Bùa may mắn – Phần 4:Những người bạn không trông đợi-P2

3.Món quà của Ute

Tôi vội vã lái xe đi, tôi không thể tin được nơi mình sắp
đi. Đó là một sáng thứ Bảy, tháng Chín năm 1991, chuông điện thoại reo và tôi
được thông báo là Ute thân yêu của ti đã bị một kẻ lái xe đâm rồi bỏ trốn khi
cô ấy chạy bộ buổi sáng. Cô ấy đang hôn mê và trông chẳng có vẻ gì là có thể
qua được cơn nguy kịch này.

Tôi vẫn còn choáng váng khi đến được bệnh viện và thấy chồng
cô ấy cùng một số người bạn tôi láng máng nhận ra đang trong phòng chờ dành cho
người nhà bệnh nhân. Cùng ngồi chờ trong phòng là Linda, bạn thân của Ute.
Chúng tôi đã gặp nhau vài tháng trước trong một buổi tiệc sinh nhật không báo
trước mà Ute tổ chức cho chồng mình.

Ute không có nhiều bạn gái. Hầu hết các phụ nữ đều rụt rè
trước sắc đẹp lộng lẫy của Ute và chẳng bao giờ chịu tìm hiểu một sắc đẹp tương
tự trong tâm hồn của cô ấy. Linda là bạn thân của Ute đã được hai mươi năm. Tôi
gặp Ute khi cả hai con trai của chúng tôi cùng học ở ngôi trường nội trú tại
New England, không lâu trước khi Ute và tôi tạo dựng được một mối quan hệ bằng
hữu khắng khít.

Giờ đây, nơi hành lang của bệnh viện, Linda và tôi ôm nhau
khóc như thể chúng tôi là bạn bè lâu năm lắm rồi. Tuần kế tiếp là ác mộng đối
với tất cả mọi người, những buổi thức canh hàng ngày kéo chúng tôi gần hơn đến
điều không thể tránh khỏi. Thứ Sáu, cả gia đình đi đến một quyết định đau lòng
là rút các thiết bị kéo dài sự sống của Ute ra. Trước đó một tuần, Linda và tôi
biết rất ít về nhau, còn giờ đây chúng tôi tay nắm tay đi theo hành lang dài,
mắt mờ đi vì nước mắt, nói lời từ biệt đến người bạn thân thiết của chúng tôi.
Khi những giờ phút cuối của Ute trôi qua, chuông bắt đầu cất lên bệnh viện. Đó
là giây phút rất siêu thực, như thể mọi người cần phải biết về sự mất mát của
chúng tôi. Chính vào lúc ấy, thế giới đã mất đi một con người rất đỗi duyên
dáng và điềm đạm. Điều khủng khiếp ấy đang diễn ra và đè nặng lên tôi.

Tình bạn giữa Linda và tôi có thể đã kết thúc ngay lúc ấy,
nhưng điều kỳ lạ nhất đã xảy ra: suốt những tuần kế tiếp, chúng tôi gọi điện
cho nhau mỗi ngày, thỉnh thoảng có ngày gọi điện những hai lần. Chúng tôi an ủi
và hỗ trợ nhau vượt qua cảm giác sốc trước cái chết của Ute. Tâm trí chúng tôi
cũng có hình bóng của nhau.

Chúng tôi bố trí thời gian trong lịch để gặp nhau, thường là
ra ngoài ăn tối với chồng của chúng tôi, Herb và Hal. Chẳng mấy chốc chúng tôi
khám phá ra cả hai chúng tôi đều có những chiếc đĩa trắng giống nhau, những tấm
khăn ăn giống nhau, những ca uống cà phê giống nhau và cả cái lò nướng bánh mì
có tay nắm đỏ xấu xí cũng hệt nhau. Cả hai chúng tôi đều có tính nghệ sĩ và
sáng tạo, đều yêu thú vật và những cái đẹp. Trên tất cả là chúng tôi đều yêu
thương Ute.

Thời gian trôi qua, hai cặp vợ chồng chúng tôi cùng đi du
ngoạn với nhau, yêu thích gia đình của nhau, cùng tổ chức ăn mừng các ngày lễ,
ngày kỷ niệm, và thực hiện một truyền thống bắt đầu từ nhiều năm trước đây giữa
Ute và Linda và chồng của hai người. Mỗi năm chúng tôi sẽ đón Giao thừa cùng
nhau, chỉ có bốn chúng tôi, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa.

Linda và tôi đã hun đúc một tình thân rất hiếm hoi, còn hơn
cả tình cảm giữa hai chị em gái. Khiếu hài hước của chúng tôi khiến chúng tôi
cười ngày này qua ngày khác. Chúng tôi cực kỳ tin tưởng và bảo vệ nhau, cứ như
sự thoải mái của một tấm chăn ấm áp mang lại. Linda luôn nằm ở trung tâm của
nhiều tình bạn. Mỗi một người bạn đều cảm thấy mình có phúc và có vinh dự khi
được xem là một phần của cuộc sống của cô ấy. Cô ấy giúp tôi có thể nói lời yêu
thương với những người quan trọng trong cuộc đời tôi, điều mà tôi thường thấy
thật khó làm.

Cả hai chúng tôi đều có cuộc sống bận bịu. Tôi là nhà thiết
kế các tấm thiếp nghệ thuật thủ công, có phòng làm việc tại nhà. Linda, một y
tá chăm sóc người bệnh tâm thần, trở lại trường học ở tuổi bốn mươi mốt để lấy
bằng tiến sĩ tâm lý. Trong khi Ute luôn có mặt bên Linda trong suốt những năm
học tập và nghiên cứu, thì tôi có mặt trong giờ phút kết thúc. Vào ngày vui tốt
nghiệp cũng có Ute hiện diện giữa gia đình Linda nơi hàng ghế khán giả.

Năm năm sau bi kịch lại đến. Hal, chồng cô ấy, người bạn thân
yêu của chúng tôi phát bệnh ung thư và mất chỉ trong vòng bảy tuần. Linda bị bỏ
lại, không còn người bạn tâm giao ba mươi mốt năm. Có những lúc tôi cảm thấy
mình thật vô dụng, khi trái tim tôi như vỡ ra thương cho cô ấy và hai cậu con
trai tuyệt vời. Nhưng tôi biết mình vẫn có ích chỉ bằng việc luôn có mặt bất cứ
khi nào cô ấy cần đến t

Cái ngày trước khi Hal mất, một điều khó tin đã xảy ra.
Linda, sau khi từ bệnh viện về nhà vào chiều hôm đó, bắt đầu phân loại thư từ
trong ngày. Trong số rất nhiều phong bì, cô tìm thấy một bức thư quảng cáo cũ
về một cuộc hội thảo sắp tới. Khi cô tính vứt nó đi thì cô bỗng sững người. Bức
thư gửi đến cho Ute nhưng bằng địa chỉ của Linda. Địa chỉ của Ute đã bị gạch bỏ
và địa chỉ của Linda được viết tháu bằng bút chì vào, chữ viết tay trông thật
bất thường và của người hầu như mới biết viết. Sao lại thế được và điều này có
nghĩa là gì? Trong suốt năm năm qua Linda chưa từng nhận được bức thư nào gửi
đến cho Ute. Tất cả chúng tôi đều choáng váng và sững sờ, và đến ngày hôm sau,
sau khi Hal mất, chúng tôi chỉ có một giải thích duy nhất: đó là cách Ute cho
chúng tôi biết Ute có mặt và chờ đợi Hal.

Như thể hiện tượng này cũng chưa đủ, dường như Ute còn biết
chắc chắn là chúng tôi đã hiểu được điều đó. Khi đã sẵn sàng cho tang lễ của
Hal, các con trai của Linda đề nghị bỏ một tấm hình của Ute vào quan tài của
Hal cùng với những vật kỷ niệm có ý nghĩa khác. Họ đã tìm khắp và cuối cùng chỉ
tìm thấy một tấm. Thật kinh ngạc, đó là một tấm ảnh của Ute đã bị quên từ rất
lâu, trong hình là Ute đang tươi cười rạng rỡ, tay cầm một quả bóng to, trên có
đề chữ, “Chào mừng về nhà.” Chúng tôi biết bạn của chúng tôi rất gần bên chúng
tôi, gần đến mức chúng tôi có thể chìa tay ra và chạm được cô ấy. Có thể cô ấy
cũng đang chạm vào người chúng tôi.

Niềm vui có được tình bạn của Ute không chết đi. Thay vào đó
nó sống mãi trong tình bạn quý giá mà Linda và tôi giờ đây đang sẻ chia với
nhau. Suốt sáu năm qua, chúng tôi ngày thêm trân trọng tình bạn của chúng tôi
và luôn nhận thấy nó hiện diện trong các tình huống đặc biệt. Chúng tôi giữ
tình bạn của chúng tôi ở vị trí cao nhất và cả hai đều củng cố một niềm tin
rằng tình yêu, lòng tôn trọng và niềm vui mà chúng tôi đem đến cho cuộc sống
của nhau sẽ không bao giờ có thể có nếu như không có cái “Món quà của Ute” này.

WENDI R. MORRIS

4.Ký ức

Tôi biết rằng thế giới
không toàn là người lạ. Nó toàn là những người khác - những người đang chờ đợi
được ta nói chuyện.

Beth Day

Khi Cotha Prior thong dong đi ngang qua cái cửa hiệu mới bán
xà phòng và sữa dưỡng thể, những bánh xà phòng mùi hoa oải hương đặt trong cửa
kính khiến bà chú ý. Monica con gái bà sẽ thích những thứ này lắm đây. Khi đã
vào trong tiệm, Cotha cầm lấy bánh xà phòng gần nhất và đưa lên mũi. Mùi oải
hương đưa bà trở về thời thơ ấu.

Bà nhớ Margie, cô bé học cùng lớp năm với bà, luôn ăn mặc
nghèo nàn, và việc tắm rửa của cô bé không phải là một thói quen được làm đều
đặn. Ngay cả khi còn rất nhỏ Cotha cũng đã biết được bạn bè thường có những
định kiến trong cách chọn bạn, vì thế dù Cotha cảm thấy rất thương cho Margie
nhưng Cotha cũng không dám kết bạn với cô ấy.

Rồi một chiều nọ, khi đang tô màu cho những bang trong bài
tập địa lý làm ở nhà của mình, cô bé Cotha vô tình đề cập về Margie với mẹ.
Người mẹ ngừng ngang công việc khuấy món hầm của mình để hỏi, “Thế gia đình bạn
ấy thế nào?”

Cotha không ngẩng lên. “Ồ, con nghĩ là nghèo lắm,” cô bé trả
lời.

“Chà, có vẻ như con bé cần một người bạn lắm,” bà Burnett
nói. “Tại sao con không mời bạn ấy đến chơi với con vào tối thứ Sáu?”

Cotha ngẩng phắt lên. “Mẹ nói là đến đây ư? Chơi với con à?
Nhưng mẹ ơi, bạn ấy hôi lắm.”

“Cotha Helen.” Khi mẹ gọi nguyên tên ra nghĩa là không được
cãi gì cả, mọi việc đã được quyết. Không được làm gì khác ngoài việc mời Margie
về nhà.

Sáng hôm sau Cotha do dự thì thào lời mời Margie vào cuối
giờ ra chơi, trong lúc bạn bè của em đang treo áo gió lên và chải tóc lại.
Margie nhìn hoài nghi, thế là Cotha nói thêm, “Mẹ mình nói bạn đến được. Đây là
bức thư ngắn mẹ mình gửi cho bạn.”

Hai ngày sau, chúng đi xe buýt từ trường về nhà, trong khi
Cotha cố phớt lờ những ánh nhìn kinh ngạc trên gương mặt bạn bè của em khi
chúng thấy hai em đi cùng nhau. Có bao giờ có chuyện hai đứa con gái lớp Năm
yên lặng hơn thế không? Cotha nghĩ đến những lúc em được mời đến chơi buổi tối
với một người bạn. Chúng sẽ trò chuyện và cười rúc rích với nhau trên đường đến
trạm xe buýt.

Cuối cùng Cotha quyết định miễn cưỡng nói với Margie, “Mình
có một con mèo. Nó sắp đẻ mèo con rồi.”

Mắt Margie sáng lên. “Mình thích mèo lắm.” Thế rồi cô bé cau
mày như thể điều này gợi đến một kỷ niệm đau lòng, rồi nói thêm, “Nhưng ba mình
không thích.”

Cotha chẳng biết nói gì nữa, thế là em quay sang chú ý đến
những thứ bên ngoài cửa sổ xe buýt.

Cả hai cô bé im lặng cho đến khi xe buýt trờ tới một trạm
dừng trước cửa ngôi nhà trắng có cửa chớp màu xanh lá.

Bà Burnett đang trong bếp. Bà chào đón Cotha và Margie một
cách nồng nhiệt, rồi chìa tay về phía bàn, trên có hai ly sữa và bánh chuối.
“Hai con gái ăn chút thức ăn nhẹ trong lúc mẹ chuẩn bị bữa tối nhé?”

Khi bánh chuối đã được thanh toán, bà Burnett chìa cho mỗi
đứa một cuốn sách dạy làm búp bê giấy rất đẹp và cây kéo. Việc mặc những trang
phục lấp lánh cho những cô nàng bằng giấy đem lại cho hai đứa tẻ cái gì đó
chung với nhau để trò chuyện. Đến lúc chúng rửa tay đi ăn tối thì chúng đã có
thể trò chuyện rất hào hứng về trường lớp.

Sau khi đĩa bát đã được dọn rửa, bà Burnett nói, “Đến lúc đi
tắm trước khi ngủ rồi các con gái.” Thế là bà lấy ra những bánh xà phòng ngát
thơm gói trong tờ giấy có hình hoa oải hương. “Vì đây là một buổi tối đặc biệt
nên mẹ nghĩ các con sẽ thích dùng những cục xà phòng thơm,” bà nói. “Cotha đi
tắm trước, mẹ sẽ kỳ lưng cho con.”

Rồi đến lượt Margie. Nếu con bé ngần ngại chuyện có người
lớn tắm cho nó, nó cũng không để lộ. Khi bồn tắm đã đầy, bà Burnett đổ vào đó
hai nắp đầy xà bông tắm tạo bọt của riêng bà. “Con thích tắm xà bông bọt không
Margie?” Bà hỏi cứ như thể ngày nào đứa trẻ này cũng tắm kiểu quý phái như vậy
cả.

Bà quay lại và kéo chiếc váy lấm lem của Margie qua khỏi đầu
em rồi nói, “Bác sẽ quay mặt đi khi con cởi quần ra, nhưng nhớ cẩn thận khi leo
vào bồn tắm đấy nhé. Cái bọt tắm này trơn lắm đấy.”

Khi Margie đã an vị trong làn nước ấm áp, bà Burnett quỳ
xuống và bôi xà bông vào chiếc khăn tắm thật nhiều trước khi chà khắp lưng em.

“Ôi thơm quá,” là những gì Margie thốt lên.

Bà Burnett trò chuyện về việc Cotha và Margie lớn nhanh ra
sao và các em là những cô bé đáng yêu thế nào. Rồi bà lại trát xà bông vào khăn
tắm và tiếp tục kỳ cọ cho đến khi làn da xám của Margie trở nên sáng hồng.

Cotha đã nghĩ, Sao mẹ lại có thể làm được nhỉ? Margie dơ đến
thế kia mà. Nhưng bà Burnett vẫn tiếp tục kỳ cọ một cách vui vẻ, rồi gội đầu
cho Margie vài lần. Khi Margie đã ra khỏi bồn tắm, bà Burnett lau khô lưng em
và bôi phấn thơm lên đôi vai gầy guộc của em. Vì Margie không có mang theo áo
ngủ nên bà Burnett đã tròng một chiếc áo ngủ sạch sẽ của Cotha vào cái đầu giờ
đây đã sạch sẽ cho em.

Sau khi tấn mền gọn ghẽ cho hai trẻ bà Burnett chồm người
xuống hôn hai em chúc ngủ ngon. Margie nhoẻn miệng cười sung sướng. Khi bà
Burnett thì thầm, “Ngủ ngon nhé các con gái,” rồi tắt đèn, Margie kéo chiếc mền
sạch lên tận mũi và thở thật sâu. Cô bé buồn ngủ gần như ngay lập tức.

Cotha rất kinh ngạc khi thấy cô bạn mới của em ngủ nhanh đến
thế; thường thì em và các bạn khác phải trò chuyện và rúc rích cười một đỗi lâu
mới ngủ được. Khi nghe tiếng thở êm êm của Margie, Cotha nhìn những bóng đen in
trên tường và nghĩ về tất cả những gì mẹ em đã làm. Trong lúc Margie tắm, bà
Burnett chưa từng nói điều gì làm hai đứa bối rối, và bà cũng chẳng bình phẩm
gì về nước đục nhờ nhờ trong bồn sau khi Margie tắm xong. Bà chỉ tháo nước ra
và hát khe khẽ suốt thời gian ấy. Bằng cách nào đó Cotha biết mẹ mình đã gột
rửa không chỉ có làn da đen bẩn của Margie.

Những năm sau này cô bé Cotha giờ đã lớn đứng trước cửa hiệu
hương liệu, bánh xà phòng mùi oải hương vẫn đang trong tay nàng, nàng tự hỏi
không biết bây giờ Margie ở đâu. Margie chẳng bao giờ đề cập đến sự chăm sóc
của mẹ Cotha, nhưng Cotha để ý thấy có sự khác biệt ở người bạn gái này. Không
chỉ có việc Margie bắt đầu đến trường với vẻ ngoài sạch sẽ, thư thái, mà trong
em còn có niềm hạnh phúc lấp lánh chiếu đến, có lẽ vì em biết có người quan tâm
đến em. Đến hết năm học đó, Cotha và Margie cùng chơi với nhau trong giờ chơi,
cùng ăn trưa với nhau. Khi gia đình Margie chuyển nhà đi vào cuối năm học đó,
Cotha không còn nhận được tin gì của bạn, nhưng em biết cả hai đã được cách cư
xử của mẹ Cotha ảnh hưởng, tác động.

Cotha mỉm cười rồi nhấc luôn bánh xà phòng mùi oải hương thứ
hai lên. Nàng sẽ gửi một bánh cho mẹ kèm theo một bức thư nói rằng nàng nhớ
những gì mẹ đã làm vào những năm đó – những việc làm không chỉ vì Margie mà còn
vì Cotha nữa.

SANDRA PICKELSMER VÀ BOBBIE VALENTINE

 

5.Nghĩa cử cao đẹp

Tình bạn là sợi dây
bằng vàng cột trái tim của cả thế giới.

John Evelyn

Beverly và tôi chơi thân với nhau đã nhiều năm, và như một
chiếc áo len dùng nhiều lần, tình bạn của chúng tôi đã gắn liền vào đó, từ lúc
chiếc áo len còn dày đến lúc nó sờn mỏng đi. Sau khi ly dị với chồng cách đây
ba năm, cô ấy chuyển nhà đi hết bang này đến bang khác. Chúng tôi giữ liên lạc
với nhau qua những tấm thiếp, những bức thư và qua những cuộc điện thoại hàng
tuần. Cú điện thoại vào tối thứ Bảy trước của cô ấy đã làm thay đổi cuộc sống
của cả hai chúng tôi.

Khi điện thoại reo, tôi hầu như có thể đoán được ai đang ở
đầu dây bên kia. Tôi nhấc ống nghe lên và nói, “Allô?”

“Chào cậu,” một giọng nói khẽ khàng đáp lại.

“Beverly, cậu sao rồi?” Im lặng.

“Tớ phát hiện có một khối u trong ngực tớ,” cuối cùng cô ấy
cũng thì thầm.

Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi. “Cậu có chắc không?”
Tôi tưởng tượng ra cái ánh sáng lấp lánh thường xuất hiện trong đôi mắt của
Beverly bỗng nhòe đi do nỗi khiếp sợ của bạn.

“Cậu đi khám chưa?” Tôi cắn môi

“Rồi. Kết quả sinh thiết dương tính. Ung thư rồi,” cô ấy nức
nở. “Tớ đã được hẹn lịch đi phẫu thuật vào thứ Ba.”

Tôi cố gắng trấn an bạn, nhưng tôi biết Beverly đang rất
khiếp sợ, và tôi cũng vậy. Tôi ra sức giấu nỗi sợ của mình. Chúng tôi trò
chuyện với nhau thêm chút nữa, cố tránh đi chủ đề này. Sau khi gác máy, tôi kể
cho chồng nghe và anh ấy đồng tình rằng tôi nên đi đặt vé máy bay. Dù sao thì
tôi cũng không thể bỏ mặc Bev một mình đối mặt với một tương lai bất ổn.

Hai ngày hai đêm trôi qua. Cuối cùng rồi sáng thứ Hai cũng
đã đến, tôi lái xe chạy một chặng dài đến phi trường gần nhất. Dù đường sá đông
đúc xe cộ có làm tôi xao lãng, nhưng mọi suy nghĩ của tôi vẫn quay về với Bev.
Suốt chặng đường đi tôi liên tục cầu nguyện. Cái ý tưởng cho rằng “UT=C” (ung
thư nghĩa là chết), cứ lan dần khắp đầu tôi. Bảy năm trước tôi đã mất mẹ vì căn
bệnh này.

Khi đến phi trường, tôi ghi nơi đến và đẩy hành lý đến một
thang máy đang mở cửa. Thang máy đưa tôi lên đến tầng bán vé; tôi xếp hàng chờ
khoảng hai mươi phút thì đến lượt mình vào chỗ đặt mua vé và trao thẻ căn cước
cho một cô tóc sẫm cao lớn.

Ngón tay của cô gõ bàn phím một lúc. Cô nhìn mãi màn hình.
Khi cô ngẩng lên và trao lại thẻ căn cước cho tôi, cô nói, “Tôi xin lỗi phải
thông báo cho chị chuyến bay này hiện thời đã có quá nhiều người đặt chỗ. Nếu
chị có thể trở lại vào sáng mai, chúng tôi có thể xếp cho chị đi chuyến bay
khác.”

“Nhưng tôi phải đi chuyến bay này,” tôi lắp bắp. “Đây không
phải là chuyến đi nghỉ mát hay đại loại như thế. Bạn thân của tôi phải giải
phẫu – cô ấy cần tôi.” Một giọt nước mắt thành hình, lớn dần và lăn dài xuống
gò má tôi.

“Tôi rất tiếc. Mọi người ai cũng phải đi, thường thì không
phải là trường hợp này. Kể cả những hành khách vãng lai cũng không ngoại lệ.”

tôi đã đặt chỗ.”

“Vâng nhưng mới chỉ cách đây có hai ngày. Đó là lý do tại
sao chị bị từ chối.” Cô ta nhún vai và nói, “Người kế tiếp.”

Tôi lê bước ra khỏi quầy mua vé và buông phịch người xuống
một ghế trống để ngẫm nghĩ về hiện trạng của mình. Mặt tôi ướt đầm nước mắt.
Tôi mò trong ví ra một cái khăn giấy, chậm chậm má và hỉ mũi. Tiếng người phát
thanh thông báo đợt gọi đầu tiên lên máy bay cho các hàng từ hai mươi đến ba
mươi. Tôi ngồi nhìn một số người đứng lên và vội vã chạy đến kiếm một chỗ trong
hàng. Tôi nuốt nước bọt một cách khó khăn. Cảm giác nặng trĩu trong ngực tôi
oằn xuống tận bụng. Thất vọng, tôi thở dài và cúi xuống thu dọn hành lý.

“Có lẽ tôi có thể giúp được cho chị,” một giọng nói dịu dàng
cất lên. “Tôi đã không ngăn được mình không nghe lén cuộc nói chuyện giữa chị
và người đặt vé.”

Tôi ngước lên nhìn và thấy một người phụ nữ lớn tuổi với đôi
mắt xanh lơ tươi cười đang nhìn tôi. Những tia nắng sớm lọt qua mấy cửa sổ to
tướng rọi chiếu làm ánh lên làn da trắng như ngà của bà. Mái tóc xám bạc mềm
mại ôm lấy khuôn mặt bà. Tôi quệt nước mắt và hỏi, “Làm thế nào ạ?”

“À, tôi có vé và đã được xếp chỗ 7B. Tôi rất vui nếu chị
nhận lấy chỗ của tôi.” Bà vẫy vẫy tấm vé và giấy lên máy bay trước mặt tôi. Đôi
mắt xúc động của bà như nài nỉ tôi nhận lấy.

Tôi muốn lắm nhưng thấy ngần ngại một chút và tự nhủ không
hiểu chuyện này là thế nào.

“Em không thể lấy chỗ của chị được. Chị không nghĩ đến
chuyện đi sao?”

Nụ cười của bà lịm tắt. “Chẳng có ai chờ đợi tôi ở nơi đó
cả. Tôi sống một mình. Ở lại đây thêm một ngày cũng chẳng sao. Con gái tôi sẽ
đến đón tôi về nhà nó. Chẳng nhẽ đám cháu của tôi sẽ không ngạc nhiên à?

Tôi hầu như có thể cảm nhận được sự cô độc của bà. Tôi nói,
“Điều này rất có ý nghĩa với em. Em sẽ không bao giờ có thể trả được ơn này cho
chị. Chị có chắc là em có thể lấy vé của chị không?”

Ánh mắt bà hấp háy. “Đừng có ngốc thế. Đến chỗ người bạn đó
đi.” Bà trao cho tôi tấm vé.

Bị lòng tốt của bà thuyết phục, tôi đã chấp nhận. Chúng tôi
cùng nhau trở lại quầy vé và làm những thủ tục thế chỗ cần thiết. Nhờ vào lòng
cảm thông của bà mà tôi sẽ có thể đến với Beverly và trao cho bạn tình yêu
thương cùng sự quan tâm hỗ trợ của mình. Cảm xúc biết ơn tràn ngập tâm hồn tôi.

Tôi quay về phía người phụ nữ quảng đại kỳ bí này và chìa
tay ra. Bà nắm lấy nó và siết chặt rồi nói, “Một ngày nào đó chị sẽ nhìn thấy
có một phụ nữ đang đau khổ và chị cũng sẽ làm y như tôi.” Bà chớp mắt rồi buông
tay tôi ra.

Chuyến đi của tôi thành công tốt đẹp. Mọi thứ đều ổn đối với
Beverly: Bác sĩ giải phẫu bảo đảm với chúng tôi là ông đã lấy đi toàn bộ khối
ung thư.

Đến ngày hôm nay tôi vẫn thường nghĩ đến người phụ nữ đặc
biệt đã hy sinh sự tiện lợi của mình cho tình bạn của tôi. Tôi sẽ không bao giờ
quên được hành động tốt bụng của bà. Tôi hy vọng là khi đến lượt tôi, tôi cũng
sẽ có thể cho đi một cách thoải mái như bà đã làm và truyền đi lòng tốt mà bà
đã truyền cho tôi.

SUZANNE A. BAGINSKIE

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3