Cuộc đời và những cuộc phiêu lưu của Santa Claus-Chương 10-11

Chương ba

Các Ryl đã tô màu đồ chơi như thế nào

Giờ thì im lặng bao trùm lên Thung lũng Cười. Tuyết phủ
thung lũng như một tấm khăn trải giường màu trắng, những cái gối bông tuyết
nhấp nhô phía trước ngôi nhà nơi Claus đang lo giữ lửa cho lò sưởi. Dòng suối
chảy róc rách dưới lớp băng dày, và mọi loài cây cối cũng như côn trùng đều
phải nép mình vào sát Đất Mẹ để giữ ấm. Mặt trăng bị che khuất sau những đám
mây đen; và những cơn gió, vui thú trong trò tiêu khiển mùa đông của mình, xô
đẩy và cuốn đi những bông tuyết theo bao nhiêu là hướng, khiến chúng không cách
gì rơi được xuống đất.

Claus nghe tiếng gió thổi và rú rít trong lúc chơi đùa mà
cảm ơn các bạn Knook một lần nữa vì đã giúp dựng lên ngôi nhà ấm cúng. Blinkie
lười biếng rửa mặt và nhìn chằm chằm vào đám than trong lò sửa với vẻ cực kỳ mãn
nguyện. Con mèo đồ chơi ngồi đối diện với con mèo nhìn thẳng về phía trước như
mọi con mèo đồ chơi khác.

Đột nhiên Claus nghe thấy một âm thanh lạ, không phải là
tiếng gió. Giống như một lời rên rỉ đau khổ và tuyệt vọng thì đúng hơn.

Chàng đứng dậy và lắng nghe, nhưng gió, càng ngày càng ầm ĩ,
rung lắc cánh cửa lớn và gõ lạch cạch vào cửa sổ để phân tán sự chú ý của
chàng. Chàng đợi cho đến khi gió mệt và cố lắng nghe thêm, để rồi một lần nữa
lại nghe thấy tiếng kêu gào đau đớn ấy.

Claus nhanh chóng khoác áo choàng vào, kéo cao mũ trùm lên
và mở cửa. Gió ập vào và rắc đám vụn than hồng khắp bệ lò, đồng thời thổi thẳng
vào lớp lông của Blinkie, làm cho con mèo phải chui xuống dưới gầm bàn mà lẩn
trốn. Thế rồi cửa được đóng lại và Claus đã ở bên ngoài, lo lắng soi mắt vào
bóng đêm.

Gió phá lên cười, gắt gỏng và cố gắng xô Claus ngã, nhưng
chàng vẫn đứng vững. Những bông tuyết bất lực rơi lơ lửng chặn trước mắt và làm
khuất tầm nhìn, nhưng chàng xua chúng đi và lại nhìn ngó tiếp. Tuyết tràn khắp
mọi nơi, trắng xóa và lấp lánh. Tuyết bao phủ cả mặt đất và lấp đầy không
trung.

Không còn nghe tiếng khóc.

Claus quay người định trở vào nhà, nhưng gió bất ngờ xô tới
khiến chàng ngã nhào vào một đống tuyết. Tay chàng cắm sâu vào trong tuyết và
chạm phải một vật gì đó không phải là tuyết. Chàng nắm chặt lấy vật đó, từ từ
kéo về phía mình, và phát hiện ra đó là một đứa trẻ. Ngay lập tức chàng nhấc
đứa trẻ lên, ôm nó trong lòng và mang nó vào nhà.

Gió lùa theo Claus qua cửa, nhưng chàng nhanh tay đóng cửa
lại. Chàng đặt đứa bé nằm trên bệ lò sưởi, và khi đã phủi lớp tuyết bám trên
người em rồi, chàng nhận ra đó chính là Weekum, cậu bé sống trong ngôi nhà bên
kia

Claus lấy chăn ấm bọc quanh người em và phủi sạch lớp sương
giá trên chân tay em. Một lúc lâu sau Weekum mở mắt ra; khi nhìn thấy mình đang
ở đâu, em mỉm cười hạnh phúc. Thế rồi Claus hâm nóng sữa và cho cậu bé uống
thật từ từ, trong lúc đó, con mèo vẫn quan sát với vẻ tò mò đúng mực. Cuối
cùng, cậu bé cuộn tròn trong vòng tay người bạn của mình, thở dài và ngủ thiếp;
còn Claus, trong lòng ngập tràn vui sướng vì đã tìm được đứa trẻ lang thang, ôm
chặt em vào lòng trong lúc em ngủ vùi.

Gió, thấy không còn trò nào để làm nữa, bèn leo lên đồi và
đi về phương Bắc. Điều này giúp cho những bông tuyết mệt mỏi có thời gian hạ
xuống mặt đất, và thung lũng cũng tĩnh lặng trở lại.

Cậu bé, sau khi đã ngủ đẫy giấc trong vòng tay người bạn của
mình, giờ đã mở mắt và đứng dậy. Sau đó, giống như mọi đứa trẻ khác, em nhìn
quanh phòng và quan sát tất cả những gì trong đó.

“Con mèo thật là dễ thương, Claus à,” cuối cùng em cũng nói.
“Cho em ôm nó nào.”

Nhưng con mèo phản đối và chạy biến đi.

“Con mèo kia sẽ không chạy, Claus à,” cậu bé tiếp tục nói.
“Cho em ôm con đó đi.” Claus đặt món đồ chơi này vào lòng cậu bé, em âu yếm ôm
lấy nó và hôn lên hai cái tai gỗ.

“Làm sao mà em lại lạc trong cơn bão vậy, Weekum?” Claus
hỏi.

“Em đi bộ đến nhà cô em và bị lạc đường,” Weekum trả lời.

“Em có sợ không?”

“Trời lạnh lắm,” Weekum nói, “tuyết chui vào mắt nên em
không thấy gì cả. Em cứ thế mà đi cho đến khi ngã vào trong tuyết mà không biết
mình đang ở đâu, thế rồi gió thổi bôtuyết lên người và phủ kín em.”

Claus nhẹ nhàng xoa đầu cậu bé, em ngước nhìn lên và mỉm
cười.

“Giờ thì em ổn rồi,” Weekum nói.

“Ừ,” Claus vui vẻ trả lời. “Giờ ta sẽ đặt em xuống giường
của ta, và em phải ngủ đến sáng, lúc đó ta sẽ đưa em về nhà gặp mẹ.”

“Cho em ngủ với con mèo này được không?” cậu bé hỏi.

“Được, nếu em muốn,” Claus trả lời.

“Con mèo thật là dễ thương!” Weekum nói, mỉm cười khi Claus
kéo chăn phủ lên người em; và em ngủ thiếp đi với món đồ chơi bằng gỗ trong
tay.

Đến sáng thì mặt trời đòi lại Thung lũng Cười và tỏa ánh
sáng ngập tràn; Claus chuẩn bị đưa cậu bé bị lạc đường về nhà với mẹ.

“Em giữ con mèo này có được không, Claus?” Weekum hỏi. “Nó
dễ thương hơn cả mèo thật. Nó không chạy đi, không cào, không cắn. Em giữ nó có
được không?”

“Được, tất nhiên rồi,” Claus trả lời, hài lòng vì món đồ
chơi chàng làm ra có thể đem lại niềm vui cho cậu bé. Chàng lấy một chiếc áo
choàng ấm để bọc lấy cậu bé và con mèo gỗ, đặt cả hai lên vai mình và băng qua
tuyết, vượt qua thung lũng, đi sang mãi phía bên kia đồng bằng về phía bên kia,
đến mái tranh nghèo nơi mẹ của Weekum đang sống.

“Xem này, mẹ!” cậu bé reo lên ngay khi họ bước vào nhà. “Con
có một con mèo!”

Người phụ nữ hiền lành kia òa khóc, mừng đứa con thân yêu
được cứu sống, rồi cảm ơn đi cảm ơn lại vì hành động tử tế của Claus. Thế là
Claus mang một trái tim ấm áp và hạnh phúc trên suốt quãng đường trở về thung
lũng.

Đêm đó chàng nói với mèo Blinkie: “Ta tin trẻ con sẽ thích
mèo gỗ cũng gần như mèo thật, và chúng sẽ không làm mèo đau khi kéo đuôi kéo
tai mèo. Ta sẽ làm thêm một con nữa.”

Đó chính là một khởi đầu cho tác phẩm vĩ đại của chàng.

Con mèo tiếp theo đẹp hơn con đầu. Trong lúc Claus đang ngồi
đẽo gọt thì Ryl Vàng ghé vào thăm chàng, quá hài lòng với tay nghề của chàng
đến mức Ryl Vàng vội chạy đi và gọi thêm nhiều người khác tới.

Các Ryl Đỏ, Ryl Đen, Ryl Xanh Lục, Ryl Xanh Dương, và Ryl
Vàng tụm thành một vòng tròn trên sàn nhà, trong khi Claus vừa đẽo gọt vừa huýt
sáo, và con mèo gỗ hiện hình mỗi lúc một rõ ràng hơn.

“Nếu con này mà có màu giống như mèo thật thì không ai phân
biệt nổi đâu,” Ryl Vàng trầm ngâm nói.

“Có thể lắm, bọn nhỏ sẽ chẳng thể biết được,” Claus đáp lời,
hài lòng với ý tưởng đó.

“Ta sẽ mang đến cho cậu một ít màu đỏ ta vẫn dùng để tô cho
những bông hồng và tulip,” Ryl Đỏ thốt lên; “và cậu có thể dùng để tô cho môi
và lưỡi của con mèo.”

“Ta sẽ mang đến một ít màu xanh lục ta vẫn dùng để tô cho cỏ
và lá cây,” Ryl Xanh Lục nói; “và cậu có thể tô cho cặp mắt của con mèo.”

“Mắt mèo cũng cần một ít màu vàng nữa,” Ryl Vàng nhận xét;
“ta sẽ lấy đi một ít màu vàng ta vẫn dùng để tô cây mao lương và cây roi vàng.”

“Mèo thật màu đen,” Ryl Đen nói; “ta sẽ đem đến một ít màu
đen ta vẫn dùng để tô màu mắt cho cây hoa bướm, và cậu có thể dùng tô đen con
mèo gỗ của cậu.”

“Ta thấy có một dải ruy-băng màu xanh dương đeo trên cổ
Blinkie,” Ryl Xanh Dương xen vào; “ta sẽ lấy một ít màu vẫn dùng để tô cho đám
cây hoa chuông và lưu ly để cậu có thể khắc một cái ruy-băng gỗ lên cổ con mèo
đồ chơi và tô xanh cái ruy-băng đó.”

Thế là các Ryl biến mất, và đúng lúc Claus vừa đẽo gọt xong
con mèo gỗ thì họ quay trở lại với đầy đủ màu và cọ vẽ.

Họ cho Blinkie ngồi trên bàn làm mẫu để Claus tô màu con mèo
gỗ cho chính xác, và khi xong việc, các Ryl tuyên bố rằng con mèo gỗ đã giống
hệt một con mèo thật.

“Đúng vậy, xét về mọi mặt,” Ryl Đỏ thêm vào.

Blinkie dường như hơi cảm thấy bị xúc phạm khi mọi người chỉ
chú ý đến con mèo đồ chơi, và vì dường như không chấp nhận con mèo bắt chước,
nó bỏ tới góc bếp lửa và ngồi xuống với một dáng vẻ cao quý.

Nhưng Claus lại rất vui, và ngay khi trời hừng sáng, chàng
đã ra ngoài và vượt tuyết băng qua thung lũng, băng qua đồng bằng, cho tới khi
đến được một ngôi làng. Ở đó, trong một túp lều ổ chuột nằm gần những bức tường
thành cung điện nguy nga của chúa Lerd, một bé gái nằm trong một chiếc cũi rách
nát, đang rên rỉ vì đau đớn.

Claus lại gần em bé, hôn em và dỗ dành em, rồi chàng lấy con
mèo đồ chơi từ trong áo choàng ra và đặt vào cánh tay em.

Chà, nhìn ánh mắt em bé sáng lấp lánh trong niềm vui, Claus
thấy được trả công xứng đáng biết bao cho sự lao động và chuyến đi dài của
mình. Em bé ôm chặt con mèo vào ngực như thể đó là một viên ngọc quí, và em sẽ
không muốn rời nó một phút nào. Cơn sốt đã biến mất, đau đớn cũng giảm dần, em
rơi vào một giấc ngủ ngọt ngào và dễ chịu.

Claus cười vang, huýt sáo và hát suốt đường về nhà. Chưa bao
giờ chàng lại sung sướng như hôm đó.

Khi bước vào nhà, Claus thấy sư tử cái Shiegra đang đợi mình
ở đó. Shiegra luôn yêu quí chàng ngay từ thuở nhỏ, và hồi chàng còn ở trong
rừng, nó vẫn thường xuyên đến thăm chàng ở nhà của Necile. Sau khi Claus rời
đến sống ở Thung lũng Cười, Shiegra trở nên cô độc và rất hay bị ốm, thế mà bây
giờ nó đã dũng cảm vượt qua băng tuyết, thứ mà loài sư tử rất căm ghét, để đến
thăm chàng một lần nữa. Shiegra đang bước vào tuổi già và bắt đầu rụng răng, bộ
lông phủ từ đầu đến chân từ màu vàng nâu nay cũng đã trở nên bạc trắng.

Thấy Shiegra nằm trên bậu lò sưởi, Claus âu yếm vòng tay ôm
quanh cổ con sư tử. Con mèo đã rút lui vào một góc xa. Nó không muốn dính dáng
gì với Shiegra.

Claus kể cho người bạn già của chàng về những con mèo mà
mình đã làm, về việc chúng đã mang lại niềm vui cho Weekum và bé gái bị bệnh
kia ra sao. Shiegra không biết nhiều về trẻ con; thực vậy, nếu có gặp một em
bé, khó có thể tin là nó lại không ngấu nghiến em bé đó cho bằng được. Nhưng
Shiegra lại quan tâm đến những công việc mới của Claus, và nó nói:

“Những hình ảnh này với ta rất hấp dẫn. Nhưng ta không hiểu
tại sao con lại chỉ làm có mỗi mèo, là cái thứ động vật chẳng hề quan trọng
chút nào. Chẳng hạn như, giờ ta đang ở đây, con có thể tạo ra hình một con sư
tử, nữ hoàng của tất cả các loài thú. Nhờ vậy lũ trẻ của con sẽ rất vui - và an
toàn nữa!”

Claus thấy đây là một gợi ý rất hay. Chàng lấy một mẩu gỗ và
bắt đầu mài dao, trong khi Shiegra trườn trên bậu lò sưởi, dưới chân chàng.
Claus cẩn thận đẽo cái đầu sư tử sao cho giống y như thật, thậm chí còn tỉ mỉ
khắc cả hai chiếc răng nanh dữ tợn thò ra ngoài cùng những nếp nhăn hằn sâu và
nghiêm nghị quanh cặp mắt luôn mở to của nó.

Khi đã hoàn thành, chàng nói:

“Người có một dáng vẻ thật dữ tợn, Shiegra à.

“Thế thì giống ta rồi,” sư tử trả lời; “bởi vì thực sự ta
rất dữ tợn đối với tất cả những kẻ nào không là bạn.”

Giờ Claus tạc tiếp đến phần thân, với cái đuôi dài giống như
của Shiegra quết phía sau. Hình ảnh một con sư tử đang nằm trông quả là như
thật.

“Ta rất hài lòng,” Shiegra nói, vừa ngáp vừa vươn mình thoải
mái. “Giờ thì ta sẽ quan sát trong lúc con tô màu.”

Claus lấy ra từ cái chạn những loại màu vẽ mà các Ryl đã
tặng, tô màu sao cho thật giống với Shiegra.

Shiegra đặt cặp chân to đầy lông lên cạnh bàn và nâng mình
lên trong lúc quan sát kỹ lưỡng xem món đồ chơi có giống mình không.

“Con thực sự rất khéo tay!” Shiegra nói đầy tự hào. “Lũ trẻ
sẽ thích món đồ chơi này hơn mèo, ta đảm bảo.”

Sau khi quay lại gầm gừ dọa dẫm Blinkie khiến con mèo phải
cong lưng lại kinh hoàng và rên rỉ sợ hãi, Shiegra quay về với rừng thẳm bằng
những sải chân dài oai vệ.

Chương bốn

Làm sao mà bé Mayrie lại sợ hãispan>Giờ thì mùa đông đã
qua đi, và toàn Thung lũng Cười lại tràn ngập những háo hức vui tươi. Con suối
quá mừng vì lại được tự do nên đã chảy róc rách huyên náo hơn bao giờ hết, và
cứ thế liều lĩnh xô mình vào những tảng đá khiến cho màn nước bắn tung đến tận
trời cao. Từ chỗ trú tuyết là lớp thảm thực vật chết, cỏ đâm lên những chiếc lá
nhỏ sắc nhọn của mình, tuy nhiên những bông hoa vẫn còn quá rụt rè nên chưa dám
xuất hiện, mặc dù các Ryl đang hối hả cho đám rễ của chúng ăn. Mặt trời đang
cực kỳ vui tính, gửi những tia nắng tới nhảy múa vui vẻ khắp trên thung lũng.

Một ngày kia đang ăn tối, Claus nghe một tiếng gõ rụt rè lên
cửa.

“Mời vào!” chàng gọi.

Không ai bước vào, nhưng sau đó một lúc lại có một tiếng gõ
nhẹ nữa.

Claus nhảy lên và phóng tới mở cửa. Đứng trước mặt chàng là
một bé gái đang giữ chặt một đứa em trai nhỏ trong tay.

“Có phải là người đó không, Tlaus?” bé gái hỏi đầy nhút
nhát.

“Đúng rồi, là ta đây!” chàng trả lời, và cười vang, dang tay
ra ôm lấy cả hai đứa trẻ và hôn chúng. “Xin mời, các em đã đến rất đúng lúc để
cùng ăn bữa tối với ta.”

Chàng đưa chúng tới chiếc bàn ăn, cho chúng uống sữa tươi và
ăn bánh hoa quả. Khi chúng đã no, chàng hỏi:

“Vì sao các em lại phải đi cả một chặng đường dài để tới gặp
ta?”

“Em muốn có một con nghèo!” bé Mayrie đáp lời; và cậu em,
vẫn chưa học nói được một câu dài, cũng gật đầu và thốt lên: “Nghèo!”

“Ồ, các em muốn mấy con mèo đồ chơi của ta phải không?”
Claus hỏi, trong lòng rất vui vì phát hiện ra rằng lũ trẻ rất thích những thứ
chàng làm ra.

Những vị khách bé nhỏ vội vàng gật đầu.

“Rất tiếc,” chàng tiếp tục nói, “là giờ ta chỉ còn mỗi một
con mèo, vì hôm qua đã đem hai con tặng lũ trẻ trong thị trấn. Và ta sẽ tặng nó
cho em trai của em, Mayrie, vì em ấy nhỏ hơn; và đến con tiếp theo ta sẽ tặng
cho em.”

Gương mặt cậu bé sáng bừng với những nụ cười, nhìn chăm chú
món đồ chơi quí giá mà Claus chìa ra; nhưng bé Mayrie thì úp mặt vào cánh tay
và bắt đầu khóc nức nở.

“E... e... em muốn có một con nghèo... nghèo ngay bây giờ
cơ!” bé rền rĩ.

Sự thất vọng của bé khiến cho Claus cảm thấy đau lòng. Rồi
bất chợt chàng nhớ tới Shiegra.

“Đừng khóc nữa, bé yêu của ta!” Claus nói êm ái; “Ta có một
món đồ chơi còn đẹp hơn mèo rất nhiều, và em sẽ có nó!”

Chàng đi tới cái chạn, lấy ra con sư tử rồi đặt lên bàn ngay
trước mặt Mayrie.

Cô bé nhấc cánh tay lên, mắt liếc bộ răng dữ tợn và cặp mắt
trợn trừng của con quái vật, và rồi sau đó, thét lên một tiếng kinh hãi, cô bé
bỏ chạy ra khỏi nhà. Cậu bé bám theo chị, cũng kêu gào sợ hãi, và thậm chí trong
lúc sợ còn đánh rơi cả con mèo gỗ quí giá của mình.

Mất một lúc Claus đứng bất động, ngạc nhiên và bối rối. Thế
rồi chàng quăng tấm hình Shiegra vào trong chạn và chạy theo lũ trẻ, bảo chúng
đừng có sợ.

Bé Mayrie dừng lại giữa cơn tháo chạy và cậu em trai bám
chặt vào váy của chị; nhưng cả hai đều sợ hãi liế ngôi nhà, mãi cho đến khi
Claus phải đảm bảo đi đảm bảo lại với chúng rằng con quái vật đó đã bị khóa
trong chạn.

“Nhưng tại sao các em lại sợ khi nhìn thấy nó?” chàng hỏi.
“Đó chỉ là một thứ đồ chơi để chơi thôi mà!”

“Nó xấu nhắm!” Mayrie nói, rất kiên quyết, “và... và... sợ
nhắm..., không ngoan tí nào, không giống như nghèo!”

“Có lẽ em nói đúng,” Claus trầm ngâm đáp. “Nhưng nếu em quay
về nhà với ta thì ta sẽ làm ngay cho em một con mèo xinh đẹp.”

Thế là lũ trẻ rón rén bước vào nhà lần nữa, tin tưởng vào
lời nói của bạn mình; và sau đó chúng vui sướng ngồi quan sát Claus đẽo từ
miếng gỗ ra một con mèo, rồi tô cho nó những màu sắc tự nhiên. Chàng không mất
quá nhiều thời gian để làm việc này, vì bây giờ dùng dao đã rất thành thạo, còn
bé Mayrie lại càng yêu món đồ chơi của mình hơn, vì đã tận mắt xem nó được làm
ra như thế nào.

Sau khi những vị khách bé nhỏ đã quay về nhà, Claus ngồi suy
nghĩ rất lâu. Cuối cùng chàng quyết định rằng những sinh vật dữ tợn như con sư
tử bạn chàng sẽ không bao giờ làm mẫu cho những món đồ chơi của chàng nữa.

“Không được là bất cứ cái gì có thể làm cho các bé con sợ
hãi,” chàng nghĩ thầm; “ta thì biết rõ và không sợ Shiegra đấy, nhưng trẻ con
sợ hãi khi thấy hình ảnh của nó thì cũng bình thường thôi. Từ giờ về sau ta sẽ
chọn những động vật dễ chịu hơn như sóc, thỏ, hươu và cừu non để làm mẫu đồ
chơi, để các bé sẽ yêu quí thay vì sợ hãi chúng.”

Chàng bắt tay vào việc ngay từ hôm đấy, và trước khi đi ngủ
đã làm xong một con thỏ và một con cừu gỗ. Chúng không hoàn toàn giống thật như
mấy con mèo gỗ, bởi chúng được tạo nên từ ký ức, trong lúc đó Blinkie đến ngồi
yên không động đậy làm mẫu cho Claus.

Tuy nhiên những món đồ chơi mới này cũng làm lũ trẻ hài
lòng, và tiếng tăm của những món đồ do Claus là nhanh chóng lan khắp mọi túp
lều trên cánh đồng và trong làng xóm. Chàng thường mang quà cho những em bị ốm
hoặc bị tật nguyền, còn những trẻ khỏe mạnh thì phải tự đi bộ tới nhà chàng
trong thung lũng để hỏi xin, thế là chẳng mấy chốc, từ cánh đồng dẫn tới cửa
ngôi nhà của chàng đã mòn vẹt thành một lối đi nhỏ.

Đầu tiên là những đứa trẻ vốn là bạn của Claus trước khi
chàng bắt đầu làm đồ chơi. Những trẻ này, chắc chắn rồi, luôn được chàng cấp đồ
chơi đầy đủ. Sau đó là những trẻ sống ở xa, nghe tiếng những đồ chơi có hình
thù tuyệt vời của chàng, đã cất công đi những đoạn đường dài tới thung lũng để
xin. Tất cả trẻ con đều được chàng đón tiếp nồng hậu và chưa từng có đứa nào
phải ra về tay không.

Việc bọn trẻ yêu cầu phải tự tay Claus làm đã khiến cho
chàng luôn bận rộn, nhưng chàng hoàn toàn vui sướng khi biết rằng mình đã đem
lại niềm vui cho rất nhiều đứa trẻ thân yêu. Những người bạn thần tiên của
chàng cũng hài lòng với thành công của chàng và hăng hái giúp chàng.

Các Knook chọn riêng cho chàng những mẩu gỗ mềm nhất, nhờ
thế lưỡi dao của chàng không bị cùn khi đẽo chúng; các Ryl cung cấp cho chàng
đủ loại màu sơn và những bút vẽ làm từ chóp cỏ đuôi mèo; các nàng tiên phát
hiện ra rằng cần phải có cưa, đục, búa, đinh, và cả dao nữa, nên đã đem đến cho
chàng vô số những thứ dụng cụ ấy.

Chẳng mấy chốc Claus đã biến phòng khách thành một xưởng làm
việc tuyệt vời nhất. Chàng xây một cái bệ ở trước cửa, sắp xếp đồ nghề ở đó,
sao cho chàng có thể với tay lấy bất cứ công cụ nào khi đang ngồi trên ghế. Và
khi hoàn tất hết món đồ chơi này đến món đồ chơi khác để làm vui lòng lũ trẻ,
chàng thấy mình trở nên quá sức vui, quá sức hạnh phúc, tới mức không sao kìm
được, cứ hát, cười và huýt sáo suốt cả ngày.

“Đó là tại vì ta sống ở Thung lũng Cười, nơi mà bất cứ vật
gì cũng cười vui!” Claus nói.

Nhưng đó không phải là lý do.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3