Bí Mật Hồ Cá Thần - Chương 11 -12
Chương XI.
Chúng tôi có ngờ đâu
đó là bữa ăn cuối cùng của đời ông Bộc. Ngày hôm sau chúng tôi đến thăm ông
trên đường đi học về. Ông nằm mê man, thoi thóp thở. Tôi chạy về gọi mẹ tôi. Mẹ
tôi tất tưởi sang thăm ông. Mẹ tôi lay gọi mãi ông mới từ từ mở mắt. Đôi mắt
ông dài d
- Ông ơi, ông thấy
trong người thế nào? - Mẹ tôi hỏi.
Ông Bộc nhìn mẹ tôi
và như cố nuốt một vật gì đó mắc vào trong cổ họng.
- Ông thấy trong người
thế nào? - Mẹ tôi hỏi lại.
- Ch…ê…ết! - Ông Bộc
thều thào.
- Ông đừng nói dại!
- Mẹ tôi nói. - Ông phải sống để vui với bà con xóm trại.
- Chết! - Ông lại thều
thào.
Mẹ tôi lấy nước nóng
rửa mặt cho ông Bộc. Rồi mẹ tôi kéo tôi ra hiên nhà dặn:
- Con ở đây với ông
Bộc. Để mẹ đi báo cho mấy ông bà trong xóm. Chắc ông ấy không qua khỏi đêm nay
đâu.
Nói xong, mẹ tôi tất
tưởi đi. Tôi đến bên ông Bộc khẽ gọi:
- Ông Bộc ơi, ông Bộc!
Ông Bộc mở mắt nhìn
tôi rất lâu rồi nói:
- Mon… đấy… à…
Tôi vội gật đầu:
- Vâng, vâng, cháu
đâ
- Ông không… sống…
được n-ữ-a…
Ông Bộc nói từng tiếng
một nặng nhọc.
- Ông ơi! Cháu nhìn
thấy con cá một mắt ở đầm Vực tối qua, ông ạ.
- Một… mắt… à? - Ông
Bộc hỏi.
Tôi vội gật đầu.
Mẹ tôi đã trở lại
cùng một vài người già xóm trại. Họ gọi ông Bộc và hỏi ông có nhận ra ai không.
Ông Bộc đã thiếp đi. Ông nằm bất động.
Mẹ tôi và mọi người
kéo nhau bàn chuyện hậu sự cho ông Bộc. Mọi người quả quyết chỉ đến giữa đêm là
ông Bộc sẽ trút hơi thở cuối cùng. Mẹ tôi được sai đi gọi thợ mộc trong làng đến
để đóng áo quan cho ông Bộc. Cuối chiều thì hai ông thợ mộc trong làng đến. Họ
lôi từ góc nhà ra mấy tấm gỗ mà ông Bộc đã chuẩn bị từ mấy năm nay.
Buổi tối, đèn đóm thắp
sáng trưng ở sân nhà ông Bộc.
Làng xóm đến thăm
ông Bộc rất đông. Mẹ tôi tất bật đun nước. Lũ trẻ xóm trại chúng tôi quanh quẩn
trước nơi ông Bộc nằm. Đến khuya thì cỗ áo quan được đóng xong. Người ta khiêng
cỗ áo quan lên hiên nhà và quét sơn đỏ. Tôi nhìn cỗ áo quan của ông Bộc và rùng
mình nhớ lại cỗ áo quan nhỏ mà bố tôi đóng cho tôi năm ngoái.
Đến khuya mọi người
về hết. Chỉ còn lại một vài người ở lại trông coi ông Bộc. Họ trải chiếu ra
hiên nhà ngồi uống rượu và đánh tổ tôm. Mẹ tôi thu dọn nhà cửa cho ông Bộc xong
rồi đưa tôi về nhà. Tôi nắm chặt tay mẹ tôi đi qua những lối xóm tối om. Và
ngoài tiếng xào xạc của lá cây, tôi lại nghe từ phía bên kia con đê vọng v con
cá.
Sáng hôm sau tỉnh dậy
tôi thấy mẹ tôi đang chuẩn bị gánh rau cải ra chợ bán. Tôi đến bên mẹ tôi, hỏi:
- Ông Bộc có làm sao
không mẹ?
Mẹ nói:
- Sáng nay lại thấy
tinh tỉnh. May thì qua khỏi. Ở nhà trông nhà. Mẹ đi chợ mua lạng thịt tươi nấu
cháo cho ông cụ.
Gần trưa mẹ tôi đi
chợ về. Tôi theo mẹ sang nhà ông Bộc. Ông bỗng tỉnh táo lạ thường. Thấy tôi đến,
ông ra hiệu cho tôi lại gần. Tôi thấy đôi mắt ông tỉnh hơn. Tôi ngồi xuống bên
ông, nói:
- Mẹ cháu đang nấu
cháo thịt cho ông dưới bếp.
Ông không nói gì cứ
nhìn tôi. Một lúc sau ông hỏi:
- Cháu gặp con cá à?
- Vâng! - Tôi đáp.
Tôi thấy ánh mắt ông
chợt sáng lên.
- Ông không thể sống
được nữa. Ông nhờ cháu một việc…
- Việc gì hở ông?
- Sau khi ông chết,
cháu giúp ông bắt cho được con cá một mắt và mổ bụng nó ra, lấy cái ấy, mang
lên huyện
- Vâng! Vâng! - Tôi
đáp - Cháu sẽ bắt. Cháu sẽ bắt.
- Cháu phải hứa với
ông là bắt được con cá ấy, cháu nhé. - Ông nói. - Nếu không ông chết không nhắm
mắt được.
Tôi thấy ông tỉnh
táo và rất nhanh, nhanh hơn cả khi còn khỏe mạnh. Tôi cầm lấy bàn tay khô đét của
ông và nói:
- Cháu hứa, cháu hứa,
ông ạ. Cháu sẽ bắt được con cá ấy. Cháu hứa với ông.
Những ngón tay ông bỗng
khỏe lạ lùng quặp chặt bàn tay bé bỏng của tôi. Đôi mắt ông mở to lạ lùng nhìn
tôi. Bỗng đôi mắt ông lạc đi. Ông nấc lên. Những ngón tay ông từ từ duỗi ra.
Tôi hoảng hốt định chạy xuống bếp gọi mẹ thì mẹ tôi cũng vừa bưng bát cháo bốc
hơi nghi ngút bước vào.
- Mẹ ơi! - Tôi kêu
lên - Ông Bộc làm sao ấy.
Mẹ tôi đặt bát cháo
và chạy đến bên ông Bộc. Mẹ tôi cầm lấy tay ông vừa lắc vừa gọi:
- Ông ơi, ông. Ông tỉnh
lại đi, ông ơi!...
Ông Bộc nằm ngoẹo đầu
sang một bên. Khóe miệng ông chảy một vệt nước dãi.
- Con ơi! - Mẹ tôi gọi
tôi và òa khóc. - Ông Bộc mất rồi. Ông ơi là ông. Sao ông không đợi ăn miếng
cháo rồi đi, hở ông. Sao ông vội đi thế này, ông ơi.
Tôi òa khóc theo mẹ.
Nghe tiếng khóc của mẹ con tôi, hàng xóm vội vã ùa đến. Có ai đẩy tôi ra
- Trẻ con đi ra
ngoài kia. Đây không phải chỗ của chúng mày.
Tôi bước ra ngoài
sân. Tôi đứng giữa sân nhìn về phía chân đê. Ở đó hoa tầm xuân đang bời bời nở.
Chưa có năm nào hoa tầm xuân lại nở nhiều đến thế.
Hình như tất cả trẻ
con xóm trại đều đi đưa tang ông Bộc. Đó là một ngày nắng ấm. Dọc hai bên đường
chạy từ chân đê ra khu nghĩa địa của làng nở đầy hoa tầm xuân. Cả đám tang hầu
như không có tiếng khóc. Và đặc biệt không có điếu văn. Người viết điếu văn của
làng không biết viết về ông Bộc như thế nào. Đội bát âm của làng cũng không đủ.
Chỉ có một người thổi kèn và một người đánh trống. Tiếng kèn đơn điệu như tiếng
kèn bằng lá dứa dại mà bọn trẻ chúng tôi vẫn hay thổi trên đê.
Ông Bộc được chôn
vào một góc nghĩa địa. Khi những người lớn đã về hết, lũ trẻ chúng tôi hò nhau
lấy đất cày ở gần đó đắp thêm cho ngôi mộ của ông Bộc. Sau đó, tôi đến trước mộ
bà tôi:
- Bà ơi! - Tôi nói
khẽ - Ông Bộc đi theo bà rồi đấy.
Sau đó, tôi đào một
ít cây hoa cúc trên mộ bà tôi trồng vào mộ ông Bộc. Những bông cúc vàng làm
ngôi mộ trông ấm hẳn. Tôi ngồi xuống trước mộ ông Bộc thì thầm:
- Ông Bộc ơi! Cháu hứa
sẽ bắt được con cá một mắt cho ông.
Đêm đó, cả đầm Vực bị
khuấy động gần như suốt đêm bởi con cá. Những người đàn ông xóm trại tụ tập
trên mặt đê. Lũ trẻ chúng tôi cũng có mặt trên đó. Những người đàn ông lại sôi
sục bàn nhau bắt con cá. Suốt đêm con cá quẫy đạp và kêu i i thống thiết.
Sáng hôm sau, những
người đàn ông xóm trại m cuộc vây bắt náo nhiệt trên đầm Vực. Nhưng họ không hề
bắt được gì, kể cả một con cá mè. Có một vài người đã thề không bao giờ nghĩ tới
con cá nữa. Còn lão Bương thì chống gậy đi vẩn vơ quanh bờ đầm suốt buổi chiều.
Cuối chiều, tôi đi
ra bờ đầm lẳng lặng ngồi xuống.
Trong hoàng hôn, mặt
đầm Vực mờ sương, im phắc. Tôi ngồi bó gối im lặng. Bỗng tôi giật thót mình nhận
ra một vật to lớn, đen thẫm nổi lên mặt nước phía trước tôi:
- Con cá một mắt!
Tôi thảng thốt kêu
lên và quờ tay tìm một vật gì đó để tự vệ. Con cá nổi lên, im lặng. Tôi nghe thấy
tiếng nó thở. Nó lặng lẽ bơi vào sát bờ nơi tôi ngồi. Con cá hếch cái đầu về
phía tôi. Tôi nhìn xoáy vào con cá và nhận ra nó chỉ có một mắt, to như mắt
trâu. Mắt con cá nhìn thẳng vào tôi, tôi thấy con cá chớp khẽ:
- Mày hãy trả lại
cho ông Bộc cái ấy.
Tôi buột miệng nói.
Con cá vẫn im lặng và thở phì phò.
- Trả lại đi! - Tôi
kêu lên - Trả lại đi!
Tôi không biết lúc
đó tôi kêu lên vì căm thù hay hoảng sợ. Tiếng kêu của tôi dội xuống mặt nước,
vang xa.
Sau tiếng kêu của
tôi, con cá chớp mắt rồi từ từ lặn xuống. Tôi bật đứng dậy, tay chân khua khoắng
trong không khí và gào lên:
- Trả lại đi! Trả lại
đi!
Mặt đầm tối dần dội
lại tiếng tôi. Tôi chạy men theo bờ vừa chạy vừa kêu: “Trả lại đi! Trả lại
đi!”. Tôi vừa chạy vừa kêu cho đến khi mệt lả. Tôi ngồi bệt xuống cỏ ven bờ đầm,
thở. Chợt giữa đầm có tiếng quẫy mạnh. Tôi không nhìn thấy con cá. Tôi chỉ thấy
những vòng sóng lan rộng mãi. Và từ giữa mặt đầm đã sẩm tối, tiếng i i của con
cá vọng lại.
Tôi chợt nhớ đến lời
bà tôi bảo khi con cá kêu như vậy là nó buồn. Tôi tự hỏi: Có phải con cá buồn
thật không? Và có phải nó buồn vì ông Bộc đã chết rồi không? Nếu con cá biết buồn
về cái chết của ông Bộc thì sao nó không trả lại cho ông Bộc cái mà ông Bộc đã
săn tìm suốt hơn 50 năm nay.
Khi chưa được nghe
ông Bộc kể câu chuyện của ông với con cá một mắt, thì con cá sống trong tôi
thiêng liêng và bí ẩn như một con cá thần. Nhưng khi biết câu chuyện của đời
ông Bộc, trong lòng tôi là sự căm thù và kinh sợ con cá. Tôi thèm khát bắt được
con cá và rạch tung bụng nó ra. Tôi sẽ minh oan được cho ông Bộc. Ý định ấy
chưa bao giờ thôi thúc tôi mạnh mẽ đến như vậy.
Về đến nhà, tôi gọi
thằng Mên ra ngõ và bảo:
- Tao với mày phải
tìm cách bắt con cá một mắt.
Thằng Mên nói nhỏ:
- Em sợ lắm.
Tôi hỏi:
- Vì sao?
Thằng Mên nói:
- Đấy là cá thần,
không bắt được đâu. Bố không bắt được, ông Bộc không bắt được, anh em mình làm
sao mà
Tôi quả quyết:
- Bắt được chứ. Tao
hứa với ông Bộc rồi.
Thằng Mên im lặng hồi
lâu rồi hỏi:
- Anh lấy cần câu rô
để câu con cá một mắt à?
Tôi gắt:
- Ngu ơi là ngu. Cá
rô chỉ bằng cái vảy con cá một mắt.
Thằng Mên hỏi:
- Thế anh câu nó bằng
cái gì? Hay đào quả bộc phá của lão Bương lên mà đánh nó.
Tôi quát:
- Tao cấm mày đụng đến
quả bộc phá ấy. Tao sẽ có cách.
Thằng Mên lại hỏi:
- Như thế nào hở
anh?
Tôi vò đầu:
- Giời ơi! Cái gì
mày cũng hỏi. Tao còn phải nghĩ.
Vừa lúc đó, chúng
tôi nghe tiếng mẹ gọi về ăn cơm tối. Trước khi bước vào ân, tôi giữ thằng Mên lại
dặn nó:
- Tao cấm mày đụng đến
quả bộc phá ấy nhé.
- Em ứ thèm.
Nói xong, nó bỏ chạy
vào nhà. Và suốt bữa ăn tôi chỉ nghĩ đến cách bắt cho được con cá một mắt.
Chương XII.
Một mùa hạ lại đến.
Cả xóm trại ran ran tiếng ve sầu. Lũ trẻ xóm trại chúng tôi lang thang từ sớm đến
tối om mới về nhà.
Vào lúc gà gáy sáng
thì có tiếng sấm. Tiếng sấm vọng về từ xa lắc. Những ngọn gió mang hơi mưa thổi
về xóm trại. Buổi sáng thức dậy, tôi thấy mây từ phía núi đùn lên xám đục. Kiến
đỏ từng đàn đông nghịt leo ngược tường nhà. Cóc nhái kêu ran dọc chân đê.
Đến chiều, gió thổi
mạnh. Chúng tôi gọi nhau í ới và chạy lên mặt đê. Sấm bắt đầu nổ vang. Chỉ ít
phút sau, cảnh vật bên kia sông đã biến mất trong mưa. Bọn trẻ chúng tôi reo hò
chạy về nhà. Nhưng vừa xuống đến chân đê thì mưa ập đến.
Mưa đổ xuống mênh
mang. Sấm nổ như không ngớt. Cứ thế, mưa kéo dài đến khi lên đèn thì ngớt. Tiếng
ếch ương kêu uôm uôm trong các vườn chuối.
Ăn cơm xong thì trời
lại mưa. Mưa không to bằng lúc chiều nhưng đều đều, rền rĩ. Bố tôi mặc áo mư
vác vó đi. Những trận mưa đầu mùa như thế này, cá đi ăn rất đông. Những người
đàn ông xóm trại thường đi kéo vó hoặc soi cá suốt đêm.
Ba ngày sau trời vẫn
đổ mưa vào buổi chiều hoặc lúc gà gáy sáng. Nước sông lên cao, ngầu đỏ. Nước đầm
Vực cũng ngầu đỏ như nước sông và dâng lên đến chân đê. Khi nước dâng lên đến
chân đê là cũng vào mùa đi bắt lươn của lũ trẻ xóm trại.
Năm nào cũng vậy mùa
bắt lươn đầm Vực bắt đầu khi nước đầm dâng lên đến chân đê. Những con giun và
côn trùng khác đều bị chết vì ngập nước. Đến đêm nước lặng, từng đàn lươn lớn
bé từ đáy đầm Vực mò lên chân đê để ăn mồi. Bắt lươn chỉ là công việc của bọn
trẻ chúng tôi. Mỗi đứa trẻ có một chiếc đèn pin, một chiếc giỏ và một chiếc gậy
có móc sắt ở đầu. Chúng tôi soi đèn xuống mép nước để phát hiện những con lươn
đang bò đi tìm mồi.
Chúng tôi soi đèn
vào chú lươn định bắt. Những con lươn say mồi không để ý gì đến ánh đèn và cả
tiếng chân người. Chúng tôi dùng cái móc sắt đưa gần vào con lươn rồi hất mạnh
chúng lên triền đê. Động tác rất nhanh làm chú lươn không kịp phản ứng. Chú
lươn bị hất lên triền đê cứ rúc đầu chui vào cỏ. Lúc đó chúng tôi chỉ cần dùng
ngón tay giữa quặp ngang thân chú lươn là nó hết đường chạy.
Lươn ở đầm Vực to
béo lạ thường, da vàng ươm. Đầm Vực rộng và sâu, bởi thế lươn sinh đẻ nhiều mà
ít bị bắt. Dọc mép nước ở chân đê ven đầm Vực lươn bám đặc. Hầu như chúng tôi hất
cái nào cũng được lươn. Vào mùa bắt lươn, có đêm bắt được nhiều, mẹ tôi còn
mang đi bán tận chợ Đình. Tiền bán lươn mỗi mùa đủ mua cho chúng tôi mỗi đứa một
bộ quần áo và sách bút cho năm học mới.
Năm nay mùa mưa đến
sớm. Buổi chiều chúng tôi lên đê xem nước đầm Vực. Nước đầm Vực đã ngập ngang
những bụi dứa dại mọc sát chân đê. Buổi chiều, chúng tôi ăn cơm sớm và chuẩn bị
đầy đủ cho buổi bắt lươn đầu tiên của mùa mưa năm nay.
Trời vừa sập tối
chúng tôi đã lên đê. Trên mặt đê đã lấp lóa ánh đèn của những đứa trẻ xóm trại.
Ở cánh đồng bên kia đầm Vực cũng le lói ánh đèn của những người đi kéo cá. Hầu
hết người l không đi bắt lươn mà chỉ kéo vó. Nước lên, cá từ đầm Vực kéo nhau
vào những ruộng lúa rất nhiều. Có người kéo một đêm được cả tạ cá.
Mưa vẫn rỉ rả. Đứng
trên mặt đê tôi lại nhớ đến ông Bộc. Khi còn sống, bà tôi bảo đêm nào ông Bộc
cũng lên đê một mình và nhìn xuống đầm nước. Chính tôi cũng đã gặp ông Bộc đứng
trên mặt đê một mình trong một đêm mưa như thế này. Ngày ấy, tôi không hiểu gì.
Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu được một phần.
Khi chúng tôi đang
say sưa soi lươn thì từ phía cánh đồng vọng lại tiếng người huyên náo. Rồi có
nhiều người bấm đèn pin chạy về phía chân đê.
Trong những người đó
có bố tôi.
- Bố chạy đi đâu đấy?
- Thằng Mên hỏi.
Bố tôi dừng lại, thở
hổn hển:
- Con cá một mắt vào
đồng rồi. Hai đứa về đi, không bắt lươn nữa.
Bố tôi và những người
đàn ông xóm trại phát hiện con cá một mắt bơi vào đồng. Trước kia, vào mùa nước,
nó cũng đã từ đầm Vực bơi vào. Những người đàn ông xóm trại chạy về nhà lấy dụng
cụ để vây bắt con cá. Cả xóm trại được đánh thức. Những người đàn ông xóm trại
dồn hết ra bờ bên kia cánh đồng của đầm Vực. Đèn đóm sáng trưng. Cả một đoạn đầm
Vực ngập nước liền với cánh đồng được cắm cọc và giăng lưới dày đặc ba bốn lớp
để chặn đường trở về đầm Vực của con cá. Một đám đông tay lăm lăm cuốc, xẻng,
dao, gậy dàn ra như dàn trận. Trên một gò đất cao có cắm một chiếc cọc treo một
ngọn đèn bão, lão Bương tay cầm con dao sáng quắc nhìn mọi người, nói:
- Thưa anh em. Con
cá một mắt đã vào trong đồng rồi. Nó chỉ còn một đường quay lại đầm Vực là chỗ
này. Đêm nay chúng ta sẽ vây bắt nó. Lực lượng tập trung chính là ở đây. Nếu thấy
nó, tôi hô giết, thì các anh em cứ băm vằm n
Sau đó, từng tốp người
đèn đuốc sáng trưng chia đi các ngả trên cánh đồng để tìm con cá. Bọn trẻ con
xóm trại cũng bỏ việc bắt lươn để kéo đến bờ đầm bên kia xem cuộc vây bắt con
cá một mắt. Mưa vẫn rỉ rả. Tôi đứng lẫn trong mọi người và cầu mong bắt được
con cá. Trước kia, tôi không muốn những người đàn ông xóm trại bắt được con cá.
Nhưng bây giờ thì tôi muốn. Tôi mong tìm thấy cái vật bí ẩn kia trong bụng con
cá. Tôi thương ông Bộc và tôi đã hứa với ông.
Những tốp đi tìm con
cá đã trở về tập trung bên bờ đầm. Họ không thấy tăm hơi con cá đâu cả. Lão
Bương nhìn mọi người phẩy tay nói:
- Đêm hôm thế này
khó nhìn lắm. Bây giờ ta cử người trông coi ở đây. Sớm mai tất cả mọi người hễ
nghe tiếng kẻng là tập trung tại đây.
Một tốp thanh niên
được cử lại bờ đầm canh gác nơi con cá một mắt có thể trở lại. Tôi theo bố tôi
về nhà. Tôi mong trời chóng sáng để ra bờ đầm xem bắt con cá.
Tôi thức giấc bởi tiếng
kẻng. Cả xóm trại nháo nhác tiếng người. Anh em tôi chạy lên đê. Gió sớm mát rượi.
Những người đàn ông xóm trại đã có mặt đông đủ với đủ loại vũ khí để vây bắt
con cá.
Trời đã sáng. Không
khó khăn gì người ta đã phát hiện ra con cá. Con cá lớn quá nên vây lưng của nó
nhô lên khỏi mặt nước. Nó bơi đến đâu nước rẽ ra đến đó.
Lão Bương đứng trên
gò đất cao. Bên cạnh lão là một thanh niên cầm dùi trống. Lão Bương chỉ tay về
phía con cá đang lừ lừ rẽ nước, gào to:
- Tấn công!
Trống bắt đầu nổi
lên. Những người đàn ông xóm trại hò hét và lao về phía con cá. Những chiếc lao
bằng gốc tre được phóng vào con cá. Con cá bị trúng lao. ó quẫy mạnh và lao vun
vút. Một cảnh tượng không thể tin nổi hiện ra. Con cá lao lướt trên mặt nước
như một chiếc xuồng máy. Nước bị xé ra và dựng lên. Sóng đập vào bờ tung lên
như sóng biển. Trống thúc liên hồi. Những người đàn ông điên cuồng tấn công con
cá. Sau một lúc lao điên loạn trên cánh đồng ngập nước, con cá một mắt đã tìm
ra hướng trở lại đầm Vực. Khi con cá đến gần lối thông từ đầm Vực vào cánh đồng
thì những người canh gác đã sẵn sàng phóng lao vào nó. Những người khác tay lăm
lăm lao. Con cá một mắt dừng lại rồi đột nhiên lao thẳng tới. Nhưng những lớp
lưới dày đã cản nó lại. Cùng lúc đó, những cây lao, cuốc, xẻng và dao tới tấp
phóng vào nó. Con cá quẫy mạnh. Nước tung lên mù mịt. Con cá bơi trở lại cánh đồng.
Con cá đã bị nhiều vết thương. Máu của nó loang đỏ trên mặt nước. Những người
đàn ông xóm trại không cho con cá nghỉ lấy sức. Họ tấn công con cá bằng mọi
cách. Sau mỗi lần bị tấn công, con cá lại tìm cách trở lại đầm Vực. Nhưng nó
không phá nổi cái hàng phòng ngự của lưới và người dày đặc.
Lần cuối cùng, con
cá nổi lên. Nó nghếch đầu nhìn về phía mọi người đang la hét và sẵn sàng băm
nát nó. Mọi người đều nhìn thấy đầu con cá to bằng cái chum sành đựng thóc, con
mắt to như mắt trâu. Con cá một mắt từ từ bơi lùi ra xa sau hồi lâu nhìn những
người đàn ông xóm trại đang chặn đường về đầm Vực của nó. Rồi bất chợt nó đập mạnh
đuôi và lao về phía mọi người. Khi đến gần cái tuyến phòng thủ ấy, con cá tung
mình lên. Như một chiếc tàu bay, con cá lao qua đầu mọi người sang bên đầm Vực.
Nó rơi xuống đầm nước. Một cột nước lớn dựng lên cao ngất và đổ xuống như một
trái núi lở. Tất cả những người có mặt ở đó kêu lên kinh hãi. Sau đó, mọi người
như chết đứng.
Suốt mấy ngày sau, cả
xóm trại ngơ ngác. Bố tôi suốt ngày sang nhà lão Bương uống rượu. Những người
đàn ông xóm trại đã thề không bao giờ nghĩ đến chuyện bắt con cá một mắt nữa.
Những người khác cho rằng đó không phải là một con cá, mà đích thị là một con
quỷ. Những người đàn bà xóm trại lo lắng con quỷ một mắt sẽ trả thù những người
săn bắt nó.
Đêm đêm, tôi nằm
trôi trong những nỗi lo âu tản mạn. Cứ chớp mắt tôi lại thấy ông Bộc gọi tôi từ
ngoài cửa sổ mở ra vườn chuối. Ông nài nỉ tôi hãy bắt con cá một mắt để minh
oan cho ông. Ông nói với tôi rằng, lòng yêu quý của tôi đối với ông sẽ giúp tôi
bắt được con cá ấy. Tỉnh khỏi cơn mơ, tôi lại nhớ tới lời hứa với ông Bộc trước
khi ông chết. Những lúc ấy, tôi lại nghe thấy tiếng kêu i i của con cá một mắt
t đầm Vực vọng về rõ và buồn bã hơn lúc nào hết.
Những ngày sau đó,
chiều nào chúng tôi cũng lên đê ngồi hóng gió và nói chuyện về con cá một mắt
biết bay. Trong những cuộc trò chuyện đó, tôi chỉ ngồi im lặng. Cuối cùng tôi
nói với lũ bạn:
- Chúng mình phải bắt
con cá ấy.
Nghe tôi nói vậy, cả
bọn nhao nhao:
- Mày điên rồi hả. Cả
xóm cả làng chẳng bắt được. Thế mà mày lại đòi bắt.
- Nó chỉ quẫy một
cái là mày bay lên giời.
- Nếu thằng Mon bắt
được tao gọi nó bằng bố.
Tôi nhìn lũ bạn:
- Trước khi ông Bộc
chết, ông Bộc nhờ tao bắt con cá một mắt.
Rồi tôi kể cho lũ bạn
xóm trại nghe câu chuyện của ông Bộc. Sau khi tôi kết thúc câu chuyện, lũ trẻ
ngồi im lặng rất lâu.
- Tao cũng nghe ông
tao kể thế - Một đứa lên tiếng.
- Thế ông Bộc nhờ mỗi
mình mày thôi à? - Một đứa khác hỏi.
- Ông Bộc nhờ tất cả.
- Tôi nói - Ông ấy mua quà cho tất cả chúng mày, quên rồi à?
- Nhưng bắt bằng
cách nào? - Một đứa hỏi.
- Tao biết rồi! - Một
đứa khác reo lên. - Chúng mình đào quả bộc phá của lão Bương lên mà đánh con
cá.
Nghe vậy, mấy đứa
khác phản đối:
- Không được đâu.
Không được đâu. Đã thề là không sờ đến quả bộc phá cơ mà.
- Đúng thế! - Tôi
nói - Tao có cách.
- Cách gì?
- Cách gì?
Cả bọn lại ầm ĩ hỏi.
- Rồi tao sẽ nói với
chúng mày, để tao nghĩ đã. Tối nay lên đê họp bàn. Cấm đứa nào bỏ cuộc đấy.
Sau đó lũ trẻ chúng
tôi giải tán. Thằng Mên chạy theo tôi hỏi:
- Anh Mon, anh tính
bắt con cá bằng cách nào?
- Đã bảo để tao nghĩ
mà lị.
Cả buổi chiều tôi lẩn
thẩn đi dọc chân đê. Tôi cảm thấy mình bỗng lớn hẳn lên.
Năm nay tôi đã mười
bốn tuổi.