Hình hài yêu dấu - Chương 14 phần 2
Tôi nhớ tới điều mẹ tôi vẫn nói về một anh chàng cùng đón xe
buýt với chúng tôi, tuổi gấp đôi chị em tôi mà mới học lớp hai. “Anh ta
không biết tự lượng sức mạnh của mình, nên các con phải cẩn thận khi
đứng gần.” Anh ta thích ghì chặt, như một con gấu, bất cứ ai tỏ ra tử tế
với mình, ta có thể nhìn thấy nỗi xúc cảm ngây dại tràn ngập nét mặt
anh ta và dấy lên trong anh lòng khao khát được vuốt ve mơn trớn. Trước
khi bị chuyển trường, đưa đến một nơi nào đó không ai nhắc đến nữa, anh
ta có lần nhấc bổng một cô bé tên Daphne lên rồi ghì chặt đến nỗi khi
anh ta buông tay thì cô bé kia ngã lăn ra đường. Để đến được với
Lindsey, tôi cố đẩy Cõi-Lưng-Chừng, đẩy cật lật đến nỗi bỗng dưng tôi có
cảm tưởng sẽ làm em bị thương thay vì giúp được em, như mình muốn.
Em
gái tôi ngồi trên những bậc thang cuối khá rộng trổ xuống lối ra cửa,
nhắm mắt tập trung điều hòa hơi thở, tập trung vào câu hỏi tại sao em
lại vào nhà tên Harvey này. Em cảm thấy bị bó trong cái gì đấy nặng
trịch, như một con ruồi vướng mạng nhện, bị cuốn tròn trong những sợi tơ
dày. Em biết rằng bố tôi đã ra ruộng ngô vì bị ám ảnh với cái điều giờ
đây đang len lỏi vào tâm trí em. Thì ra em muốn đem về cho bố những
chứng cớ để bố dùng làm bậc thang leo trở lên với em, em muốn cung cấp
cho bố những dữ kiện để những điều bố nói với Len có sức thuyết phục
hơn. Nhưng giờ đây em lại thấy mình đang rơi theo bố vào cái hố sâu
không đáy.
Em còn hai mươi phút.
Trong ngôi nhà này em gái
tôi là người duy nhất còn sống, nhưng em không đơn độc, còn tôi cũng
không phải là bạn đồng hành duy nhất của em. Tiểu sử cuộc đời kẻ giết
hại tôi, thi thể những cô gái hắn bỏ lại đây đó, bắt đầu hiển hiện dần
trước mắt tôi vào lúc này đây, khi em tôi lọt được vào ngôi nhà này. Tôi
đang ở thiên đường. Tôi gọi tên từng người trong bọn họ:
Jackie Mayer, Delaware. 1967. Mười ba tuổi.
Một
chiếc ghế nằm chỏng chơ, lật ngược mặt dưới. Cô bé nằm còng queo mặt
quay về phía chiếc ghế, trên người chỉ mặc độc chiếc áo thun cộc tay kẻ
sọc, không có quần áo gì khác. Cạnh đầu cô là một vũng máu nhỏ.
Flora Hernandez. Delaware. 1963. Tám tuổi.
Hắn
chỉ định rờ rẫm thôi, nhưng cô bé khóc thét lên. Cô bé xíu so với tuổi.
Tất trái và một chiếc giày về sau có tìm ra. Thi thể không tìm thấy.
Xương xẩu nằm dưới hầm đất nện của một tòa chung cư.
Leah Fox. Delaware. 1969. Mười hai tuổi.
Trên
một chiếc ghế nệm dài bọc vải, dưới gầm cầu lối ra xa lộ, hắn giết cô
bé rất êm thấm. Tiếng xe chạy rầm rầm phía trên ru hắn ngủ gục trên cái
xác. Mãi mười tiếng sau, khi một gã vô gia cư gõ gõ vào vách lều tên
Harvey dựng bằng những tấm cửa phế thải, hắn mới lo thu vén đồ đạc bỏ
trốn, mang theo cả thi thể Leah Fox.
Sophie Cichetti. Pennsylvania. 1960. Bốn mươi chín tuổi.
Là
chủ nhà, bà dựng tấm vách bằng Sheetrock ngăn căn hộ tầng trên làm hai.
Hắn thích cái cửa sổ hình bán nguyệt trên vách, giá thuê lại rẻ. Nhưng
bà than thở hoài về cậu con trai và cứ đòi đọc thơ xon-nê cho hắn nghe.
Hắn ngủ với bà bên nửa căn kia, đập vỡ sọ khi bà vừa mở miệng, rồi quẳng
xát ở bờ lạch gần đó.
Leidia Johnson. 1960. Sáu tuổi.
Buck’s company, Pennsylvania. Hắn đào một cái hầm trần hình vòm trong một ngọn đồi gần mỏ đá rồi đợi. Cô bé này ít tuổi nhất.
Wendy Richter. Connecticut. 1971. Mười ba tuổi.
Cô
bé đang đứng chờ ông bố ghẻ đón trước một quán nước. Hắn cưỡng hiếp cô
trong một bụi cây rồi bóp cổ. Lần đó, khi dần tỉnh ra, ngoi lên từ trạng
thái mê loạn thường bủa vây, hắn nghe có tiếng động. Hắn quay gương mặt
cô gái đã chết về phía mình, rồi khi nghe tiếng người lại gần hắn cắn
vào tai cô. “Xin lỗi ông bạn,” hắn nghe hai gã say rượu nói thế trước
khi bước sang bụi cây gần đấy đứng tiểu tiện.
Giờ đây tôi nhìn
thấy cái thành phố toàn nhưng nấm mộ trôi nổi bồng bềnh, lạnh căm, gió
phần phật, là nơi các nạn nhân này tề tựu về, theo những người trên
dương thế hình dung. Tôi có thấy những nạn nhân khác của hắn chiếm ngự
vào nhà hắn - dấu vết của những gì cho phép nhớ đến họ, vào thời điểm họ
lìa trần. Nhưng ngày hôm đó tôi để mặc họ đi tiếp, còn tôi chạy đến với
đứa em gái của tôi.
Lindsey đứng ngay dậy, khi tôi tập trung được
toàn thần trí vào em. Hai chúng tôi cùng nhau lên cầu thang. Em cảm
thấy mình giống những thây ma hồi sinh trong các phim Samuel với Hal
thích xem. Một chân đưa lên trước, đôi mắt vô hồn đăm đăm nhìn thẳng. Em
vào căn phòng mà ở nhà chúng tôi là phòng ngủ của bố mẹ tôi, song không
tìm thấy gì cả. Em đi một vòng hành lang trên gác. Cũng không nốt. Rồi
em vào nơi mà ở nhà tôi vốn là phòng tôi trước kia, còn ở đây là phòng
ngủ của kẻ giết tôi.
Đó là căn phòng ít trống trải nhất trong ngôi
nhà và em cố không xê dịch gì hết. Thò tay vào giữa chồng áo len xếp
trên kệ, em trù tính rằng em sẽ tìm thấy gì đấy trong lớp len ấm áp -
một con dao, một khẩu súng, một chiếc bút bi hiệu Bic bị con Holiday
gặm. Chẳng có gì hết thảy. Nhưng rồi nghe có tiếng gì đấy mà em không
xác định được, em quay về phía chiếc giường, thấy chiếc bàn ngủ và trong
cái quầng sáng của ngọn đèn chưa tắt là quyển sổ hắn dùng phác sơ đồ.
Em đi tới đó, lại nghe tiếng động, lại một tiếng động nữa mà không giải
thích được đó là những tiếng gì. Một chiếc xe hơi phóng đi. Tiếng xe
phanh rít. Tiếng sập cửa xe.
Em lật từng trang trong sổ tập vẽ,
nhìn những hình phác bằng mực những xà ngang, thanh giằng hay những tháp
con, cột chống, nhìn những kích thước và chú thích chẳng gợi được cho
em điều gì. Rồi, khi lật tới trang cuối, em mới nghe ra có tiếng bước
chân bên ngoài, rất gần.
Đúng lúc tên Harvey vặn chìa trong ổ khóa
cửa trước thì em nhìn thấy bức họa phác sơ sài bằng bút chì trước mặt.
Hình vẽ cây cối bên trên một cái hố đào, cạnh đó là chi tiết về giá đỡ
và ống dẫn khói thoát ra, và điều xoáy sâu vào đầu óc em là: bằng nét
chữ mỏng như tơ nhện hắn ghi thêm mấy chữ “Cánh đồng ngô Stolfuz.” Nếu
không có những bài báo sau khi phát hiện mẩu xương khuỷu tay của tôi hẳn
em không thể biết người chủ cánh đồng ngô mang tên Stolfuz. Giờ đây em
nhìn thấy điều tôi muốn em biết. Tôi đã lìa trần trong cái hố ấy; tôi đã
gào thét, chống trả cật lực và rồi thua cuộc.
Em xé lấy trang
giấy đó. Tên Harvey đang ở trong bếp chuẩn bị bữa ăn - món pa-tê gan hắn
khoái, một đĩa nho xanh ngọt. Hắn nghe tiếng gỗ sàn cót két. Người hắn
đờ cứng. Hắn lại nghe lần nữa, lưng hắn rướn lên, hắn hiểu ngay cơ sự.
Nho
rơi lăn lóc xuống sàn, bị chân trái của hắn giẫm nát, trong khi đó em
gái tôi ở phòng trên lao ra chỗ tấm mành mành nhôm, kéo chốt cái cửa sổ
không chịu bật ra. Tên Harvey nhảy từng hai bậc thang một, còn em gái
tôi lấy tay đấm bật tung lưới muỗi, leo ra mái hiên, lăn người xuống,
đúng lúc hắn lên tới hành lang trên lầu, lao về phía em. Ống máng vỡ
toang khi em tôi lăn qua. Lúc hắn bổ nhào vào phòng ngủ thì em tôi đã
nhảy xuống trúng bụi gai hàng rào, lạng tiếp sang bụi cây mâm xôi và
cuối cùng rơi giữa đống rác.
Nhưng em không bị thương. Như có phép
lạ em không hề hấn gì. Tuyệt vời thay tuổi trẻ. Em đứng dậy khi hắn
chạy trờ đến bên cửa sổ định leo ra. Nhưng hắn lại thôi. Hắn thấy em
chạy về phía cây hương mộc. Con số in lụa trên lưng áo em quát trả vào
mặt hắn. 5! 5! 5!
Lindsey Salmon với chiếc áo cầu thủ bóng đá của mình.
Khi Lindsey chạy về đến nhà thì Samuel đang ngồi với bố mẹ tôi và bà ngoại Lynn.
“Chúa ơi!”, mẹ tôi kêu lên, bà là người đầu tiên thấy em khi nhìn qua mấy khung cửa sổ nhỏ vuông vức hai bên cửa chính vào nhà.
Lúc
mẹ tôi vừa mở cửa thì Samuel chạy ào ra, lấp đầy không gian, và thế là
em, không nhìn mẹ tôi, cả bố tôi đang khập khiễng bước ra, ngả ngay vào
vòng tay Samuel.
“Lạy chúa, lạy chúa, lạy chúa,” mẹ tôi kêu lên khi nhận ra vết bẩn và những vết trầy xước.
Bà ngoại tôi tới đứng bên cạnh mẹ.
Samuel đặt tay lên đầu em gái tôi, vuốt tóc em ra sau.
“Nãy giờ em ở đâu vậy?”
Nhưng
Lindsey quay sang bố chúng tôi, giờ đây trông người ông bé hẳn - nhỏ
hơn, yếu ớt hơn đứa con gái đang lên cơn giận này. Sao mà em sinh động
thế! Câu hỏi này làm bận trí tôi suốt ngày hôm ấy.
“Bố đấy hả!”
“Bố đây, sao con?”
“Con làm rồi. Con lẻn được vào nhà hắn.” Người em còn run, nhưng em cố nén không bật khóc.
Mẹ tôi thảng thốt: “con làm gì?”
Nhưng em gái tôi không nhìn bà, dù chỉ một lần.
“Con mang về cho bố cái này. Con đoán chắc là quan trọng đấy.”
Em nắm trong tay bức vẽ đã vo tròn. Bức vẽ làm cho việc nhảy xuống đất gian truân hơn, nhưng cuối cùng em đã thoát nạn.
Câu nói bố tôi đọc ngày hôm ấy giờ đây bỗng trở lại trong trí ông. Lúc cao giọng lập lại câu nói ấy, ông nhìn vào mắt Lyndsey.
“Không có hoàn cảnh nào khiến con người phải thích nghi nhanh chóng cho bằng thời chiến.”
Lindsey đưa cho bố bức vẽ.
“Tôi phải đi đón Buckley đây,” mẹ tôi nói.
“Mẹ không muốn nhìn xem đấy là gì hay sao, hở mẹ?”
“Mẹ
biết nói sao đây, bà ngoại con đến chơi. Mẹ phải đi chợ, làm món gà.
Xem ra chẳng ai nhớ là cả gia đình tụ họp ở đây. Cả một gia đình, một
gia đình và một đứa con trai, tôi phải đi đây.”
Bà ngoại Lynn đi theo mẹ tôi ra cửa sau, nhưng không tìm cách ngăn bà lại.
Mẹ
tôi đi khỏi rồi em gái tôi mới đưa tay cho Samuel. Bố tôi thấy điều mà
Lindsey đã nhìn ra qua nét chữ mạng nhện của tên Harvey: rất có thể đó
là sơ đồ cái hố chôn tôi. Ông ngẩng lên.
“Giờ con tin bố rồi chứ?”, bố hỏi Lyndsey.
“Vâng, thưa bố.”
Bố tôi - giờ đây nhẹ lòng - thấy phải gọi điện thoại ngay.
“Bố!” em gọi.
“Sao con?”
“Con nghĩ hắn nhìn ra con rồi.”
Tôi
không thể tưởng tượng còn có vận may nào lớn hơn việc em gái tôi thoát
thân an toàn ngày hôm ấy. Khi rời khỏi vọng lâu, tôi rùng mình vì nỗi lo
sợ còn choáng ngợp, không chỉ lo cho bố tôi, mẹ tôi, em Buckley và
Samuel, nếu như em mất đi trên cõi dương thế, mà lo - quả là ích kỷ -
cho cả chính tôi nữa.
Franny từ quán cà phê bước lại gần tôi. Tôi chẳng buồn ngẩng đầu.
“Susie ơi”, bà nói, “cô có chuyện này cần nói với cháu”
Bà dẫn tôi đến dưới một cây cột đèn kiểu cổ rồi kéo tôi ra khỏi vầng ánh sáng. Bà đưa tôi một mảnh giấy gấp làm bốn.
“Khi nào thấy người khỏe lại, cháu mở ra xem rồi cứ thế tìm đường đến đó.”
Hai
ngày sau, tấm bản đồ của Franny đưa tôi đến một cánh đồng tôi vẫn
thường đi ngang qua, nhưng chưa từng rẽ vào xem thử, dù thấy tuyệt đẹp.
Hình vẽ có một đường chấm chấm, dấu hiệu chỉ một lộ trình. Tôi sốt ruột
lùng sục, tìm một con đường ngoằn ngoèo giữa vô vàn luống lúa mì. Thế
rồi tôi thấy nó ngay trước mặt, khi tôi vừa đặt chân giữa những luống ấy
thì mảnh giấy tan vụn trong tay.
Tôi nhìn thấy một cây ô-liu cổ thụ tuyệt đẹp ngay trước mặt.
Mặt
trời đã lên cao, phía trước cây ô-liu là một trảng đất. Tôi chờ một lúc
cho đến khi thấy vạt lúa mì phía bên kia lay động, tức có ai đó - không
cao hơn ngọn lúa - đang đi đến.
Cô bé trông nhỏ hơn tuổi của mình trên cõi trần, mặc chiếc áo vải bông dày in hoa, chỗ gấu và cổ tay đã bị sờn.
Cô bé dừng bước và chúng tôi chăm chú nhìn nhau.
“Hầu như ngày nào em cũng tới đây,” cô bé nói. “Em thích nghe những âm thanh này.”
Bây giờ tôi mới nhận thấy cành lúa mì xào xạc khi chúng cọ vào nhau trong gió.
“Em có biết cô Franny không?”, tôi hỏi.
Cô bé gật đầu, thái độ long trọng.
“Cô ấy đã đưa chị bản đồ để tìm đến nơi này.”
“Vậy
hẳn chị đã sẵn sàng rồi,” cô bé nói, nhưng cô đang ở trong thiên đường
của mình, và điều đó đòi hỏi cô phải xoay người cho chiếc váy xòe tròn.
Tôi ngồi luôn xuống đất dưới gốc cây, quan sát cô.
Múa xong, cô bé
lại ngồi bên tôi, còn hụt hơi chưa kịp lấy lại nhịp thở. “Em tên là
Flora Hernandez,” cô bé nói. “Dưới trần tên chị là gì?”
Tôi trả lời em rồi bật khóc, thấy được an ủi khi quen biết một cô gái khác cũng đã bị hắn giết.
“Những người kia sẽ tới ngay thôi,” cô bé nói.
Rồi
trong lúc Flora quay tròn, những cô gái và phụ nữ khác, từ mọi hướng,
băng qua cánh đồng tề tựu lại đây. Nỗi đau trong tim chúng tôi đổ vào
nhau như nước san từ ly này qua ly khác. Mỗi lần kể chuyện mình, tôi lại
bớt được một giọt nhỏ đau thương. Ngày hôm ấy tôi biết tôi muốn kể lại
câu chuyện của gia đình mình. Bởi vì những chuyện kinh hoàng ở trần thế
là điều có thật và diễn ra từng ngày. Nó như bông hoa hay mặt trời kia,
không ai và không có cách nào ngăn ngừa hay trấn áp được.

