Vườn tình - Chương 07

- Thế thì nói theo tao, Ariel nói: “Tôi là một đống cứt lớn.”.

Ariel chờ vài giây, sau đó hắn gí mạnh khẩu súng và đồng thời lên nòng. Cartereau giật nảy mình.

- Nói đi, Ariel nói.

Tôi
đứng đó, bên cạnh. Tôi chứng kiến cảnh tượng đó. Tôi có biết khẩu súng
không có đạn cũng bằng thừa, tôi tưởng tượng cảnh óc của Cartereau nổ
tung. Tôi bắt gặp ánh mắt hắn nhìn tôi vẻ van lơn. Tôi không e hè.

Cartereau nhắm mắt lại.

- Tôi là một đống cứt lớn... Hắn nói.

- Tốt, Ariel nói. Rồi hắn tiếp tục: “Tôi là một con lợn nái nhơ nhớp và tôi muốn được người ta lắp đít.”

Mặt của Cartereau co rúm lại. Hắn vẫn nhắm mắt. Hắn nói theo. Ariel tiếp tục.

-
Tôi thích được mấy ông già đâm thủng hậu môn. Tôi thích được họ thọc
dương vật vào miệng. Tôi thích mút liếm họ cho đến tận xương tủy và nuốt
hết tinh trùng của họ...

Hắn tiếp tục như thế trong khoảng hai
phút. Miệng hắn tuôn ra những từ ngữ hết sức sống sượng và độc địa mà
Cartereau phải nhắc lại giữa hai tiếng nấc bằng một giọng nói lí nha lí
nhí hẳn chỉ xuất hiện từ thuở hắn còn bé dại. Nhưng kinh khủng nhất
chính là giọng nói của Ariel. Một giọng nói không âm sắc và không ngữ
điệu. Hoàn toàn lưng chừng. Qua đó người ta không cảm thấy có sự căm thù
hay tức giận mà nhẽ ra cần để nuôi dưỡng nó. Như thể chính Ariel đang
nhắc lại những câu nói của một thế lực hoàn toàn xa lạ với hắn. Như thể
hắn chỉ là một sứ giả. Một người làm trung gian. Khi rốt cuộc hắn không
lải nhải và ép Cartereau nói nữa, Cartereau khuỵu xuống chân tường, đúng
vào vũng nước đái của chính hắn. Hắn đau và khóc. Tôi nghĩ kể từ ngày
hôm đó hắn sẽ không bao giờ là hắn nữa. Tôi nghĩ hắn đã mất mặt và tất
nhiên còn mất cái gì đó quan trọng hơn. Phải nói rằng tôi không cảm thấy
thương hại tí nào.

- Điều cuối cùng, - Ariel nói - Nếu không may
tao và bạn tao đang có mặt ở đây gặp phiền toái gì, tao thề danh dự, tao
thề sẽ cắn thủng bụng mày, Cartereau ạ.

Rồi, người hơi cúi xuống, hắn nói thêm:

- Mày không có đầu, Cartereau ạ. Mày không có tim. Mày chỉ còn mỗi cái bụng thôi!

Nói
xong, hắn quay gót. Tôi còn nhớ khoảnh khắc đó như một khoảnh khắc ban
ơn. Tôi nghe tiếng bước chân của Ariel nhỏ dần sau lưng tôi. Tôi nghe
tiếng Cartereau rên rỉ. Nhưng trên hết tất cả, âm vang trong tôi lúc ấy
là âm vang quyến rũ của những từ ngữ: “bạn tao đang có mặt ở đây.”

Bạn tao... Bạn tao... Bạn tao...

Ariel
bấm còi. Hắn chờ tôi. Tôi trở lại với hắn. Chúng tôi bỏ đi mà không hề
liếc mắt nhìn con thú đang sóng soài dưới đất. Khi hắn đậu xe dưới chung
cư tôi ở thì trời đã sẩm tối. Khu nhà yên bình và tĩnh mịch. Tôi không
muốn xuống xe nữa. Tôi chỉ muốn nằm. Muốn úp mặt vào gối hắn, muốn mơ
màng trong những cử chỉ vuốt ve của hắn.

Tôi ngủ như chết cho đến
sáu giờ sáng hôm sau. Liên tục mười bốn tiếng. Không ai ghé thăm. Không
mơ màng, không ác mộng. Một điều kỳ diệu. Mới đây thôi tôi đã qua đêm
trong hôn mê vì rượu. Thêm một chút nữa thôi thì giờ hẳn là tôi đã thấy
trời xanh, ai mà biết được?

Không được đi quá xa.

Khi mở mắt
ra tôi mới nhận ra là mình đau. Áo giáp sắt và mũ chì. Vùng thắt lưng
bị siết chặt, chân tay co cứng, kiến bò khắp nơi, cả trọng lượng tuổi
tác và các mạch trên cơ thể tôi. Tưởng như tôi không bao giờ dậy được
nếu không có cần cẩu đỡ lên.

Tôi đi tắm, để cho tia nước nóng làm
tan kim loại trên da thịt mình. Tôi mặc quần áo sạch vào. Rồi tôi xuống
bếp pha cà phê. Uống hết ly cà phê thứ hai thì nếp nhăn trên trán mới
bắt đầu giãn ra. Tôi ngồi xuống và gom những tờ giấy của cuốn sổ tay lại
thành một chồng bằng phẳng. Sau đó tôi hít thật sâu rồi say sưa đọc
tiếp.

Tôi đọc lại cuốn sổ tay từ đầu chí cuối mà không rời ghế.
Lần này tôi cảnh giác hơn. Tôi cố gắng lùi lại một khoảng cách cần
thiết. Với một con mắt chuyên nghiệp và phê phán. Một con mắt cảnh sát.
Qua cú sốc đầu tiên, tôi tìm lại cảm giác mà đã từ lâu lắm rồi chưa hề
lướt qua: cảm giác nghĩa vụ đang kêu gọi mình. Nghĩa vụ hiểu và giải
quyết - về khoản trừng phạt thì đã xong xuôi. Vào thời đó tôi đã bỏ qua
khá nhiều thứ. Tôi đã phớt lờ. Trực giác, đúng vậy, nhưng không nhiều
yếu tố cụ thể, dễ nắm bắt, không gì có thể làm cho hồ sơ kết án đầy đủ
hơn, trụ được trước ban hội thẩm lại càng không. Trừ phi có bằng chứng
cuối cùng, đúng như vậy. Gần như không thể tránh được. Con mồi bị tuột
mất. Nhưng đã quá muộn.

Giờ thì tôi không còn cách nào để trở về
dĩ vãng và làm chệch dòng chảy của nó nữa. Cuốn sổ tay trước mắt chỉ cho
phép tôi chơi nốt trò chơi ghép hình, vòng vo Tam quốc. Mặc dầu tôi còn
phải biết cách giải mã nữa.

Bằng chứng giả này là tất cả, trừ
tính khách quan, tôi đủ tầm để biết điều đó. Khi đọc lần thứ hai, trước
tiên tôi buộc mình phải phân biệt đúng sai, có nghĩa là phân biệt phần
ảo và phần thật của câu chuyện. Mệnh lệnh duy nhất: bằng chứng, Alex ạ!
Những bằng chứng được miêu tả qua những dòng chữ đó, những bằng chứng
được gợi ý, được đối chiếu với những bằng chứng mà tôi biết - những bằng
chứng đã được sáng tỏ. Từng bước một, tôi đi ngược con đường mà cuốn sổ
tay đó đã vạch ra, vẫn với cảm giác đi dạo trong cung điện bằng băng ở
hội chợ. Đầu óc nhằng nhịt rối rắm của Édouard Dayms. Bộ não sa sút trí
tuệ của hắn. Khi thì đoán chắc là thằng cha này biết và đang cố tình đùa
giỡn, khi thì nghĩ hắn cũng nhớn nhác như tôi.

Ba giờ sau, tôi
cầm bút và một mẩu giấy, trên đó tôi viết: Tại sao lại để tiêu đề này?
Tiếp theo là một chuỗi câu hỏi và nhận xét mà nghĩ đến đâu tôi nguệch
ngoạc viết ra đến đấy. Sau đó tôi đọc lại những ghi chép đó và tự nhủ:
Đối với một người, như thế đã là quá nhiều. Qua cửa sổ, tôi có thể nhận
ra là trời không mưa nữa nhưng bầu trời vẫn luôn xám xịt. Và nặng trĩu.
Tôi thở dài. Trước khi nhét mẩu giấy vào túi, tôi thêm một câu bình luận
cuối cùng: Đồ ngu, đừng nghe con tim mày mách bảo!

Rồi tôi bắt
đầu bằng việc không nghe theo lời khuyên bảo tuyệt diệu đó. Tức là tôi
đã làm một việc mà tôi thường nghĩ đến, mà tôi cũng thường gạt đi vì một
tá lý do, chính đáng và ít chính đáng hơn. Tôi lại đặt tay lên cuốn
danh bạ điện thoại cũ, mở ra trang bắt đầu bằng chữ M, rồi tôi bấm số,
hy vọng số đó vẫn còn hoạt động. Nghe tiếng chuông đầu tiên, tôi nhắm
mắt lại.

Em không ở nhà.

Em không ở nhà, em không là người
ngày đêm bên điện thoại để chờ tôi. Tôi không hy vọng thế. Tôi không để
lại lời nhắn vào máy tự động trả lời. Tôi quyết định đến chờ em tại cổng
trường cấp hai. Tôi đến đó trước 15 giờ một chút. Khoảng chừng thế. Tôi
không hề biết gì về thời gian biểu của em. Nói thật, thậm chí tôi không
chắc là em còn dạy trường này. Tôi không thể nhớ lần cuối cùng tôi gặp
em. Nếu em đã rời thành phố thì ai là người báo cho tôi? Nếu em đã từ bỏ
cõi đời này thì sao? Tôi ngồi trong xe chờ. Cổng trường trong tầm ngắm.
Tan học lúc 15 giờ 30. Rồi 16 giờ 30. Cứ mỗi lần như thế tôi chăm chăm
nhìn vào đám đông, sợ bỏ qua em. Và sợ thấy em xuất hiện. Vì thế, tôi
phải bấu víu vào cái cớ của mình. Tôi có lý do chính đáng để có mặt tại
đây: xin chỉ dẫn một điều, xin trả lời một câu hỏi rất cụ thể - “Tại sao
lại để tiêu đề này? - Nếu cần, tôi vẫn luôn có thể viện cớ mình đến xin
chuyên gia tư vấn. Điều này có thể làm cho em cười cũng nên.

Nhưng
em không có mặt trong đám đông. Tôi thấy học sinh ùa ra rồi, khi đã qua
cổng, chúng tản ra mỗi người một hướng. Những cụm học sinh, con trai và
con gái, đi bộ và đi xe đạp, một số đứa chờ xe buýt xa hơn một tí,
những đứa khác chui vào xe ôtô của bố mẹ đang đậu thành hai hàng. Nhìn
chúng, tôi cảm thấy xót xa vô cùng. Tôi kìm nén được một lúc, rồi tất cả
bỗng nhiên vỡ òa. Tôi không thể không nghĩ đến chúng. Tôi biết quá ít
về việc ấy: công việc đưa con tới trường vào buổi sáng và đón con vào
buổi chiều. Niềm vui chung không nói thành lời ấy. Tôi tự nhủ là phần
lớn những ông bố bà mẹ không biết trân trọng sự may mắn của họ. Bình
thường thôi. Tôi như thấy hình ảnh hai thiên thần của tôi trong số những
đứa học sinh cấp hai này. Cùng tuổi, cùng nét mặt, cùng bộ dạng lố
lăng. Tôi nhầm. Khốn nỗi, tôi nhẩm tính và kết quả đã làm tôi đau đớn
cùng cực: thằng lớn năm đó nhẽ ra đã hai mươi tư tuổi, còn thằng bé hai
mươi hai.

Mẹ kiếp! Con tôi giờ nhẽ ra đã thành người lớn, còn tôi đúng là không thể tưởng tượng nổi gương mặt chúng như thế nào!

“Đến đi, Maria”, tôi nghĩ bụng. “Đến đi, anh xin em. Bây giờ là lúc anh cần em nhất. Em là chỗ dựa cuối cùng còn sống của anh”.

17
giờ 30, đám học sinh cuối cùng từ trong trường ào ra. Sàng lọc cẩn thận
nhưng vô ích. Không thấy Marie. Cổng trường đã đóng lại. Đêm xuống. Tôi
nán lại một lúc trước cổng trường hoang vắng. Thật là tốt cho bộ dạng
của tôi. Trở về thực tại với những hoạt động tầm thường của nó. Tôi còn
phải học lại rất nhiều.

Tôi bật công tắc rồi quay xe ở đầu ngõ
cụt. Khi tôi đi qua cổng trường, bóng một người phụ nữ đang đi qua. Về
muộn. Dưới ánh đèn đường, tôi thấy người phụ nữ đó xuất hiện gần như cô
đơn, giống như tôi. Tôi thắng gấp. Tiếng két của phanh xe đã làm chị
giật mình. Chị quay lại và mắt chúng tôi gặp nhau. Đúng lúc đó tôi mới
thực sự nhận ra sự vắng bóng của tôi mênh mông đến thế nào. Tôi đã ở tận
hoang đảo xa xôi lâu đến mức nào. Tôi đã không thấy gì lướt qua trước
mắt mình. Quả bom nổ chậm đó đã lặng lẽ nổ gay ở bụng tôi và lực của nó
tiếp tục lan tỏa khắp lục phủ ngũ tạng trong khi mà hai chúng tôi ở đó,
bất động, chăm chăm nhìn nhau qua kính chắn gió. Sự kinh ngạc của em hẳn
thuộc loại khác.

Thật lạ là khi tôi nghĩ đến Marie, những hình
ảnh thoáng qua đầu tôi là những hình ảnh khi em mười tám tuổi. Những
chân dung khác, những điệu bộ khác. Người phụ nữ trẻ đang chơi đàn
viôlôngxen: Em đang ngồi trước ngựa đàn, nhạc cụ đặt giữa hai chân, một
tay cầm vĩ, tay kia cầm đàn, mắt hé mở, vẻ rất tập trung, rất chuyên tâm
và say đắm. Hoặc thiếu nữ trên bãi biển: Ngồi trên tảng đá, mặc một
chiếc váy in những bông hoa lớn mà em không chịu thay, váy bó chặt quanh
hai đầu gối, gió thổi tung những lọn tóc dài, một nụ cười sầu muộn
thoảng trên môi khi thấy chúng tôi từ dưới biển đi lên, người đầm đìa
nước và lưng tưng như những con chó con... Những thứ đại loại như thế.
Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu như thế. Tôi chỉ còn nhớ những khoảnh
khắc đó. Mặc dầu vậy, tôi thường ôn lại chuyện của chúng tôi những năm
sau đó. Em vẫn ở rất gần chúng tôi. Thành viên thứ năm trong gia đình.
Bánh xe thứ năm của chiếc xe ngựa bốn bánh.

Chính Marie là người
đã cho tôi biết tin. Vào thời đó, Marie là người duy nhất còn có thể kéo
tôi ra khỏi hang. Một buổi sáng tháng Mười, vào lúc năm giờ ba mươi
phút, trời vẫn nhá nhem tối. Khi trên tay tôi vẫn còn đôi tám chết tiệt
thì người ta chuyển cuộc gọi của em cho tôi. Tôi không nhận ra giọng của
em bên kia đầu dây: “Alex... Có một tai nạn...”

Kể từ lúc đó, không có gì và cũng không ai còn có uy lực với tôi nữa. Ngoài Édouard Dayms ra.

*

*     *

Những
tháng đầu tiên, Étienne, như nhiều đứa bé khác, thỉnh thoảng khóc ré
lên vào ban đêm vì không ngủ được. Tôi dậy. Tôi lại giường gỗ bồng nó
lên. Rồi tôi nằm ngửa xuống nền gạch, cho nó nằm trên ngực tôi. Nó nằm
lọt thỏm trên ngực tôi. Người nó nhẹ tênh. Tôi thì thầm trong bóng đêm
một lời ru tự sáng tác, mỗi lần ru mỗi khác, ru nó và ru cả tôi. Ngôn từ
không có nghĩa gì cả, chỉ có giai điệu êm dịu, chầm chậm và bay bổng là
quan trọng thôi.

Cuối cùng nó cũng bình tĩnh lại. Nó không còn
khóc và cũng không còn giãy giụa nữa, rồi sau đó, tôi cảm thấy hơi thở
ngắn và đều đều của nó trong giấc ngủ. Phía trên của bờ trán đầy lông tơ
của nó kê dưới cằm tôi. Nếu như trước khi thiu ngủ, tay nó theo phản xạ
bấu lấy cổ tôi thì tôi xem đó là một phần thưởng vô giá.

Nó không nằm trên người tôi, nó nằm trong lòng tôi. Tôi biết không kẻ nào có thể cướp con của tôi.


ngủ đã lâu mà tôi vẫn còn lầm rầm hát ru. Thậm chí nhiều khi tôi thấy
ánh sáng ban ngày xuyên qua cửa sổ phòng nó, và trong ánh sáng lờ mờ đầu
tiên này hiện ra cành nhánh của cái động tử treo trên trần, dường như
nó đang từ từ hồi sinh.

Những đêm đẹp nhất kết thúc như thế.

Thời
đó qua quá nhanh và tất nhiên nó sẽ không bao giờ trở lại. Đúng là
thỉnh thoảng tôi thấy tiếc là Mattéo, thằng con thứ hai, đã chìm vào
giấc ngủ say.

Tôi yêu tiếng bước chân của chúng khi chúng đi giày
nhảy lưng tưng trong căn hộ. Tôi yêu khoảnh khắc chúng sợ, một nỗi sợ vô
căn cứ những mụ phù thủy đến thăm chúng trong bóng tối. Tôi yêu và đố
kỵ với sự tự do, rảnh rỗi của chúng. Điều này để chắc chắn rằng chúng ta
đang nói về những chuyện như nhau, thưa ông Astrid.

Thế là một thời kỳ huy hoàng tráng lệ mở ra.

Cartereau
không xuất hiện ở trường nữa. Tôi không tin hắn đã tiết lộ cho ai đó
những lý do vắng mặt thật sự của hắn. Một số người nói hắn đã bị tai nạn
giao thông, một số người khác lại nói là hắn mắc bệnh lao phổi, một số
người khác nữa lại bảo hắn đã tòng quân trước hạn. Ai muốn nói gì thì
nói. Ngoài những thằng ăn bám trung thành nhất của hắn, không ai khóc
thương hắn cả, và bóng của hắn đã không trùm lên các hành lang và các
lớp học trong một thời gian khá lâu.

Ariel không khoe khoang. Hắn
không tìm kiếm vinh quang. Còn tôi, tôi quá sung sướng vì mình là người
duy nhất biết bí mật, và quá đố kỵ nên không thể chia sẻ đặc quyền này
cho bất cứ ai khác.

Tình bạn được hòa tan vào trong máu của một con rồng bị quật ngã. Ta hãy uống đi.

Tôi
sẽ có thể lấy gì làm chỗ dựa cho những tuần, những tháng sau đó? Bằng
chứng, ngoại trừ trước mắt tôi, thì hẳn không có gì ghê gớm cả. Và ngôn
từ thường bất lực khi cần đi sâu vào tình cảm. Ngôn từ vốn thường chuyển
hướng và phản bội. Tất cả những gì thoát ra từ miệng chúng ta, tất cả
những gì nằm trên giấy chỉ là thịt thối.

Tôi không còn đơn độc nữa.

Tôi
và Ariel luôn ngầm ý giữ khoảng cách trên lớp, ai cũng thấy thế cả. Tất
cả chỉ diễn ra ở phía ngoài. Qua khuôn viên trường học, nếu có điều
kiện là chúng tôi tìm đến nhau. Gặp nhau. Đi dạo. Lang thang đây đó. Dần
dà, Ariel bắt đầu mở lòng tâm sự và qua đó thậm chí còn khai tâm cho
tôi. Tôi sẽ không nhắc lại những lời hắn nói, những lời nói đó chỉ liên
quan đến chúng tôi và dường như không có trọng lượng nào ở nơi khác, có
chăng thì cũng chỉ đè nặng lên lương tâm tôi. Người ta phải hiểu rằng,
không chỉ Ariel ngày này qua ngày khác đào một hố sâu trong lòng tôi, mà
hắn còn từ từ lấp đầy hố sâu đó.

Tôi đã đến phòng hắn chơi. Phòng
của Ariel nằm trong một ngôi nhà rộng lớn bên một vách đá. Hay tôi phải
nói đó là “xà lim” của hắn? Căn phòng nằm ở phía trên cùng, ngay dưới
mái nhà, phía đầu là một hành lang, khi đi qua hành lang này người ta
không thể không cúi cổ xuống bởi trần quá thấp. Ariel ở đó.

Tôi
còn nhớ mình đã xúc động như thế nào khi lần đầu tiên xuất hiện trước
cánh cửa nhỏ sơn trắng đó. Như đứng trước ngưỡng cửa một lối đi bí mật,
một lối đi dẫn tôi đến trung tâm của bí ẩn. Và sự ngạc nhiên của tôi khi
Ariel mở cửa ra.

Chỉ nhìn một cái tôi đã bao quát hết. Căn phòng
có kích thước bằng một buồng tắm. Nó trần trụi, trống rỗng vô cùng. Chỗ
nằm của Ariel là một tấm nệm được đặt dưới nền nhà. Một cái bàn học sinh
cao cao thay cho bàn làm việc, muốn viết cái gì thì phải đứng. Cuối
cùng, đồ vật cuối cùng trong phòng: một cái giá sách đóng trên tường.
Ariel chồng sách vở lên đó. Trên đó cũng có một chiếc hộp gỗ (đó là một
loại hộp gỗ để giữ nhiệt cho thuốc xì gà) và một con lắc tí hon đang vận
động liên tục, thời ấy con lắc này thịnh hành lắm. Bằng một động tác
chính xác và tuyệt đối thăng bằng, hai viên bi kim loại va chạm nhau ở
đầu que, viên này tạo đà cho viên kia và ngược lại, và cứ thế liên tục.
Đúng điểm này là điểm mà Ariel định tâm kiểm tra lại: rằng sự vĩnh cửu
tồn tại trên cõi đời này.

Ariel đã khởi xướng sự vận động ngay khi
mới ở phòng này. Điều này muốn nói rằng từ nhiều tuần, nhiều tháng nay,
những hòn bi đó lúc lắc liên tục, lách cách phân đoạn ngày và đêm như
những chiếc kim của cái đồng hồ báo thức quái gở.

Nếu chưa có ai
nghĩ đến chuyện cho nó ngừng lại, có thể giờ âm thanh đó vẫn đang còn,
trong sự tĩnh mịch của ngôi nhà trống rỗng, bị bỏ rơi. Cú đớp của con
quạ lên áo giáp của những kẻ đã chết.

Chỉ sau này tôi mới biết hộp đựng xì gà đó có chứa cái gì.

Toàn
cảnh chỉ có thế. Không có ghế, không có tủ, không có đĩa nhạc cũng như
không có sách, dĩ nhiên trên tường cũng không có áp phích, không có
tranh ảnh của gái đẹp hay ngôi sao, không có đồ gì vương vãi dưới nền
nhà, cho dù nó sạch hay bẩn, thậm chí bụi bặm cũng không nốt. Tôi đang
nói về gian phòng của một thanh niên chưa đến mười bảy tuổi!

Tôi
thường tưởng tượng Ariel nằm dài trong cái hang bé nhỏ và khắc khổ khi
đêm buông xuống. Chỉ hình ảnh tưởng tượng đó cũng đủ đè nặng lên lòng
tôi.

Tạ ơn Chúa, từ trên đó người ta có thể thấy sóng biển thấp
thoáng xa xa qua những ô cửa sổ, có chút ít ánh sáng xuyên qua cửa sổ
đó. Có thể thấy đỉnh đồi.

Xa hơn nữa có thể thấy mỏm đá lớn màu xám nâu mà người ta gọi là Mũi Sừng.

Có thể thấy biển khơi và chân trời. Nhưng hẳn Ariei không cần nhiều không gian để chinh phục đến nhường ấy.

Hắn
sống một mình với bố. Cả hai là những kẻ tha phương cầu thực. Họ từ
Thụy Sĩ tới. Họ đã mua biệt thự này và dọn đến vài tháng trước đó. Gần
như quá nhanh. Tại sao lại ở đây? Tại sao lại là vùng này? Những kỷ niệm
tuổi thơ của Walter Weiss. Những kỳ nghỉ trong những vùng lân cận cùng
bố mẹ. Hắn đã gợi lại không khí êm dịu của cuộc sống cũng như không gian
tràn trề sinh lực của biển khơi…

Một cuộc sống êm dịu!

Thật
ra họ đã chạy trốn. Cố chạy trốn. Có những bóng ma đuổi theo, những cơn
ám ảnh mà ông Weiss, cha của hắn, hẳn đã hy vọng có thể tan biến dưới
ánh nắng mặt trời của miền Nam, cũng như những con ma cà rồng vốn sợ ánh
sáng ban ngày.

Tôi rùng mình khi nghĩ đến sự căng thẳng ngự trị
giữa người cha và người con. Không có cuộc trao đổi nào tỏ ra vô hại cả.
Trong từng sự im lặng của họ cũng như trong từng lời nói hiếm hoi mà họ
trao đổi với nhau, luôn vang lên trong thẳm sâu những âm thanh thấp
trầm và réo rít của sự hận thù. Từ những ánh mắt nhìn nhau của họ toát
ra một sự oán hận nếu không phải là sự sâu cay của mối căm thù. Cho dù
khi tôi có mặt, họ cố gắng đến mấy (và họ chẳng mấy khi cố gắng) để giấu
giếm, để làm giảm bớt đi thì tôi vẫn cảm thấy điều đó. Trong quan hệ
của họ cái gì cũng chất chứa sự đắng cay và bạo lực rất khó kiềm chế,
đôi khi bị thổi bùng lên.

Báo cáo nội dung xấu