Mùa thu của cây dương - Chương 02

Nếu mẹ hỏi, tôi sẽ trả lời như vậy. Rồi sáng sáng, tôi sẽ lại
nghiến răng bước ra khỏi nhà, hướng về cái thế giới đầy rẫy những lỗ
cống không đáy đang há hốc cái miệng đen ngòm mà có lẽ do các vị thần đã
quên không đậy nắp. Tôi làm bài tập rất cẩn thận và chẳng bao giờ lỡ
quên cái gì. Vậy mà giờ nhớ lại, tôi chỉ thấy khoảng thời gian đó ngập
tràn căng thẳng sợ hãi rằng mình sẽ sơ sẩy điều gì. Tôi đã nghĩ, luôn
cẩn trọng và không phạm lỗi là cách duy nhất để không bị lôi tuột xuống
những hố đen mà chẳng biết khi nào và ở đâu sẽ xuất hiện.

*

* *

Ngày
qua ngày, căng thẳng cứ lớn dần lên. Tôi kiểm tra đồ trong cặp sách tới
ba lần trước khi đi ngủ, và sáng dậy, nếu không xem lại thêm lần nữa
tôi sẽ chẳng thể yên tâm ra khỏi nhà. Trong lúc kiểm đồ, tôi chợt nảy ra
ý nghĩ, không chừng thời khóa biểu thay đổi rồi cũng nên. Thế là tôi
nhét tất cả sách vở vào cặp, những thứ thừa ra tôi bỏ vào túi xách bằng
vải bạt rồi mang cả đi. Ngày ngày, tôi đi đi về về trên cùng một con
đường, lưng còng xuống vì mang đồ quá nặng, trông tôi chẳng khác nào một
bà già khư khư giữ của.

Người ta vẫn bảo rằng, nỗi lo lắng giống
như một mầm cây, ngắt đi rồi sẽ mọc lại, bởi thế ngay khi nỗi sợ quên đồ
dần tan biết, tôi lại bị tấn công bởi một nỗi lo sợ mới. Vì mẹ luôn là
người ra khỏi nhà trước nên tôi thường phải tự khóa cửa rồi đến trường.
Nhưng trên đường đi, nỗi sợ bất chợt lại ập đến, tôi không biết mình đã
khóa cửa cần thận hay chưa…

Hạt mầm lo sợ mới này lớn nhanh như
thổi, giống như cây đậu trong “Chuyện chàng Jack và cây đỗ tương”. Thế
là dù đang vác theo một đống đồ nặng, tôi vẫn tất tưởi về nhà kiểm tra
lại khóa cửa. Chưa đầy một tuần sau, hằng ngày tôi không thể đến trường
mà chưa thực hiện trình tự ấy đủ ba lần, mỗi lần quay về nhà là từ ba
điểm khác nhau trên đường đi. Dĩ nhiên, lần nào cửa nhà cũng luôn được
khóa chắc chắn. Cả việc nhà đột nhiên bị cháy rụi cũng không hề xảy ra.
Nhưng nếu không kiểm tra lại cho chắc chắn, tôi sẽ không ngừng bị nỗi lo
“sắp có điều gì xấu xảy ra” hành hạ.

Khi chắc chắn cửa nẻo đã
được khóa kỹ càng, nỗi lo tiếp theo là đi học muộn. Đường tới trường mất
khoảng mười phút đi bộ, nhưng do mang đồ nặng, lại hết lần này đến lần
khác quay về nên tôi thường phải ra khỏi nhà một tiếng trước khi giờ học
bắt đầu. Nghĩa là phải dậy thật sớm. Nghĩa là nếu ngủ quên thì sẽ rắc
rối to…

Đến trường suôn sẻ, tôi lại lo về mẹ. Liệu mẹ có gặp tai
nạn giao thông giống như bố không? Liệu mẹ có vất vả quá mà mắc bệnh
không? Hay, liệu ngay lúc này đây mẹ có đang cần tôi giúp đỡ?...

Song
nói gì thì nói, kinh khủng nhất vẫn là vào ban đêm. Cứ hễ tôi chui vào
chăn và nhắm mắt là cái nắp cống trong đầu lại chuyển động, rồi cái hố
đen ngòm bắt đầu cất tiếng: “Trong khi mi ngủ say sưa, những thứ quan
trọng của mi sẽ thuộc về ta…”

Tôi luôn giả vờ ngủ và chờ mẹ nằm
xuống. Cho đến khi nghe rõ tiếng mẹ thở khe khẽ, tôi mới dần thiếp đi.
Vừa nhắm mắt vừa cầu mong sao mình đừng dậy muộn.

*

* *

Điều
lạ là tôi hoàn toàn không nhớ gì về lễ Bỉ ngạn(2) năm đó. Không thể có
chuyện chúng tôi không làm gì trong tuần thu phân đầu tiên sau khi bố
mất, liệu có phải tôi đã chìm đắm trong thế giới riêng đến độ rủ bỏ cả
những điều như thế khỏi ký ức mình?

2. Bỉ ngạn (Higan) là lễ
hội kéo dài bảy ngày vào khoảng các ngày xuân phân và thu phân. Vào dịp
lễ này, tín đồ Phật giáo đến viếng mộ người thân ở trong phạn vi các nhà
chùa.

Vào một sáng đầu tháng Mười, tôi bị sốt cao.

“Nếu đến chiều mà nhiệt độ vẫn không hạ thì con đi viện nhé”

“Thế việc của mẹ thì sao?”

“An tâm, chỉ nghỉ có một ngày thôi mà…”

Lâu
rồi tôi mới thấy thoải mái như vậy. Nhờ cơn sốt, cảm giác có lỗi vì đã
khiếm mẹ phải nghỉ làm cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Tôi thiêm thiếp ngủ,
việc phải làm chỉ là kẹp cặp nhiệt độ dưới nách mỗi khi mẹ bảo và ăn táo
thái nhỏ từ cái thìa lành lạnh mà mẹ bón cho tôi. Tôi mơ màng ngủ, rồi
khi chập chờn mở mắt, tôi thấy mẹ vẫn ngồi đó, trước bàn, đọc tài liệu
cần thiết cho công việc. Đó là một cuốn sách về các nghi thức cưới hỏi
rườm rà của người Nhật. Thấy tôi mở mắt, mẹ liền thay khăn mặt đắp trên
trán cho tôi. Rồi mẹ khoác lên vai tôi chiếc áo len không cổ khi tôi
định đứng dậy đi vào nhà vệ sinh, và cho tới khi tôi trở ra, mẹ cứ nhìn
mãi cánh nhà vệ sinh mà đợi.

Tôi những muốn cảm ơn trời vì bị sốt.
Thậm chí tôi còn nghĩ, nếu được yên lòng, thoải mái và ấm cúng thế này
thì có ốm nữa cũng chẳng sao.

“Mẹ ơ!”

“Gì thế con?”

“Không ạ. Con chỉ gọi thôi.”

Tôi
nghĩ mình thiếp đi được một lúc. Thế rồi bất chợt, có tiếng gì đó lộn
xộn chợt xen vào giấc ngủ yên lành ấy. Là tiếng một con vật nào đó rên
rỉ chăng…

Tôi tỉnh dậy và nhận ra ngay, đó là tiếng máy giặt nhà tôi, kê ở phía Bắc lối đi, bên cạnh cửa ra vào sảnh trước.

Mẹ
đang ngủ, trán áp lên quyển sách mở trên bàn. Mẹ bật máy giặt từ khi
nào nhỉ, mình chẳng hay biết gì, vừa nghĩ tôi vừa ngồi dậy. Tôi nhìn
đồng hồ, đã gần 12 giờ trưa. Nhờ có giấc ngủ ngon lành khi nãy mà giờ
tôi đã thấy người nhẹ nhàng hơn. Để không làm mẹ thức giấc, tôi rón rén
đứng lên là nhón chân bước về phía cửa.

Tôi mở cửa ra và bất thình
lình, đứng trước cái máy giặt là một gã lạ hoắc, còn khá trẻ. Cũng như
tôi, anh ta giật thót hốt hoảng, đoạn lao như bay xuống cầu thang. Tôi
bước chân trần ra ngoài hành lang, tim đập thình thịch rồi hét lớn.

Mẹ
từ trong nhà chạy bổ ra. Gần như cùng lúc, cách cửa phòng bên bật mở,
bác Nishioka xuất hiện trong bộ quần áo thể thao. Mùi hơi thở khi ngủ và
một giọng trầm trầm đang kể chuyện cười khe khẽ vẳng ra từ phòng bác.

Bác
Nishioka vốn là người nhút nhát, chẳng thể nói lấy một câu bông đùa.
Những hễ bác ở trong phòng, lúc nào tôi cũng nghe thấy từ bên kia tường
vẳng sang giọng một người đàn ông lên bổng xuống trầm kể những câu
chuyện hài, có lẽ là bác ấy bật băng cát-xét. Không chừng bác ấy để băng
chạy suốt cả khi ngủ cũng nên.

Hôm đó, chắc bác Nishioka vừa chạy
taxi ca đêm về, mắt nhắm mắt mở trông thật khiếp. Mí mắt bác sưng mọng,
mái tóc bình thường vốn đã rối bù giờ y như cái tổ quạ, những sợi tóc
lúc trước được vén sang một bên nay rũ xuống trông chẳng khác gì mớ tảo
biển, để lộ cái trán hói to tướng. Người bác Nishioka vốn đã ốm o, bộ
dạng lúc này lại hệt như một võ sĩ thất trận chạy thoát thân trong bộ
quần áo thể thao, sợi vải thì xổ ra hết cả. Kinh ngạc trước bộ dạng lại
hét lên lần nữa.

“Chiaki, có chuyện gì vậy? Con không sao chứ?”

Mẹ
lay người tôi, nhưng tôi chẳng làm được gì khác ngoài chỉ tay về phía
cầu thang. Đúng lúc ấy, trên con đường dọc bờ sông tôi thấy một bóng
người đang chạy, có lẽ là gã khi nãy. Dù không biết đầu đuôi cũng chẳng
hiểu sự tình gì, bác Nishioka vẫn “Kìa!” lên một tiếng rồi lao xuống cầu
thang.Tôi và mẹ sững người, nhìn chằm chằm một lúc vào chiếc quần lót
nam và mấy thứ đồ lạ hoắc đang tiếp tục quay tròn trong máy giặt.

“Mẹ ơi!”

“Gì hả con?”

“Người đó, đang giặt đồ ạ?”

“Có lẽ thế.”

“Chú ấy không có máy giặt ạ?”

“Chắc vậy.”

“Mẹ con mình làm gì với đống đồ này hả mẹ?”

“Hừm…”

Máy
giặt ngừng rồi mà mẹ vẫn chưa nghĩ xong. Tôi run run nhấn nút xả nước.
Một tiếng động lớn vang lên, nước giặt màu tro đục ngầu chảy ra theo
đường ống xả, mẹ mang từ trong bếp ra một túi ni lông to, vừa nhăn mặt
vừa nhặt lấy mấy thứ đồ còn dính đầy xà phòng từ trong máy ra bỏ vào
túi. Đúng lúc ấy, bác Nishioka hổn hển trở về.

“Cái thằng đúng là đồ mặt dày. Chẳng lẽ nó tiếc mấy xu cho máy giặt tự động à?”

Mắt vẫn dán chặt vào cái túi ni lông căng phồng, đôi lông mày bác vốn bình thường đã hay ngọ nguậy giờ nhướng lên giật giật.

“Thật
đáng xấu hổ, thật đáng xấu hổ!” Bác Nishioka không ngừng càm ràm bằng
cái giọng the thé chẳng đàn ông chút nào, mỗi lần kêu ca bác lại kèm
theo một tiếng thở dài. Khi tôi nép nửa người sau lưng mẹ và nói “Chào
bác!” thì bác khẽ cúi đầu như chào một người lớn ngang hàng. “Bác xin
lỗi Chiaki nhé. Bác để gã kia chạy mất rồi…”

Rồi bác lấy tay vuốt mớ tóc, vén lên che vầng trán, như thể lúc đó mới nhận ra tóc mình đang rũ xuống mặt

Mẹ bảo tôi vào trong phòng nằm nghỉ. Nhưng cửa vẫn mở nên tôi có thể nghe thấy tiếng mẹ và bác Nishioka trò chuyện.

“Có khi… có khi đây không phải là lần đầu nó làm thế đâu.”

Nghe bác Nishioka nói vậy, tim tôi đập thình thịch.

“Việc đó…” mẹ lên tiếng vẻ lo lắng.

“Có thể lắm, vì tầng dưới chỉ có mình bà cụ, nhà trọ thì ban ngày chẳng có ai…”

“Tôi
thường làm ca đêm nên ngày nào cũng ở nhà nhưng ngủ say như chết, hôm
nay tình cờ đúng lúc tôi vừa tỉnh dậy đi vệ sinh…” Bác Nishioka phần
trần, khi thì tuôn một mạch, lúc thì lắp bắp.

Hai người định sáng
hôm sau sẽ vứt mấy thứ đồ giặt đựng trong túi ni lông ra bãi rác, cho
tới khi đó mẹ vẫn để túi quần áo ở cổng ngoài. Vì mẹ bảo, có thể người
kia sẽ quay lại lấy đồ, và mẹ không muốn bị anh ta thù ghét vô cớ.

Bác
Nishioka và mẹ xách cái túi ni lông xuống cầu thang. Nằm trong chăn,
khi nghe tiếng bước chân của hai người, tôi nghĩ đến những lý do rất trẻ
con, rằng xảy ra việc thế này là do tôi không ngoan. Vì tôi nghỉ học
khiến mẹ cũng phải nghỉ làm, đã thế tôi còn nghĩ là có ốm nữa thì càng
hay, nên tôi phải bị trừng phạt. Nếu tôi đi học, mẹ cũng đi làm thì chắc
chắn việc ai đó lén lút sử dụng máy giặt nhà tôi sẽ không bị phát giác.
Nếu như chẳng phải mọi việc vẫn êm xuôi hay sao.

Tôi nhắm chặt
mắt. Vừa lúc đó, cái nắp cống mở ra kéo theo một tiếng cạch, rồi một
vọng âm khó chịu từ dưới sâu vẳng tới: “Sai một li, đi một dặm. Nhớ đấy,
không được phép quên.”

Đúng rồi, từ ngày mai, tuyệt đối, không
được nghỉ học nữa. Không được mất cảnh giác với những lỗ đen ấy dù chỉ
là một khắc. Tôi tự nhủ như vậy rồi nhắm chặt mắt lại một lần nữa.

3.

Nhưng
tôi càng cố gắng bao nhiêu, cơ thể tôi càng không nghe lời bấy nhiêu.
Nhiệt độ chẳng cao hẳn, cứ lên l xuống, mẹ vì tôi mà phải nghỉ làm cả
tuần liền. Trong khoảng thời gian ấy, tôi mơ thấy mình bị lỗ cống biết
đi đuổi theo, cứ mỗi lần tỉnh giấc tôi lại chúi cái đầu ong ong nặng
trịch cơn buồn ngủ vào tủ quần áo để thay đồ đến trường. Tôi thay đồ,
bất kể lúc đó là nửa đêm. Cặp sách và túi sách tay vẫn như mọi khi, chắc
chắn có tất cả sách giáo khoa và vở tập. Bút chì đã gọt. Tẩy, có. Quần
áo thể thao, có. Túi đựng bữa trưa, có. Kèn harmonica, có. Bút chì màu,
có…

Cuối cùng, bác sĩ đưa ra một thông báo đáng sợ: “Chị nên cho
cháu nhập viện một thời gian.” Nhập viện, vừa nghe hai tiếng ấy tôi đã
lắc đầu nguầy nguậy. Hơn nữa, tôi chẳng thích bị đưa vào một nơi lạ hoắc
chút nào.

“Chiaki, nhập viện rồi con sẽ khỏe lại và đi học được.”

Mẹ thuyết phục tôi, vẻ mặt vô cùng khổ tâm.

“Mẹ nói dối.”

“Mẹ không dối con đâu.”

“Không cần nhập viện cũng được mà. Từ mai con sẽ đến trường.”

Thà
con đi học còn hơn nhập việc, tôi khăng khăng bướng bỉnh. Nếu không
chịu đến bệnh viện thì ở nhà sẽ tốt hơn, nhưng nếu nghỉ thêm nữa mẹ sẽ
mất công việc mà khó khăn lắm mới kiếm được. Đúng lúc ấy, bà cụ chủ nhà
lên tiếng.

“Tôi là chủ nhà, sự thể ra nông nỗi này tôi cũng phải có trách nhiệm. Tôi sẽ để mắt tới Chiaki khi cô đi làm.”


cụ cho rằng tình trạng căng thẳng của tôi có liên quan đến vụ người lạ
dùng lén máy giặt, bà cụ thấy mình phải chịu phần nào trách nhiệm. Cổng
ngoài của trang viên Cây Dương lúc nào cũng mở, bà nói đáng ra không
được để như vậy.

“Sáng nào mẹ đi vắng, Chiaki xuống chỗ bà nhé. Bà sẽ trải chăn sẵn cho Chiaki.”

Tôi
không khỏi bàng hoàng trước những lời mẹ nói. Mẹ bảo tôi sẽ ngủ trong
căn phòng chỉ mở mỗi một cánh cửa chớp, toàn sách cũ và dán đầy những lá
bùa bí ẩn ấy ư? Với lại lúc đầu bà cụ chẳng bảo “cấm trẻ con” đấy thôi,
vậy có nghĩa bà cụ không thích bọn con nít. Vậy có khác nào tôi bị tống
vào hang ổ của ma nữ độc ác?

“Bà không lên nhà mình hả mẹ?”

“Dạo này đầu gối bà yếu rồi, lên xuống cầu thang khó lắm. Nếu có bà bên cạnh con mẹ cũng đỡ lo…”

Mẹ khẽ cười rồi chọc nhẹ ngón trỏ vào má tôi.

“Chỉ buổi trưa thôi.”

“Con ở nhà một mình được mà mẹ…”

“Mẹ xong việc rồi ta cùng về nhà. Thôi nào, đừng cứng đầu thế.”

Tôi buộc lòng phải nghe theo. Vả lại nếu không tới đó, thế nào bà cụ cũng tự ái cho mà xem…

Thế là từ hôm sau, tôi “đi làm” cùng mẹ.


trải chăn cho tôi tại một phòng kiểu như phòng ở, thông theo hướng
Bắc-Nam với phòng bếp bằng gỗ và nằm ở góc trong cùng từ sảnh vào. “Kiểu
như phòng ở”, gọi như vậy nghe cũng hơi lạ. Nhưng, trong căn phòng đó,
bà cụ thường xem tivi, uống trà, đọc báo hay ngồi bên bàn sưởi, thành ra
nó cũng chẳng khác gì phòng ở cả. Song, như những gì tôi nhìn thấy khi
lần đầu ngó vào từ ngoài hành lang thông với sảnh ngoài: nào là giá sách
cố định trên tường chặt cứng sách cũ cao ngất đến trần nhà, rồi con
rồng trang trí làm từ đá màu lục, cả những bức phướn với các con chữ
hình thù kỳ dị trông như mớ tóc rụng của những linh hồn… thì căn phòng
này quá bất thường để có thể gọi là phòng ở. Ngay cạnh cửa quét rác(3)
là một cái tủ đen thui với các tay cầm màu vàng kim, chăn nệm được trải
khít ngay cạnh cái tủ nặng nề ấy. Khi nằm xuống nệm và quay về phía đối
diện cái tủ, tôi nhìn thấy ảnh một ông cụ đặt trên bàn thờ, bức ảnh cũ
kỹ đã bị thời gian làm hư hại nhiều. Với chòm râu bạc phơ mọc dài che
kín tới tận ngực và trên đầu không một cọng tóc, khuôn mặt ông hơi có vẻ
nhút nhát nhưng điều đó không khiến ông trở nên bớt đáng sợ đối với
tôi. Thật may là bà cụ đã mở hết các cánh cửa chớp ra, không biết là vì
tôi hay chỉ đơn giản là do tiết trời thay đổi.

3. Một loại cửa
kéo nhỏ thường thấy trong căn phòng kiểu truyền thống của Nhật, được
làm chạm sàn để có thể quét rác từ trong phòng ra ngoài.

Mỗi
sáng tôi dùng lược chải mái tóc hỉ nhi và mặc bộ đồ ngủ có họa tiết dâu
tây đẹp mắt, bên ngoài choàng một áo khoác không cổ đan bằng len xanh
sợi to rồi tới chỗ bà cụ. “Cháu chào bà,” nói rồi tôi chui vào tấm chăn
bông nặng trịch mà bà cụ đã trải cho từ trước. Hai, ba hôm đầu tôi ngủ
không yên. Còn bà cụ, chẳng biết vì nghĩ tôi đang ngủ hay vì không quan
tâm mà ngoài những câu như “Đến giờ uống thuốc rồi,” hay “Cặp nhiệt độ
đi! không nói gì với tôi nữa. Thế nên tôi chỉ nằm chong mắt lắng nghe
tiếng tích tắc tích tắc phát ra từ chiếc đồng hồ treo tường.

Nhưng ngủ mãi cũng không được.

Buổi
trưa, tôi ăn hai nắm cơm mẹ làm cho. Còn thực đơn của bà cụ bao giờ
cũng vậy: ruốc tảo ăn với cơm nguội, kèm theo đó là món tủ - canh tương
nấu củ cải. Bà cụ nấu cả phần tôi, nhưng vì ở nhà mẹ chưa nấu canh tương
củ cải bao giờ, hơn nữa củ cải ninh đến nát bét cộng thêm nước canh mặn
đắng làm tôi quả thật khó nuốt. Tôi nghĩ thầm, chỉ có bà cụ mới nấu
được món như thế này.

Không chừa lại một giọt nước, bà cụ lúc nào
cũng húp sạch canh tương, không hề để ý là tôi đang ngắc ngứ. Rồi bà cần
thận dùng đũa gắp những lá cải còn sót lại trong bát canh đã uống và
đưa lên miệng. Với cái miệng chỉ còn mỗi ba chiếc răng hàm dưới, bà cụ
chén đủ mọi thứ, từ dưa muối cho đến bánh khô souka. Chẳng hiểu thế nào
mà tôi lại cứ muốn nhìn bà cụ ăn, tới khi gần như bị hớp hồn bởi cái
miệng bà cụ đang há to hết như cái hang, bà cụ sẽ trừng mắt lên nhìn tôi
và nói:

“Này, cháu không ăn đi à?”

Tôi bèn vội vàng và lấy
và để những gì còn trong bát. Nếu bà cụ nói với mẹ là tôi lười ăn thì
còn lâu tôi mới thoát khỏi cảnh khổ này.

Kinh khủng hơn, bà cụ còn
bắt tôi uống thuốc sắc. Đó là thứ thuốc mà bà cụ uống mỗi ngày nhằm
giúp lưu thông khí huyết, vị thuốc rất kỳ dị, chẳng biết là ngọt, đắng
hay chua nữa. Lần đầu uống thứ thuốc ấy, tôi hiểu ra ngay mùi kỳ lạ
trong nhà bà là từ đâu mà có.

“Nếu cháu muốn khỏe mạnh thì phải chịu khó uống đi. Dần dần rồi sẽ quen.”

Mắt
ngân ngấn nước, tôi cố kìm không khóc, mắt chăm chăm nhìn vào họa tiết
hoa mơ vẽ trên chén trà đựng thuốc và nuốt từng ngụm. Lúc ấy tôi tự hỏi,
không biết liệu khi về già như bà cụ, mình có quen được với cái vị kinh
khủng này không?

Theo đúng nghĩa đen, tôi lặng lẽ tiêu hóa nhiều
ngày thuốc sắc, canh tương củ cải và cả cái chăn bông nặng trịch. Tôi
không biết nên nói gì, và lại nếu nói mà chẳng ra đâu vào đâu thì thà im
lặng còn hơn, tôi đã nghĩ theo hướng tiêu cực như thế. Còn bà thì thế
nào nhỉ? Chắc hẳn bà cụ nghĩ, bọn trẻ con đúng là vô tích sự.

Tôi vẫn nhớ như in cái ngày đầu tiên bà cụ thực sự trò chuyện với nhau.

“Bà tới bác sĩ khám mắt nhé. Sẽ về ngay thôi.”

Đó
là lần đầu tiên bà cụ đi vắng kể từ khi tôi đều đặn xuống tầng một. Mặc
dù những lúc chỉ có hai bà cháu tôi chẳng thấy thoải mái chút nào,
nhưng nghĩ đến việc sẽ bị bỏ lại một mình, trong một khắc tôi bỗng muốn
nói: “Bà như thế là không giữ lời hứa!” Song cái cách bà cụ điềm nhiên
thông báo về việc đến bác sĩ khiến tôi chẳng thể làm gì khác hơn là im
lặng gật đầu. Thế đấy, đến bà cụ cũng có việc để làm, có lẽ cả quả đất
này chỉ mình tôi hết ngủ rồi lại dậy, cùng lắm là đọc sách cho qua ngày…
Thấy buồn buồn trong lòng, tôi lặng lẽ nghe tiếng bà cụ đi về phòng,
thay đồ và kiểm tra lại van đường ống gas.

Bà cụ đi vào trong cơn
mưa phùn. Một lát sau, mưa đổ sầm sập và xung quanh dần trở nên tối sầm.
Bà cụ bảo sẽ về ngay, nhưng “ngay” là bao giờ? Càng để ý thời gian,
trong đầu tôi bắt đầu lởn vởn toàn tiếng tích tắc của đồng hồ treo
tường. Khi mắt chòng chọc liếc sang cái đồng hồ, thì từ chỗ cái máng vỡ,
tiếng nước mưa chảy tong tỏng xuống nền đất cứ đập vào tai khiến tôi
thấy khó chịu vô cùng. Thấy như người nóng dần lên, tôi trở mình nhiều
bận. Vừa trở mình tôi vừa lim dim phân vân, không biết nên nhắm chặt mắt
lại để khỏi thấy những gáy sách ngả vàng vì nắng, tấm ảnh ông cụ trên
bàn thờ, những bức phướn vàng vọt và cái nanh nhe ra của con rồng trang
trí… hay nên căng mắt cẩn trọng dõi theo chúng.

Thế rồi, có lẽ tôi
đã ngủ thiếp đi. Đến khi mở mắt ra, trong thoáng chốc, tôi choáng ngợp
bởi ánh sáng, sáng đến mức tôi ngỡ như khắp nơi đang tỏa ra sách vàng.
Đồng hồ đã chỉ quá trưa. Vậy là bà cụ đi vắng được chừng hai tiếng rồi.
Thế mà bà cụ bảo sẽ về ngay cơ đấy. Mà mình đâu có đợi bà về, tôi nghĩ.

Thời
tiết thay đổi đến bất ngờ, không thể tin nổi chỉ vừa mới đây thôi trời
hãy còn sầm sì. Tôi chui ra khỏi đống chăn đệm, mở cửa kéo trông ra
vườn.

Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu thế nào là tươi mới.
Tôi hít căng lồng ngực làn khí thu se lạnh sau cơn mưa. Rồi tôi phát
hiện ra nguyên do vì sao khắp xung quanh như thể sáng bừng và rực rỡ ánh
kim, chính là vì cây dương giữa vườn.

Trong thoáng chốc, tôi quên
cả lạnh, mắt dán vào cây dương to lớn đang vươn mình giữa bầu trời
quang đãng. Cây dương khoác áo vàng, đón ánh sáng trong suốt từ trên cao
đổ xuống. Chẳng biết cây thay màu lá như vậy từ bao giờ. Ngày nào trong
hè tôi cũng say sưa nhìn ngắm cái cây, vậy mà… Rốt cuộc tôi đã làm gì
vậy…

Đúng lúc ấy, từ ngôi nhà ở góc đường, ngôi nhà thứ ba tính từ
trang viên Cây Dương, có tiếng chó sủa inh ỏi. Đó là một con chó lai
chuyên sủa hóng, tôi đoán chắc phải có ai đó đi ngang qua. Quả nhiên,
nhìn về phía hàng rào tôi thấy một chiếc ô màu xanh lá từ từ tiến lại.
Ai đó đang gương ô và thong thả bước đi dù trời đã tạnh mưa. Đó là bà cụ
chủ nhà.

Có lẽ là bởi cái lưng còng mà cả người bà cụ hết lắc
sang trái rồi lại sang phải sau mỗi bước đi. Chiếc túi vải nhỏ bà cụ đeo
vào tay cầm ô cũng đu đưa như quả lắc, thấp thoáng hiện ra phía bên kia
hàng rào.

Chợt có tiếng kêu lảnh lót vang lên từ tán cây dương,
rồi một chú chim nhỏ hơn bồ câu chút xíu vội vàng cất cánh, bà cụ liền
đứng lại. Gác cán ô lên tấm lưng còng và khẽ thò cái cổ ra như một con
rùa, bà cụ ngước mắt nhìn lên.

“Rõ là giống thủy thủ Popeye mà!” tôi nghĩ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3