Bùa may mắn – Phần 2:Những cô gái chỉ thích vui đùa-P2
4.Một nửa niềm vui là
đến đó
Một người bạn là một
món quà mà bạn tặng cho chính mình.
Robert Louis Stevenson
Chưa bao giờ trong tâm tưởng chúng tôi nghĩ rằng mình sẽ làm
điều gì đó thật kỳ quái. Dù lúc ấy đang là kỳ nghỉ hè, song hai đức lang quân
của chúng tôi vẫn phải đi làm. Ấy thế nhưng, Annette, đang bụng mang dạ chửa
sắp tới ngày sinh, và tôi, đầu gối đau nhức, vẫn quyết định đưa bọn trẻ hai nhà
đi nghỉ mát. Với năm nhóc sàn sàn dưới bảy tuổi, chúng tôi biết chuyến đi của
mình có phần nào hơi mạo hiểm.
Chúng tôi cẩn thận chất đồ lên chiếc xe tải nhỏ. Với cả đống
túi ngủ, năm khẩu súng nước, thực phẩm ăn nhanh, và một bộ phim tình cảm mới
nhất dành cho chị em phụ nữ, chúng tôi lên đường, trực chỉ về phía những ngọn
núi. Chúng tôi nói chuyện vãn cho qua thì giờ, nhưng những đứa trẻ đã bắt đầu
ngồi không yên.
“Nó đụng con!”
“Làm sao nó không đụng con được, chúng ta xếp lên xe như cá
hộp thế này cơ mà.”
“Chừng nào chúng ta mới đến đó?”
“Này,” Annette nói bằng giọng điệu cô giáo, “Một nửa niềm
vui là đến đó.”
Vài tiếng sau, chúng tôi chạy vòng quanh ngọn núi và chẳng
mấy chốc đã đến được bậu cửa ngôi nhà nghỉ mát trên núi của bố mẹ tôi ở
Oakhaven.
“Ai giữ chìa khóa vậy?” Một trong mấy đứa trẻ hét toáng lên.
Chìa khóa! Ôi không! Trong lúc chất đồ lên xe, tôi đã để
chìa khóa trên bàn bếp rồi. Tôi đã quên lửng nó. Lập tức tôi thầm cầu nguyện thật
nhanh. Rồi khoác tay Annette, tôi thì thầm vào tai cô ấy, “Có phải cậu đã nói
một nửa niềm vui là đến được đây không? Chúng ta chưa vào bên trong, còn chìa
khóa thì đang ở nhà tớ, trên bàn bếp!”.
Nhanh chóng biến tình cảnh trớ trêu của chúng tôi thành một
trò chơi, Annette, bọn trẻ và tôi bắt đầu lay mọi cánh cửa chính và kiểm tra
mọi cánh cửa sổ để tìm đường vào trong nhà.
“Nhìn này!” Annette la lên. “Cánh cửa sổ phòng bếp phía trên
bồn rửa không có khóa an toàn. Janet, nếu cậu đỡ tớ lên, tớ có thể mở được cửa
sổ và bò vào trong.”
“Cậu có thể làm gì? Cậu đang có thai cơ mà!”
“Ừ, nhưng mà cậu không làm được đâu. Đầu gối của cậu đang
đau cơ mà.”
Trước khi tôi kịp suy nghĩ thì cả năm đứa trẻ đứng reo hò cổ
động, nhìn Annette bò vào cửa sổ, còn tôi thì đang đỡ cô ấy. Khi bàn chân của
Annette khuất khỏi tầm mắt, cô ấy la lên, “Mẹ ơi, nhớ là một nửa niềm vui là
vào được đó nhé!”
Chúng tôi đã có một kỳ nghỉ tuyệt vời ở Oakhaven. Bọn trẻ
cười đùa, đi bách bộ quanh vùng, và thậm chí còn học được cách huýt gió bằng
trái sồi. Annette và tôi có thời gian trò chuyện với nhau như thời còn đi học,
và một đêm, đợi đến khuya khi bọn trẻ đã lên giường, chúng tôi cuộn mình ngồi
xem bộ phim tình cảm của chúng tôi.
Nhìn lại những ngày Annette và tôi dám liều mạng cùng bọn
trẻ lóc nhóc lên núi chơi, cả hai đều mỉm cười. Đến bây giờ chúng tôi đã biết
chắc chắn một điều rằng một nửa niềm vui của thời kỳ làm mẹ là chia sẻ nó với
một người bạn.
JANET LYNN MITCHELL
5.Mối giao hảo tuyệt
vời
Nếu như cứ mỗi lần
nghĩ đến bạn là tôi có được một bông hoa, thì tôi có thể đi mãi không hết được
khu vườn hoa của mình.
Claudia Grandhi
Bất cứ khi nào nhấc điện thoại mà tôi nghe thấy có người nói
“A-yuh-n” thì chắc chắn đó là Karen đang gọi. Chưa có ai khác từng kéo tên tôi
ra thành ba âm tiết cả. Chưa khi nào cô ấy ngừng lại để nêu danh tánh, cô ấy cứ
thế là vào câu chuyện thôi. Tôi sẽ trả lời điện thoại, nghe thấy tên mình bị
kéo dài và biết Karen có điều gì đó muốn chia sẻ với tôi.
Suốt hai năm trời giọng nói của cô ấy là giọng nói khiến tôi
phải ngừng mọi thứ lại và ngồi xuống. Cái giọng nói mềm mại, chầm chậm ngân nga
của cô ấy luôn chất chứa tình yêu. Dù chủ đề của cuộc nói chuyện có tầm phào
hay khẩn cấp, thì tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp trong giọng nói ấy. Việc tôi
yêu quý những cuộc gọi điện ấy khiến giờ đây tôi rất vui sướng.
Không phải chúng tôi nói về mọi thứ trên trời dưới đất, mà
cuộc nói chuyện của chúng tôi thường là “Những cuộc trò chuyện của các bà mẹ”
luôn có thể biết trước chủ đề. Cô ấy sẽ kể về một sự cố buồn cười xảy ra trong
tiệm tạp hóa, sẽ thông cảm với tâm trạng nắng mưa của các cô con gái đang tuổi
dậy thì của chúng tôi, hoặc sẽ nhắng lên không biết phải mua loại cún con nào
cho ba nhóc hiếu động nhà cô ấy. Chẳng có câu chuyện nào cực kỳ quan trọng hay
đáng ngạc nhiên cả, chỉ toàn những trải nghiệm hàng ngày được kể ra và được
chia sẻ mà thôi.
Rồi cô ấy đi xa. Căn bệnh bạch cầu chẳng biết đến từ đâu và
biến đi mất cùng nhanh và tàn nhẫn như khi nó xuất hiện.
Sự thiếu vắng mà cô ấy để lại khiến tôi không thể chịu nổi.
Tóc của tôi bắt đầu rụng từng mớ mỗi khi chải, và tôi thường hay đứng bất động,
nước mắt vòng quanh vào những lúc không ngờ – khi đứng chỗ đèn giao thông, hay
lúc đứng dưới làn nước ấm từ vòi hoa sen. Bạn thân yêu của tôi đã ra đi mãi mãi
rồi.
Vài năm trước khi chúng tôi gặp nhau, tôi là một nhân viên
trẻ tuổi gần như lúc nào cũng làm việc cùng với toàn là đàn ông. Tỷ lệ nam nữ
nơi tôi làm thường là 1:10 nghiêng về họ. Tôi bắt chước cung cách của đàn ông
và thích thú việc tôi trông rất giống mấy gã trai. Như những phụ nữ trẻ đầy
tham vọng của thập niên 70, tôi đi may trang phục công sở theo kiểu đàn ông, và
cảm thấy mọi thứ đáng kể trong cuộc sống toàn xảy ra bên ngoài gia đình.
Chúng tôi, những cô gái sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân
số, lớn lên trong kỷ nguyên “Phụ nữ tự do”, nên không đánh giá cao những người
làm mẹ và nội trợ. Lúc gặp Karen là khi tôi đã ngoài ba mươi. Tôi chẳng hề có
một người bạn gái thật sự nào kể từ hồi học trung học cho đến thời điểm đó. Khi
tôi sinh đứa con đầu lòng mọi chuyện vẫn chẳng thay đổi. Có nhảm nhí không khi
xén bớt thời gian ít ỏi dành cho gia đình chỉ để đi kết bạn cho mình? Thế rồi
khi gia đình chúng tôi chuyển ra ngoại ô sống, cái kiểu đánh đổi chốn đô thị để
con cái được học ở những trường tốt, tôi đã có rất nhiều quan điểm, thái độ
liên quan đến bản sắc của các bà mẹ ở địa phương.
Ở đây các bạn có thể vượt xa tôi, nhưng tôi phát hiện thấy
có một điều đáng kinh ngạc rằng những phụ nữ có đầu óc hạn hẹp rập khuôn như
tôi không hề tồn tại.
Tất cả những phụ nữ quanh tôi đều đang cải thiện và tái tạo
thế giới sao cho phù hợp với họ: phụ nữ ở mọi lứa tuổi, mọi giai tầng khác nhau
trong xã hội, đều đang khâu những mảnh vải đơn lẻ “làm cha mẹ” và “cuộc sống”
không ăn rơ lại với nhau, để tạo thành những tấm chăn ghép vải hoàn chỉnh.
Những bà mẹ mà tôi gặp hóa ra đều là những nhà tâm lý học,
những nhà huấn luyện của các tập đoàn, những nghệ sĩ, những nhà thiết kế, giáo
viên, các nhà quản trị văn phòng, nhà văn, caĩ, diễn viên, v.v.
Họ cũng là những nhà theo thuật luyện kim: pha trộn công
việc và mái ấm theo các tỷ lệ khác nhau để đổ vào gia đình và cộng đồng những
nguồn dự trữ năng lượng khổng lồ. Trong sân chơi chung hay những lần công tác
tình nguyện nơi trường học, tôi đã khám phá những người phụ nữ đầy sáng tạo, có
ý chí và đầy quyền năng.
Karen đã chọn việc làm mẹ toàn thời gian suốt những năm
chúng tôi là bạn bè của nhau. Mỉa mai thay, chính cô ấy lại là người mở mắt cho
tôi nhìn thấy niềm vui được bỏ thời gian ra để ở bên một người bạn đồng trang
lứa mới của mình. Là một phụ nữ duyên dáng trưởng thành từ nông thôn nước Mỹ,
nhịp sống của cô ấy chậm hơn nhịp sống của phụ nữ thị thành là tôi. Cô ấy hay
dành thời gian để gặp gỡ mọi người.
Những cuộc gọi điện thoại vào buổi chiều bên tách cà phê trở
thành một nghi thức nuôi dưỡng tâm hồn, giúp tôi cân bằng được những trái banh
cảm xúc đang được tung hứng; nào là trái banh dành cho nghề nghiệp, nào là trái
banh cho con cái, nào là trái banh cho gia đình.
Cô ấy cho phép tôi được lặp đi lặp lại những lo lắng hay
những vấn đề đang gặp phải, cho đến khi nào các giải pháp được tìm thấy, hoặc
ít nhất là đầu óc tôi được bình tĩnh trở lại. Hay hơn nữa là cô ấy còn có thể
làm cho tôi tự cười mình khi cô ấy tự cười cô ấy. Cô ấy thậm chí còn cười được
cả chuyện tập cho con đi vệ sinh.
Cứ thử đi nói những chủ đề thế này với một đồng nghiệp nam
có được hay không.
Tình bạn của cô ấy là một món quà quý giá. Nỗi buồn của tôi
trước sự ra đi của cô ấy sâu sắc đến thế là vì tôi cứ cảm thấy mình đã mất đi
món quà ấy mãi mãi.
Tôi đã lầm. Chẳng bao lâu tôi phát hiện ra rằng món quà của
Karen dành cho tôi không đơn thuần chỉ là tình bạn. Nó còn là niềm vui khi có
được những người bạn gái. Đấy là một di sản vẫn còn lại với t
Tôi lại khám phá ra di sản ấy trên gương mặt của một người
bạn đã làm dịu đi nỗi buồn của tôi trước cái chết của Karen. Tôi tiếp tục tìm
thấy nó trong các chuyến đi dã ngoại vào ngày 4 tháng Bảy của cô ấy. Nó lại ở
trong nụ cười kiên nhẫn của một người bạn khác khi các con trai của chúng tôi
quá thích phiêu lưu mạo hiểm, và những lời mời của một người bạn khác vào hoạt
động chính trị.
Giờ đây khi điện thoại của tôi reo lên, chỉ trong một giây
là tôi biết ngay ai đang gọi đến. “Có muốn nghe một chuyện vui vui không?”
chính là Kim cùng với một câu chuyện muốn kể; cái giọng chói lói hỏi “Anne đó
hả?” là Paula với gương mặt cười toe toét; câu nói cụt lủn “Chào Anne,” là
Maria đang muốn bàn bạc kế hoạch.
Các bạn ấy không cần phải tự giới thiệu; giọng của các bạn
chính là một phần chất liệu tạo nên cuộc sống của tôi, cũng như giọng của Karen
là một phần chất liệu dệt nên ký ức của tôi. Khi nghe tiếng họ, tôi ngừng mọi
việc lại và lắng nghe, vì biết rằng mỗi người trong họ đều đang tặng tôi một
món quà, nhờ có chúng cuộc sống của tôi phong phú hơn nhiều.
Dĩ nhiên chẳng có ai trong những người bạn này muốn biến tên
tôi thành một cái từ tuyệt vời đầy những âm tiết. Tôi có Karen để cám ơn vì
điều đó… và cũng để cám ơn vì đã cho tôi một quãng đời có được những mối giao
hảo tuyệt vời.
ANNE MERLE
6.Những cánh cửa rộng
mở
Những cánh cửa chúng
ta mở ra và đóng lại mỗi ngày đã quyết định nên cuộc sống mà chúng ta đang
sống.
Flora Whittlemore
Có đến ba mươi hai
cặp mắt của các em thanh thiếu niên nhìn vào tôi, và tôi bắt đầu đổ mồ hôi. Hôm
nay ở đây, tại trường trung học Kennedy ở Denver, là Ngày Nghề nghiệp, và tôi
đang đứng nói chuyện về nghề phóng viên quốc tế của tôi.
Đến bây giờ bài nói chuyện của tôi vẫn chẳng ổn lắm. Cái anh
chàng trai trẻ ở góc cuối phòng đang thiu thiu ngủ, còn một cô gái ở hàng ghế
đầu đang mải bấm điện thoại di động chơi trò chơi điện tử. Trong đôi mắt của
hầu hết những người khác là một ánh nhìn đờ đẫn.
Bất chấp chuyện ấy, tôi lao vào kể tiếp câu chuyện của mình,
mô tả những chuyến công tác ở Thái Lan, những cuộc phỏng vấn ở Anh và những câu
chuyện ở Singapore.
Nhưng tôi cũng có thể kể về mặt trăng cho họ nghe. Đối với
hầu hết những học sinh này, phần còn lại của thế giới là một nơi xa lắc. Họ ít
biết về nó và nói thẳng ra là họ chẳng thích gì những chuyện ấy.
Và ai có thể trách được họ? Tôi cũng từng cảm thấy như họ
vậy.
Sau rốt, khi bạn lớn lên giữa một đất nước to lớn và hùng
mạnh, nơi mà sự trải nghiệm với các vùng đất khác và những cách sống khác, ở
mặt nào đó bị giớihạn, thì nó có thể khiến bạn tin rằng phần còn lại của thế
giới cũng giống hệt như nơi bạn đã lớn lên. Vậy hà cớ gì phải đi khám phá những
vùng đất mới? Tôi từng ít để tâm đến những quốc gia, những nền
Cho đến khi tôi gặp Melanie.
Chúng ta ai cũng từng có người nào đó, một cách tình cờ,
bước vào cuộc sống của chúng ta, ảnh hưởng đến chúng ta hoặc thay đổi chúng ta
về mặt nào đó.Có một người đã tác động đến tôi là một cô gái hai mươi tuổi đến
từ Iowa.
Năm đó tôi vào học cao đẳng ở Indiana, và tôi đã gặp Melanie trong đội
bóng mềm của trường. Thật ra chúng tôi không được vào sân chơi nhiều, mà thường
là ngồi ngoài ôm vết thương và xem đồng đội chơi hết trận này sang trận
khác.Trong khi đội của chúng tôi giương buồm đi đến chiến thắng mà không có mặt
của chúng tôi, thì Melanie và tôi ngồi trên băng ghế và trò chuyện với nhau.
Cuối cùng chúng tôi trở thành một đôi bạn cùng phòng.
Melanie rất khác với bất kỳ người nào tôi từng biết. Cô ấy
luôn làm tôi cười ngất với cái khiếu pha trò dí dỏm của mình. Nhưng trên tất cả
cô ấy là một tay kể chuyện tuyệt vời. Các câu chuyện cô kể luôn khác nhau, vì
thật sự cô ấy đã từng ra nước ngoài.
Ngày qua ngày, cô ấy dệt bao câu chuyện về những vùng đất
tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra được. Cô kể về những ngôi làng đáng mơ ước ở Áo
với những con đường cổ kính, nhỏ hẹp. Cô kể về những anh chàng Hà Lan đẹp trai,
cao to và cảm giác phấn khích khi chạy xe băng băng trên các xa lộ ở châu Âu.
Đầu tiên tôi rất thờ ơ, nhưng cuối cùng tôi đã bắt đầu lắng
nghe, trong đầu hình dung ra thế giới mà cô ấy tô vẽ nên bằng ngôn từ. Dần dần,
như chú rùa nhẫn nại, Melanie đã hạ gục tôi.
“Được rồi!” Một tối nọ tôi nói sau khi nghe một câu chuyện
dài mô tả sự phấn khích khi đi du lịch. “Tớ đầu hàng! Tớ muốn tự đi xem những
thứ đó. Nào chúng ta đi!”
Thế là chúng tôi lên đường.
Cú sốc văn hóa đến với tôi ngay khi chúng tôi đặt chân xuống
Rotterdam trong
chuyến du lịch kéo dài một tuần vào kỳ nghỉ giữa học kỳ. Bị vây quanh là những
âm thanh đứt từng từ của người Hà Lan, tôi cảm thấy mình như con cá bị đưa ra
khỏi nước. Tôi muốn lao nhanh trở lại máy bay và quay về với những thứ quen
thuộc của quê nhà.
Nhưng tôi dường như bị mắc kẹt ở đây, vì thế tôi phải lẽo
đẽo theo Melanie đi khắp các đường phố ở Rotterdam.
Cô ấy cười nói với những người cô ấy gặp, chẳng sợ những thứ mới mẻ mà cô ấy
nhìn thấy. Dần dần tôi bắt đầu nhìn thế giới mới này qua cặp mắt của cô ấy. Sự
khó chịu ban đầu của tôi đã chuyển sang tò mò, và rồi là sự thích thú thật sự.
Chúng tôi đã đón Giao thừa ở Rotterdam, và tôi ngắm nhìn một
cách nể phục khi người dân địa phương đổ ra đường vào đêm hôm đó, đốt những cây
pháo bông đồ sộ, uống thức uống nóng và chào hỏi nhau (và cả tôi!) bằng hai cái
hôn lên má.
Ngay lúc ấy, dù tôi không thể hiểu lấy một từ của những
tiếng nói đang vây quanh tôi, tôi cũng mỉm cười hạnh phúc. Nơi vùng đất mà tôi
cảm thấy xa lạ như sao Hỏa bỗng chốc biến thành thân quen như quê nhà.
Từ Rotterdam, Melanie và tôi thuê một chiếc Peugeot nho nhỏ
và bắt đầu thẳng tiến đi vòng quanh châu Âu. Chúng tôi dò tìm đường đi qua
những vùng quê, có lúc bị lạc, nhưng chúng tôi luôn dừng lại để nhờ những chú
bé dễ thương chỉ đường. Chúng tôi gặp những khó khăn với những ngôn ngữ mới và
dĩ nhiên là cả những nền văn hóa mới, nhưng Melanie chỉ cười và xem đấy là một
cuộc thám hiểm lý t
Chúng tôi lái xe băng qua Hà Lan và Đức, nhưng chính nước Áo
mới là vùng đất chiếm lấy trái tim tôi. Vẻ đẹp của dãy Alps bao quanh Salzburg đã khiến tôi
choáng ngợp; và trong những phút thư giãn uống cà phê – một phần không thể
thiếu trong văn hóa nước Áo, tôi đã khám phá ra phần chưa từng biết đến trong
tôi. Tôi khám phá ra được niềm vui bình lặng khi mỗi chiều ngồi quanh chiếc bàn
nhỏ, uống cà phê đen với kem đánh và trò chuyện về ý nghĩa của cuộc sống với
những bạn bè mới.
Có lẽ đó là lý do tại sao chúng ta bị kéo vào chuyến du
lịch; vì việc rời mái ấm gia đình và lên đường đi thám hiểm những vùng đất khác
của thế giới đã hé mở cho thấy một phần của con người chúng ta mà chúng ta sẽ
chẳng khi nào phát hiện được. Bằng việc tìm hiểu về những người khác, chúng ta
biết rất nhiều điều về chính chúng ta.
Vienna
là vùng đất còn thú vị hơn nữa. Đi tản bộ cùng Melanie và những bạn mới người
Áo vào lúc nửa đêm trên những con phố rải đá cuội của thành phố xưa kia vốn
thuộc đế chế, tôi khó có thể ngăn được cảm xúc vui thích của mình. Tôi biết có
một điều gì đó tận sâu thẳm trong tôi đã được đánh thức.
Chín tháng sau chuyến hành trình gian nan đầu tiên đến châu
Âu, tôi hoàn tất việc học ở cao đẳng và chuyển đến Áo học đại học trước khi
quay về Mỹ. Cuộc đời tôi đã ngoặt sang một con đường hoàn toàn mới.
Buồn thay con đường đó không có Melanie. Cô ấy tốt nghiệp
xong và trở thành giáo viên. Đúng với lòng yêu thích mạo hiểm của mình, cô ấy
đã chọn công việc ở một thành phố, một nền văn hóa hoàn toàn mới lạ: San Antonio, Texas.
Niềm đam mê khám phá những nền văn hóa, những vùng đất mới
cũng chẳng bao giờ từ bỏ tôi. Tôi dần trở thành một phóng viên, và sau đó là
biên tậho một tạp chí du lịch quốc tế.
Hầu như Melanie và tôi mất liên lạc với nhau gần cả một thập
niên. Thế rồi một ngày nọ một đồng nghiệp hỏi tôi, “Tại sao chị chọn con đường
sự nghiệp này vậy?”
Trong đầu tôi lập tức hiện lên hình ảnh Melanie đang trò
chuyện trong bữa ăn tối tại căn tin trường cao đẳng, kể cho tôi nghe các câu
chuyện về những thế giới tôi chưa từng biết đến. Đó là lúc tôi đi tìm lại tung
tích của người bạn mà tôi đã mất liên lạc quá lâu.
Tối đó tôi tìm bố mẹ của Melanie trên mạng Internet và tôi
đã gọi cho hai bác. Tôi biết được hai bác ấy vẫn còn sống ở Iowa và cô bạn cũ
cùng phòng của tôi đã trở thành hiệu trưởng, đã đưa cả ngôi trường cùng niềm
đam mê của cô đi đến thành công và đạt được thành tựu. Tôi mỉm cười sung sướng
khi bấm số gọi điện cho cô ấy.
Với một số người bạn, những năm tháng xa cách biến mất lúc
nào chẳng rõ và tình bạn của hai người ngay lập tức trở lại thân thiết như xưa.
Đó là trường hợp của Melanie và tôi. Trong vòng vài phút, cô ấy lại làm tôi phải
phá lên cười khi chúng tôi trò chuyện với nhau. Cuộc sống vẫn diễn ra tốt đẹp,
và bạn tôi đã rất thành công. “Nhưng tớ thật sự đã bỏ lỡ cơ hội đi du ngoạn đó
đây,” cô ấy thừa nhận.
Thế là chúng tôi điều chỉnh ngay chuyện này. Mỗi năm chúng
tôi sẽ lại gặp nhau ở một nơi nào đó trên thế giới và cùng nhau bỏ ra một tuần
đi khám phá. Năm ngoái chúng tôi đến những hòn đảo thuộc Scotland; năm nay sẽ
là Thụy Sĩ. Ai mà biết được năm sau chúng tôi sẽ đến đâu?
Melanie là lý do mà tôi đang đứng trước lớp này vào ngày hôm
nay. Thế là tôi ngừng nói, tôi hít một hơi thật sâu và thử chuyển sang nói theo
góc độ khác.Quên đi những câu chuyện về nghề phóng viên; có những câu chuyện
còn hay hơn nhiều
Thế là tôi bắt đầu nói về những lễ hội ở Hà Lan, về những
ngôi làng đáng mơ ước ở Áo và niềm phấn khích khi phóng xe vèo vèo trên các đại
lộ ở châu Âu. Và xa xa nơi góc lớp, tôi thấy có cái gì đó được khơi dậy. Cậu
trai phía đằng sau đã thức dậy, và tôi không ngăn được nụ cười sung sướng.
Dù gì thì chỉ cần có một người mở mắt cho bạn nhìn ra thế
giới.
JANNA GRABER