôi biết
chúng tôi hay sang nhà ông Bộc xem ba ba thì dặn: “Hai cháu đừng có thò tay vào
mà ba ba nó cắn. Nó mà cắn thì chẳng làm sao gỡ ra được. Chỉ trừ khi có sấm”.
Chúng tôi hỏi bà: “Ba ba sợ sấm hả bà?”. Bà bảo: “Ừ”. Chúng tôi lại hỏi: “Tại
sao nó lại sợ mỗi sấm?”. Bà tôi nghiêm giọng: “Vì sấm là ông giời. Nó chỉ sợ giời
thôi”. “Thế không có sấm thì làm sao?”. Bà tôi cười: “Thì người ta kéo cối xay
lúa. Nó nghe tưởng là tiếng của giời, nó nhả ra”.
Ông Bộc là người có
tài bắt ba ba nổi tiếng cả một vùng. Bố ông xưa kia cũng chỉ sống bằng nghề bắt
ba ba và câu cá quả. Vào mùa hạ, ông Bộc dậy rất sớm ra đầm Vực. Ông men theo bờ
đầm và quan sát trên mặt nước. Ba ba khi bơi dưới mặt bùn nhả tăm rất nhiều.
Nhìn tăm, ông Bộc biết được tăm nào là tăm ba ba và to hay nhỏ. Cứ thế ông lặn
xuống nước, chỉ một loáng ông đã lôi được con ba ba lên bờ. Lũ trẻ xóm trại
cũng đã nhiều lần được ông cho đi theo để xem ông bắt ba ba.
Ông Bộc nuôi ba ba
trong những chiếc vại sành. Ông bảo như thế ba ba mới không trốn đi được. Ông kể
với chúng tôi ba ba là giống rất khỏe. Thuở bố ông Bộc còn sống, bố ông bắt được
một con ba ba lớn. Ông cụ phải dùng cối đá để úp con ba ba đó. Sáng sau tỉnh dậy,
không thấy cái cối đá đâu nữa. Ông cụ chạy đi tìm thì thấy cái cối đá từ góc
sân đã được chuyển ra cửa ngõ. Hóa ra con ba ba cứ vừa bò trong cái cối đá vừa
đẩy cái cối đá đi suốt đêm.
Cứ đến phiên chợ
Đình hay chợ Thá, ông Bộc lại bắt lũ ba ba nhốt vào hai cái lồng sắt mang bán
và lúc nào cũng vậy, sau buổi chợ chúng tôi kéo đến nhà ông để nhận quà. Ông
không bao giờ quên mua quà cho chúng tôi. Món quà mà tôi thích nhất là những
ông tướng thời xưa mặt đỏ, râu dài, tay cầm gươm uy nghi, làm bằng bột nếp pha
màu. Tôi chỉ từ giã những ông tướng bột uy nghi kia khi nào các ông đã bị mốc
xanh, mốc vàng phủ kín cả mặt mũi, mũ áo mà thôi
Những năm trước kia
đầm Vực ba ba nhiều vô kể. Có những ngày, ba ba lên bờ phơi nắng. Chúng nằm san
sát những mô đất quanh bờ đầm. Hồi đó, chúng không sợ người như bây giờ. Có những
bác thợ cày lên bờ đầm ngồi nghỉ. Bác thợ cày nhìn thấy một tảng đá mốc thếch
bèn ngồi lên ung dung hút thuốc lào. Mãi lâu sau, thấy tảng đá mình đang ngồi cứ
nhúc nhích, nhúc nhích, bác thợ cày thấy lạ lật lên xem thử. Một cái bụng ba ba
vàng ươm phơi ra.
Bây giờ ba ba ít đi
nhiều. Người xóm trại chẳng mấy khi thấy chúng lên bờ. Chỉ có ông Bộc là biết
chúng ở đâu.
Trêu chọc lũ ba ba
trong vại sành chán chúng tôi rủ nhau vào nhà. Trong ngôi nhà nhỏ có một cái cửa
ra vào duy nhất, ông Bộc đang ngồi lặng im trên chiếc phản gỗ. Tôi chợt nhớ lại
đêm qua ông đứng trên đê trong đêm mưa gió. Tôi nhớ đến lời bà tôi nói về ông.
“Ông Bộc có tội ư? Ông ấy có tội gì nhỉ?”. Câu hỏi ấy vang lên trong tâm hồn trẻ
thơ của tôi.
Thấy chúng tôi bước
vào, ông nói khẽ:
-Hai đứa vào đây.
Ông phần chuối cho các cháu đây, ăn đi.
Thằng Mên tham ăn, vặt
ngay một quả ăn vội vàng. Tôi huých nó một cái. Nó kêu lên:
- Ơ! Sao anh đánh
em?
Tôi nói:
- Mày tham lắm. Chưa
mời ai đã ăn.
Thấy vậy, ông Bộc cười:
- Cứ ăn đi, ăn thoải
mái. Ngoài vườn nhà ông còn mấy buồng đang ín.
Tôi cầm quả chuối
ông Bộc đưa, im lặng nhìn ông. Nhà ông ẩm thấp và nhợt nhạt ánh sáng. Gương mặt
ông Bộc như đang nổi chìm trong ánh sáng chen những khoảng tối trong ngôi nhà.
Lúc đó, tôi muốn hỏi ông Bộc: “Ông ơi! Người ta bảo ông có tội, có phải thế
không ông?”. Nhưng tôi không làm sao nói được.
Chỉ một loáng, thằng
Mên đã ăn hết ba quả chuối. Nó nằm xoài trên phản, cúi đầu xuống gầm phản, nói:
- Ông ơi! Lính của
ông đi đâu hết rồi?
Ông Bộc cười khà
khà:
- Chúng nó đi chơi cả
rồi. Chưa đến bữa mà.
Lính của ông Bộc là
lũ cóc dưới gầm phản nhà ông. Ngôi nhà của ông ít ánh sáng và thường ẩm thấp.
Quanh nhà lại mọc um tùm các loại cây nên cóc rất nhiều.
Một lần đi câu cá về,
hai ống quần ông bám đầy cỏ may. Chúng tôi bảo ông để chúng tôi nhặt giúp. Ông
xua tay bảo: “Để ông sai lính của ông nó làm”. Chúng tôi chẳng hiểu ông nói gì.
“Lính nào hở ông?”. Chúng tôi hỏi. Ông cười: “Cứ đợi đấy, đợi đấy”. Nói xong
ông vứt cái quần bám đầy cỏ may vào gầm phản. Lâu sau, ông bảo chúng tôi thử
nhìn xuống gầm phản xem sao. Chúng tôi cúi rạp mình nhìn xuống và trố mắt ngạc
nhiên khi thấy một bầy cóc lớn bé đang thi nhau đớp những bông cỏ may bám vào
hai ống quần ông. Chúng làm việc một cách cần mẫn và tự giác, không thèm để ý đến
chúng tôi.
Cũng từ đó, cứ mỗi lần
lên đê chơi là chúng tôi lại mang những cái quần bám đầy hoa cỏ may đến nhà ông
để nhờ lũ lính của ông nhặt giúp.
Hai anh em tôi tha
thẩn ở chơi với ông đến gần trưa, cho đến khi mẹ tôi gọi chúng tôi về ăn cơm.
Trước khi về, ông Bộc ghé tai tôi nói nhỏ: “Chiều lại đây ông cho theo sông gỡ
vẹ cá”. Tôi mừng rơ “dạ” thật to và chạy một mạch về nhà.
Vào lúc ngang chiều
tôi trốn thằng Mên sang nhà ông Bộc. Hai ông cháu tôi xuống sông. Ông Bộc chỉ
có một chiếc thuyền nan nhỏ do ông tự làm. Sông mới vào hạ nên nước chưa lớn lắm
để vẫn có thể thả vẹ được. Hai bờ sông, ngô bắt đầu đang bạc râu. Chúng tôi
trèo lên thuyền và bơi đi. Ông Bộc thả khoảng hai chục vẹ cá chép. Vẹ là một loại
bẫy cá chép. Đó là một cái lồng bằng tre cứng trông giống cái lồng gà. Vẹ có một
cái cửa để cho những con cá chép to có thể chui vào. Trong vẹ có một hòn đá để
giữ vẹ và mồi nhử được bọc trong một cái túi vải để chống nước cuốn mất. Vẹ được
buộc vào một cây sào nhỏ cắm xuống lòng sông để đánh dấu. Vẹ thả từ chiều hôm
trước đến chiều hôm sau thì cất lên.
Con thuyền trôi nhẹ
nhàng trên mặt sông rộng. Nhà tôi có một chiếc thuyền lớn hơn thuyền nhà ông Bộc
nhiều và được đóng bằng gỗ. Nhưng chẳng mấy khi bố tôi cho chúng tôi theo thuyền.
Vừa bơi thuyền đến nơi thả vẹ, ông Bộc vừa nói:
- Chỉ ít bữa nữa là
không thả được vẹ. Mưa nhiều nước sông cao và đục thì cá chép không ăn vẹ nữa.
Lúc này, tôi nhìn
ông Bộc khác vô cùng với khi ông ngồi trong ánh sáng nhợt nhạt của ngôi nhà.
Tôi thấy ông mỉm cười và khe khẽ hát một bài gì đó.
Khi đến bãi thả vẹ,
ông bảo tôi:
- Ông sẽ cho cháu nhấc
một vẹ.
Những cái vẹ lần lượt
được kéo lên, nhưng vẫn không có cái nào có cá. Tôi hỏi ông:
- Hay là cá vào lại
ra rồi, ông?
Ông Bộc
- Vẹ ông nhạy lắm,
vào là hết đường ra. Bắt đầu có mưa rồi, cá chép ít ăn vẹ. Phải đợi sang hẳn
thu ông mới thả.
Đến một cái vẹ khác,
ông bảo tôi:
- Cháu kéo cái vẹ
này lên đi. Cẩn thận, cá to đấy.
Tôi ngồi sát mép
thuyền. Tôi thấy hồi hộp. Tôi từ từ kéo cái dây buộc vẹ lên. Một lúc sau tôi thấy
dây buộc vẹ rung mạnh. Tôi kêu khẽ:
- Có cá rồi ông ơi!
Ông Bộc cười:
- Có chứ.
Cuối cùng, vẹ đã hiện
ra trên mặt nước. Con cá chép trong vẹ quẫy dữ dội tìm lối thoát. Tôi sung sướng
kéo chiếc vẹ vào lòng thuyền. Con chép quẫy nghiêng ngả chiếc vẹ. Một con cá
chép sông rất to, đôi râu đỏ chảy dài hai bên miệng, những chiếc vảy to trông
như bộ giáp vàng.
Chúng tôi nhấc được
thêm hai con cá nữa. Mỗi chiếc vẹ bao giờ cũng chỉ bẫy được một con chép mà
thôi.
Lúc này, mặt trời đã
xuống sát dãy núi phía tây. Mặt sông tím lại. Những ngọn gió mỏng bắt đầu lùa
trên mặt nước. Ông Bộc khỏa nhẹ mái chèo đưa thuyền về bến. Tôi ngồi ở mũi thuyền
nhìn ông. Trông ông bé bỏng và yếu đuối vô cùng. Bỗng có tiếng cá quẫy rất mạnh
ở phía sau. Tôi thấy ông Bộc giật mình. Ông ngừng tay khỏa chèo và quay lại:
- Con cá. - Ông Bộc
khẽ
Chiếc thuyền từ từ
quay ngang. Ông Bộc vẫn ngồi im lặng nhìn những vòng sóng lớn đang lan rộng
trên mặt sông đã tan vào bóng tối. Lúc đó tôi lại nhớ đến lời bà tôi. Và tôi tự
hỏi, ông cần con cá ở đầm Vực làm gì mà hơn năm mươi năm nay ông theo đuổi nó.
Khi những vòng sóng
đã mất hút, ông Bộc khẽ thở dài và quậy chèo bơi thuyền đi.
- Ông ơi! Sao ông muốn
bắt con cá thần ở đầm Vực?
Tôi buột miệng hỏi
ngay. Nghe tôi hỏi, ông cũng lại khẽ giật mình và ngừng tay chèo. Ông nhìn tôi
rất lâu rồi hỏi:
- Ai nói cho cháu điều
này? Bà cháu phải không?
- Vâng - Tôi đáp.
- Đúng vậy cháu ạ -
Ông Bộc nói rất chậm - Ông muốn bắt được con cá ấy. Con cá ấy đã cứu ông, đồng
thời cũng giết ông.
-Nó giết ông? - Tôi
nói như kêu. - Cháu không hiểu.
Ông Bộc gác mái chèo
lên. Con thuyền chầm chậm trôi theo dòng nước. Ông Bộc và tôi ngồi im lặng
trong lòng chiếc thuyền nan nhỏ giữa sông. Chợt ông hỏi tôi:
- Cháu có nghĩ ông
là người có tội không?
Là cậu bé mười hai
tuổi, tôi vô cùng lúng túng trước câu hỏi của ông.
- Bà cháu bảo người
ta cho ông là người có tội. - Tôi nói bà cháu không tin.
- Bà cháu không tin
thật không?
Ông hỏi và nhìn về
phía tôi chờ đợi.
- Bà cháu không tin.
Sau câu nói đầy quả
quyết của tôi, ông Bộc bỗng nấc lên. Ông khóc! Tôi chưa bao giờ nghĩ là ông
khóc, và tôi hoảng hốt. Trong lòng thuyền nhỏ giữa dòng sông rộng, tiếng khóc của
ông cô đơn. Lát sau ông thôi khóc và đưa ống tay áo quệt nước mắt.
- Ông không có tội.
- Ông nói, giọng đau khổ. - Có phải thế không cháu?
- Vâng. - Tôi đáp.
- Đã hơn năm mươi
năm nay rồi, nhiều người nghĩ là ông có tội. Chỉ có một người biết rõ là ông
không có tội…
- Ai vậy ông? - Tôi
vội hỏi.
- Đó chính là con cá
ở đầm Vực.
- Con cá thần ư? -
Tôi kêu lên.
- Nó chỉ là một con
cá sống lâu năm. Nó không phải là cá thần. Con cá ấy chỉ có một mắt.
- Tại sao con cá ấy
lại biết ông không có tội?
- Vì nó cất giấu một
vật, và vì vật ấy ông trở thành k
- Ông kể cho cháu
nghe đi. - Tôi năn nỉ - Vật ấy là cái gì?
- Ông có kể, cháu
cũng chưa hiểu được đâu. - Ông nói - Khi nào cháu lớn ông sẽ nói cho cháu nghe.
Thôi ông cháu mình về đi, kẻo bà cháu mong.
Nói xong, ông khỏa mạnh
mái chèo. Con thuyền kẻ một đường thẳng về bến làng.
Lên bờ, ông Bộc bắt
con cá chép lớn nhất đưa tôi mang về biếu bà. Tôi lặng lẽ về nhà. Bà tôi đang nấu
cơm trong bếp. Tôi đưa con cá cho bà và nói:
- Ông Bộc là người
không có tội bà ạ.
Bà ngước mắt nhìn
tôi, im lặng. Và khi bà cúi xuống, tôi nghe thấy tiếng bà thở dài.
Buổi tối sau bữa cơm,
tôi đi lững thững lên đê. Tôi thấy người lớn sao toàn chuyện khó hiểu. Tại sao
con cá thần đầm Vực lại giữ cái điều bí mật của ông Bộc? Tại sao ông lại khóc?
Tại sao bà tôi lại thở dài? Tôi không hiểu được.
Tôi ngồi trên mặt đê
nhìn xuống mặt đầm Vực mênh mông đầy bí ẩn. Đom đóm từ các lùm cây ven bờ đầm
và dưới chân đê đang ùa ra. Tiếng nhái và côn trùng kêu ran ran. Hình như tôi
nghe thấy tiếng con cá thở rất gần và nước đầm Vực xao động. Rồi đột nhiên, một
tiếng đập nước rất lớn vang lên. Mặc dù trời tối, nhưng tôi vẫn nhìn thấy một cột
nước trắng dựng lên và đổ ào xuống mặt đầm. Tôi nín thở, người sởn da gà. Rồi
con cá bơi lướt trên mặt đầm như một chiếc thuyền gắn máy.
Chỉ một lúc sau, mặt
đầm trở lại phăng phắc. Tôi nghe thấy tiếng “i i” từ mặt nước vọng lên. Bỗng có
tiếng người sau tôi:
- đấy ư?
Tôi thót mình quay lại
và nhận ra ông Bộc.
- Nó đấy, con cá đấy.
- Giọng ông Bộc thì thào. - Cháu có tin ông sẽ bắt được nó không?
Tôi không trả lời
ông Bộc. Tôi không tin ông bắt được con cá. Những người đàn ông xóm trại với đủ
dụng cụ đánh bắt mà cũng không làm gì nổi nó, huống hồ ông Bộc già yếu và bé nhỏ
thế kia. Tôi chỉ thấy thương ông, thương luôn cả nỗi băn khoăn về con cá của
ông.
- Ông sẽ bắt được
nó.
Ông Bộc lại thì
thào. Rồi ông cười. Tiếng cười như chỉ đủ để ông nghe thấy. Tôi cảm thấy sợ.
Đôi mắt ông trong đêm như chợt chói lên.
- Ông sẽ bắt được
nó.
Rồi ông lại cười một
mình.
Nghe tiếng tôi, ông
Bộc chợt tỉnh. Ông lập cập nắm lấy tay tôi. Ông lầm lũi dắt tôi xuống chân đê.
Đưa tôi về đến ngõ thì ông quay lại. Tôi thấy bóng ông lập cập trên đường.