Vườn tình - Chương 14
Trước khi đi, Florence nhặt con hổ bông dưới đất lên. Con hổ
vàng có những sọc đen. Em đặt con hổ lên gối của cậu bé. Em đặt lên thái
dương cậu bé một nụ hôn. Tôi thì thầm: “Tạm biệt, Nicolas.” Nó không
trả lời tôi. Chúng tôi đã để nó ở lại một mình với những miếng ghép của
nó.
Dưới nhà, bàn ăn vẫn chưa dọn. Bà cô vẫn không rời ghế. Bà
ngẩng đầu lên. Mắt bà đỏ hoe. Bà nhìn dõi theo Florence khi em lặng lẽ
đi qua phòng. Chuyến đi thăm kết thúc. Tôi thấy môi của bà già động đậy,
định nói gì rồi không nói nữa mà ngồi yên như thế, khép nép. Tôi dừng
chân cạnh bà ta. Tôi nhợt nhạt cười với bà ta rồi nói: “Tạm biệt cô. Cảm
ơn đã mời cháu dùng bữa”. Trong khoảnh khắc, tôi có cảm giác như bà ta
sắp phủ phục dưới chân tôi, van xin tôi ban cho bà một đặc ân hay một sự
tha thứ. Rồi bà ta mím môi lại, nước mắt một lần nữa lưng tròng, bà ôm
mặt khóc.
Ông bác đã biến mất. Tôi không thấy ông trong nhà cũng như ngoài vườn. Có lẽ không bao giờ tôi gặp lại ông ta nữa.
Florence chờ tôi trong xe. Ngồi bên cạnh em, tôi tự hỏi: Tôi nên tặng em món quà gì?
Nhờ
Marie, tôi hoàn chỉnh phần đầu của câu chuyện. Hồi I. Marie thạo việc
lắm. Đến đây bắt đầu phần tiếp theo của câu chuyện, phần mà Marie vẫn
chưa biết.
Và phần này tất nhiên bắt đầu bằng một xác chết.
Khoảng
mười tám tháng sau vụ tai nạn, vào mùa xuân, hai nhân viên thành phố
làm việc ở công ty Không gian xanh đã phát hiện ra một loại cây rất
hiếm, mọc trong đêm ngay giữa những bụi cây của công viên thành phố. Đó
là xác một người đàn ông. Trần truồng. Có người đã thắt cổ ông ta bằng
một sợi dây nilông. Người ta nhét vào miệng ông ta bộ phận sinh dục của
chính ông ta được cắt ra từ trước. Kiểu giết người làm cho báo lá cải
sùi bọt mép và làm cho cả thành phố kinh hoàng. Hơn nữa, người đàn ông
này không phải là ai khác: Chính là Jean Baptiste Cyrillus - giảng viên
trường đại học địa phương từ hơn ba mươi năm nay. Một giáo sư văn chương
uyên bác.
Cả đơn vị cảnh sát náo động như sắp lên đường chiến đấu. Ba phần tư quân số được huy động vào cuộc.
Ông
thầy này có cách sống kỳ dị, điều này gần như ai cũng biết. Ngày ông ta
đi theo những lối nhỏ trong công viên, tay đẩy xe cho người mẹ già bị
liệt chân, đêm ông quay lại đó với những mục đích khác, ít nhân từ hơn.
Điếm ở khu vực này đều quen với hình dáng của ông ta. Gái cũng như trai,
không phân biệt. Chỉ có điều, dưới hai lăm tuổi thì thích hơn. Ông thầy
này thích tuổi trẻ. Ông ta bị tấn công ở đó. Một cú giậm mạnh vào tổ
kiến. Có khả năng vụ án mạng liên quan đến một vụ tiền nong hay gì đó.
Cảnh sát thẩm vấn những người thường đến công viên, người dân cũng như
người lao động, nhưng không ai thấy gì, nghe gì cả. Phần lớn lũ điếm
trai vặn lại chúng tôi là đời nào họ lại đi giết một con gà đẻ trứng
vàng. Vụ giết người này làm phương hại nghiêm trọng đến việc làm ăn của
họ, khách hàng vì thế đã bỏ trốn. Người người ai cũng sợ - vả lại họ
cũng thế. Đó là những lý lẽ có thể chấp nhận được.
Người ta lại
chuyển sang đám sinh viên. Trong nhiều tuần liền, người ta đã xem xét
hàng trăm hồ sơ, tất cả các sinh viên đã đăng ký học giờ của Cyrillus,
và bạn bè của bạn bè họ. Mở rộng phạm vi điều tra với hi vọng tìm ra
manh mối nào đó. Người ta đã thu thập được hàng tấn bằng chứng, người ta
đã nghe nói hươu nói vượn về người thầy được mệnh danh là “Elmer” trên
ghế nhà trường. Soi mói, đồn đại, thị phi, ngồi lê đôi mách kiểu sinh
viên. Nhưng chẳng có gì giống, thậm chí gần giống, với một động cơ giết
người nghiêm trọng như vậy.
Ngày càng nhiều nhà báo bất hảo bắn
tin rằng một kẻ giết người tàn bạo đang đi lại tự do trên các đường phố.
Một trong những kẻ giết người hàng loạt, như họ thích thú tiết lộ. Đó
là một giả thiết đáng xem xét, và chúng tôi đã xem xét. Nhưng đó là khả
năng tệ hại nhất, và người ta lại bám vào ý kiến cho rằng án mạng xảy ra
do một hành động đơn lẻ, độc lập. Cho đến khi có chứng cớ chứng minh
điều ngược lại.
Tôi thuộc ê kíp điều tra vụ án. Thật ra, tôi chẳng
thèm quan tâm đến Jean Baptiste Cyrillus và những chuyện liên quan. Tôi
làm việc theo phản xạ. Để giết thời gian giữa hai lần chìm nghỉm. Bởi
vì công việc chắc chắn là sợi dây liên hệ cuối cùng níu tôi lại với thế
giới của những người sống. Cho dù, trong trường hợp này, đó là chuyện
của người chết. Giờ tôi vẫn nghĩ là nhẽ ra tôi nên bán rau ngoài chợ hay
đi phát tờ rơi. Không nên can gián vì vài đồng vặt vãnh. Chỉ có bộ máy
là vẫn luôn vận hành. Cơ học. Tôi đã từng nói là nếu ngày nào đó tôi có
cái gì đó như một linh hồn, thì hồn tôi cũng sẽ tan tành thành mây khói
trên quốc lộ mà thôi. Tôi chắc chắn là những gì còn lại trong tôi sẽ
chạy theo rất nhanh.
Công việc điều tra tỉ mỉ các đối tượng sinh
viên đã không hoàn toàn vô ích. Chính tại đó, từ chỉ sang kim, lần đầu
tiên tôi đã nghe loáng thoáng về sự tồn tại của một Florence Mazeau nào
đó.
Người thân gọi cô ta là Flo.
Anh nói về chim cổ đỏ! Anh
nói về một ngôi sao cháy! Florence Mazeau không là gì hết, chỉ là một
con bé bán trôn nuôi miệng mưu mô, thủ đoạn. Tên cô ta xuất hiện trong
danh sách đăng ký học đại học từ bốn năm nay. Thí sinh tự do. Cô ta thi
học kỳ, thi học kỳ hỏng thì đăng ký học năm sau. Một cô gái gan lì.
Bướng bỉnh. Nguyên nhân: cô ta bảo vệ miếng cơm manh áo của mình! Phần
lớn khách hàng được cô ta tuyển chọn trong các hành lang của trường đại
học, một nguồn dự trữ gần như không bao giờ cạn vì luôn luôn được thay
mới. Phương pháp độc đáo và được chấn chỉnh một cách hoàn hảo. Cô gái
trẻ trung, xinh đẹp để cho bạn học tán tỉnh, rồi quyến rũ họ, chi phối
họ, rồi khi cá đã cắn câu, cô ta đưa ra giá. Những nhóc con động dục
không thể cưỡng lại. Mồm chúng nhỏ dãi. Chúng tăng thêm tiền. Phi vụ làm
ăn xuôi chèo mát mái.
Thủ đoạn này, tôi từ từ mới phát hiện ra.
Qua việc cắt xén, qua những lời thổ lộ có đầu không đuôi, qua những câu
nói bóng gió. Từ đó, tôi nghĩ là nếu con ranh này tìm mồi trong các sinh
viên thì tại sao lại không mồi chài giáo viên? Tại sao lại không phải
là ông già Elmer tốt bụng đó? Đó chỉ là manh mối đầu tiên.
Dù muốn
dù không, đầu óc cảnh sát của tôi đã ngộ ra một điều gì đó. Tôi đã có
thể gọi Florence Mazeau đến để hỏi cung nhưng tôi đã không làm thế. Tôi
đã chọn phương án ngầm. Tôi và hai cảnh sát khác tiến hành bám sát đối
tượng.
Trong thời gian hơn một tháng, chúng tôi không rời cô gái nửa bước.
Cô
ta ăn uống ở nhà, một căn hộ nhỏ trên tầng cao nhất của một chung cư
mới được cải tạo trong khu phố cổ. Chúng tôi chụp ảnh tất cả những gã
nào đi qua cổng chung cư này. Chụp ảnh tất cả những người đi với cô ta.
Chúng tôi chụp được gần một hộp ảnh. Toàn đàn ông. Florence Mazeau đi
lại với rất nhiều đàn ông.
Thậm chí tôi không biết chính xác mình
đang tìm gì, đang hy vọng rút ra điều gì từ đó. Nếu tôi mà biết được
chuyện đó sẽ đi đến đâu thì có lẽ tôi đã bỏ cuộc rồi. Cũng có thể là
không.
Sau bốn tuần theo dõi, chúng tôi đã rút lui. Vụ án Cyrillus
bắt đầu lắng xuống. Không thấy án mạng nào khác, may quá, không có xác
chết nào khác mà ngược lại còn bao nhiêu việc khác phải làm. Ở sở cảnh
sát, hồ sơ chất đống rất nhiều và không phải vì thế mà người ta tăng
cường lực lượng cho chúng tôi. Tóm lại, người ta gần như giao cho riêng
tôi phụ trách vụ án đó. Tại sao lại không chứ? Không cái này thì cái
khác...
Rồi, tháng Mười một năm đó, có một sự việc mới đã xảy ra:
một người có tên là Thierry Carmona biến mất. Tôi biết người này. Sơ sơ
thôi. Ai cũng biết hắn, còn hắn biết tất cả mọi người. Titi Carmona là
người mà người ta có thể gọi là “gương mặt địa phương”. Ăn to nói lớn,
dễ gần. Kiểu người hay lang thang khắp nơi trong thành phố, trọng mọi
môi trường, để giúp đỡ người này hay những người khác.
Người ta
không tìm ra thi thể của hắn. Chỉ mỗi cái chân nhái của hắn nhặt được ở
cảng. Tất cả dường như chứng minh rằng hắn đã chết đuối. Tai nạn trong
khi lặn. Một thằng bạn của hắn làm chứng như sau: sáng mà Titi Carmona
mất tích, anh ta đã thấy hắn chuẩn bị xuống biển chơi với những bình khí
oxy và những đồ nghề lặt vặt khác. Không ai thấy hắn lên lại.
Người
ta đã điều tra cho có lệ về sự mất tích này, sau đó thôi ngay. Phải nói
là có đi lục lọi trên mặt nước cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì
nhiều. Bởi vì ngoài một người hay giúp đỡ người khác ra, Carmona cũng
là, và chủ yếu là một tay hay quyến rũ phụ nữ. Một Don Juan tỉnh lẻ.
Ngoài vợ mình ra, hắn còn để lại đằng sau một toa tàu chở đầy vợ góa nửa
vời không ai để an ủi. Hắn đã ngủ với một nửa phụ nữ trong thành phố.
Chính vì thế, hắn đã tạo ra hàng loạt đàn ông bị mọc sừng và ghen tuông.
Cũng vì thế, đối với cảnh sát chúng tôi, hắn tạo ra một danh sách chi
chít những kẻ bị tình nghi - tất nhiên, trong trường hợp mà giả thiết về
vụ tai nạn là không đúng.
Một số kẻ độc mồm độc miệng đã không
ngại nói rằng viên cảnh sát trưởng đương nhiệm là một trong những người
chồng bị phụ tình. Có thể lắm. Dẫu sao, cuối cùng người ta đã chính thức
phao tin về khả năng chết đuối và để vụ án trôi đâu thì trôi. Vụ án
được xếp xó.
Ngoại trừ đối với tôi.
Mối quan hệ nào giữa
việc Thierry Carmona biến mất và Jean-Baptiste Cyrillus bị sát hại? Mối
liên hệ nào giữa con gà trống trong sân và chuyên gia về văn học Pháp
thời Phục hưng? Xem ra có vẻ không có. Nếu không phải hai người đều
thích Florence.
Không phải nữ thần. Mà là con điếm.
Tôi chưa
có bằng chứng chứng minh ông thầy đó đã qua lại với Florence Mazeau.
Việc này cần phải xác minh. Tuy vậy, tôi có trong tay bốn tấm ảnh, được
chụp trong quá trình theo dõi cô gái, trên đó có mặt đích thân Titi. Chỉ
trong vòng tháng Tám, Titi đã đến nhà cô ta hai lần. Các bức ảnh cho
thấy hắn ra vào như thế nào. Trong loạt ảnh đầu tiên, hắn đi một mình,
hắn vào khu chung cư vào cuối buổi chiều và ra khỏi đó sau một tiếng
đồng hồ.Trong loạt ảnh thứ hai, được chụp hai tuần sau, đi theo hắn là
ba người khác. Chúng đến khoảng nửa đêm và cả bốn người ra về lúc rạng
sáng – “...vẻ kiệt sức và dái dúm teo khô”, theo lời bình tế nhị của ông
bạn Roubion, lúc đó đang tham gia theo dõi đối tượng.
Cyrillus,
Carmona, Florence: những con đường giao nhau. Tôi thấy bắt đầu những
manh mối có vẻ khả quan hơn một chút. Chính vì thế mà tôi xem lại thật
kỹ tất cả những bức ảnh âm bản liên quan đến Florence và những mối quan
hệ của cô ta. Lúc đầu, tôi chỉ nhìn xoáy qua thôi, lần này tôi nhìn kỹ
hơn. Tôi lần giở, dò xét, đối chiếu. Và tôi nhận ra một cái đầu ngoi
lên, đó là một thanh niên khoảng hai mươi tuổi. Vẫn luôn mặc đồ đen, áo
vét và quần dài. Anh ta ngồi cùng cô gái trong một quán cà phê ở trường
đại học, anh ta ngồi cùng cô gái trong một quán cà phê ở trung tâm thành
phố, anh ta đang ra vào khu chung cư. Có tất cả mười bốn bức ảnh trong
đó anh ta ở bên cạnh cô ta.
Tôi tự nhủ là thằng cha này hoặc là một khách hàng trung thành, hoặc là một kẻ si tình dại gái, hoặc là một người bạn rất thân.
Hoặc là cái gì khác.
*
* *
“Jona
và tôi có cùng nhiễm sắc thể. Nếu không phải tất cả thì cũng là phần
nhiều, một tiểu đội nhiễm sắc thể đẹp đẽ bay trong chúng tôi. Chính vì
thế mà chúng tôi giống nhau. Khi Jona cười là tôi cười. Khi Jona khóc là
tôi khóc. Chúng tôi không thể làm khác được. Khi Jona không thở nữa,
khi cá bơi đến rỉa lông mi của Jona, thì tôi có bị như vậy không? Đó là
chuyện về nhiễm sắc thể. Về tế bào.
Đằng kia, trong Ngôi nhà thiên
nga, mùa đông đang buốt giá. Lò sưởi đã tắt hết thảy. Mẹ là một người
đa sầu đa cảm, hay khóc. Lúc đầu mẹ chờ ông ấy. Người chồng của mẹ. Khi
thì ông ấy về nhà, khi thì không. Buổi tối, lúc về khuya, Jona và tôi
nằm cùng một giường, một cái giường nhỏ, giường tôi hoặc giường của em.
Lúc ánh sáng đèn pha rọi vào cửa sổ là lúc ông ấy về. Tôi biết mẹ lại mở
to đôi mắt. Có tiếng cãi vã nhau và tiếng khóc xuyên qua những bức
tường. Đôi khi, ông ấy lại ra đi. Có tiếng xe ôtô và sau đó im lặng kéo
dài. Cuối cùng, mẹ không chờ ai nữa. Mẹ không chờ gì nữa. Mẹ đã cạn kiệt
sự tức giận và nước mắt. Không còn tiếng cãi nhau, không còn tiếng
khóc, chỉ còn sự im lặng. Áo của mẹ vẫn treo trong tủ và mẹ giam mình
suốt đêm, suốt ngày trong phòng. Bạn thấy đấy, chỉ là chuyện tế bào
thôi. Và Greenhill bảo tôi: “Mẹ cậu đang nghỉ ngơi”. Bà Greenhill đã trở
nên rất tử tế với tôi. Dạy xong, bà ở lại nhà cho đến khi tôi đi ngủ.
Bà rủ tôi chơi: chơi trò đôminô, chơi trò lính thủy. Bà chuẩn bị các bữa
ăn cho tôi, bà nhìn tôi ăn. “Để cho mẹ nghỉ”, bà nói. Tôi không còn gọi
bà là bà Gorila nữa. Tôi không còn chế giễu bà nữa. Cơ bản là vì tôi
không muốn cười đùa gì nữa. Chuông đồng hồ điểm chín giờ trong phòng
khách. Tôi muốn ở lại thêm một lúc nữa với bà Greenhill nhưng đã đến giờ
rồi. Trước khi đi ngủ, tôi vào phòng mẹ tôi và ôm hôn bà. Mẹ tôi nằm.
Tôi thấy mẹ tôi rất đẹp nhưng tôi không thích mùi hương của bà. Mùi
hương đó như mùi hoa héo trong lọ. Tôi không biết mẹ tôi có thấy tôi
không. Bà Greenhill vẫn đứng ở cửa. Sau đó, tôi lên giường và chờ Jona
đến chỗ tôi.
Chuông điểm mười giờ.
Mười một giờ.
Mười hai giờ khuya.
Tôi đã lớn lên. Chân tay tôi dài ra. Cái giường chật lại. Jona quay lại muộn hơn.
Tôi
quên nói gì nhỉ?... À! Tất cả vì lỗi của tôi cả. Jona khóc nhưng tôi đã
tiếp tục chạy. Đó là lỗi của tôi và cũng là lỗi của quỷ dữ. Tất nhiên
là có quỷ rồi! Tôi đã từng thấy. Tôi nghĩ tôi đã nói một lần rồi. Đây là
lần thứ hai và là lần cuối cùng. Chúng tôi đang ở trong ngôi nhà trên
cây, gần cái ao, quỷ đã đến thăm chúng tôi. Chúng tôi đã rất sợ. Jona
đang ở trên tầng cao, em là người thấy con quỷ đó đầu tiên. Khi em kêu
lên, tôi co chân chạy. Tôi không nghĩ ngợi gì cả. Tôi đã chạy. Jona mất
thời gian leo xuống. Tôi quay lại một lần, chỉ một lần, tôi thấy chân em
đu đưa. Em nhảy xuống. Em đã ở xa sau lưng tôi. Tôi vẫn tiếp tục chạy,
chạy bạt mạng. Tôi chạy đến bờ ao. Lúc đó là vào mùa đông, sương giá phủ
đầy mặt đất và những tảng băng bồng bềnh trên mặt nước, dọc theo bờ ao.
Băng nứt dưới chân tôi. Jona, Jona của tôi vẫn còn kêu. Em kêu tên tôi,
em kêu tôi chờ em. Chân em nhỏ hơn, em chạy không nhanh bằng, thế mà
tôi lại không chờ em. Tôi chạy nhanh như chớp. Có lúc tôi bị trượt chân
ngã xuống và va mặt vào một hòn đá. Ngay phía trên lông mày.
Tôi
chảy máu nhưng không đau. Tôi đứng dậy chạy tiếp. Jona của tôi kêu tên
tôi, đó là lần duy nhất không phải tôi là người gọi tên em, như khi
chúng tôi chơi trò trốn tìm, tôi tìm nàng khắp nơi, đó là lần duy nhất
em là người gọi tôi. Tên tôi đập trong gió lạnh, nảy thia lia trên mặt
nước giá băng. Jona, em thấy điều gì chưa, khi ai đó không trả lời thì
sợ lắm. Đó là một trò chơi độc ác và ngu ngốc. Tôi nói với em trong đầu:
“Im đi! Im đi! Im đi! Im đi!”. Thực tế là tôi không muốn nghe tiếng em.
Tôi không còn muốn nghe tiếng kêu của em nữa. Thực tế là tôi nghĩ nếu
quỷ bắt được em, nó sẽ để tôi yên, nó không thể ăn thịt cả hai chúng tôi
cùng một lúc. Sau đó, tôi nghe một tiếng động lạ, một tiếng răng rắc và
tiếng cái gì đó rơi tõm xuống nước như có ai đó ném đá để đuổi thiên
nga, rồi tôi không nghe gì nữa ngoài tiếng bước chân và tiếng thở của
tôi. Tôi không dừng lại. Tôi đau ở phổi và cổ họng, tôi bị rát phổi và
họng vì chạy nhiều quá. Thực tế là tôi rất hài lòng vì Jona của tôi
không còn kêu nữa.
Giờ Jona của tôi không còn kêu nữa.
Chỉ có im lặng kéo dài.
Giờ
khắc trôi qua. Tôi nằm trên giường và chờ em đến. Em đến muộn. Hay em
còn chơi cái trò mà tôi rất ghét. Em chơi trò lạc đường rồi bỗng thình
lình xuất hiện trước mắt tôi, nhảy xổ vào tôi mà cười như một người
điên.
Em cứ làm đi. Lần này, anh sẽ chờ em. Anh hứa. Anh đang ở
đây, em thấy đấy. Anh chờ em. Em có thể bảo anh làm những gì em muốn, em
sẽ được mãn nguyện. Em có thể gọi anh. Em có thể kêu, có thể thì thầm
tên anh cho quỷ dữ, nếu em muốn. Jona, Jona của tôi, hãy gọi tên anh!
Anh sẽ trả lời em. Quỷ dữ không còn làm anh sợ nữa. Chính anh đã ăn thịt
con quỷ đó.”
Thật xúc động, phải không nào?
Tôi thú nhận là
khi đọc lần đầu tiên, những trang viết này đã làm cho tôi bị chấn động
mạnh mẽ. Ngôi nhà lớn ở miền quê, với những gian phòng mênh mông và giá
buốt, sự xa vắng của người cha, người mẹ bị bỏ rơi, suy sụp trong tấm
vải liệm làm bằng những tấm ga trải giường, hai đứa con tội nghiệp ôm
chặt lấy nhau trong bóng đêm.
Tôi thấy được điều đó, từ đây.
Trong
một thời gian dài, tôi không biết gì về sự tồn tại của người con gái
tên là Jona này. Ariel chưa bao giờ nói cho tôi biết. Có lẽ tôi không đủ
minh mẫn lắm để có thể giải mã được những câu nói bóng gió của hắn, để
có thể nắm bắt được điều bí mật ẩn chứa đằng sau những lời tâm sự. Ngày
cuối cùng, hắn đã bỏ rơi tôi, đúng vào ngày cuối cùng. Vào đêm cuối
cùng. Tôi đã hiểu hơn một số điều, một số điều hoàn toàn bí ẩn đối với
tôi cho đến lúc đó. Hỡi ôi, đã muộn quá rồi. Trong những cuốn sổ này,
đứa trẻ là người nói ra: Đối với những ai đã từng biết Ariel, giọng điệu
này có vẻ rất kỳ lạ. Hắn có cần phải đi đào sâu ở nơi xa? Vết thương có
nhất thiết phải sâu, sâu hơn vết sẹo vẫn còn hằn lên đường lông mày của
hắn? “Jona, Jona của tôi...” Ngay cả khi người ta biết những gì tôi
biết, thì đó vẫn luôn là một giọng nói khi nào cũng có thể khiến người
ta mủi lòng. Đúng thế, có khi tôi lại than phiền về hắn.
Trái lại,
câu chuyện về con quỷ này khiến người ta bối rối. Ai ẩn náu đằng sau
tên gọi này? Ai hay cái gì? Hay đó chỉ là một cách để trút bỏ gánh nặng?
Một
cảm giác tội lỗi! Tôi nghĩ khó có thể tưởng tượng cảm giác đó nặng nề
đến nhường nào. Đứa bé đã phá hủy thế giới của mình bằng chính đôi tay
của mình - hay là kẻ muốn khẳng định mình đã làm như thế, cũng thế cả
thôi. Làm sao có thể chuộc lại một lỗi lầm như thế? Làm sao có thể tái
tạo lại thế giới đó?
Người ta có thể cố gắng làm điều không thể
với những miếng ghép bằng gỗ. Người ta cũng có thể, thưa ông Astrid, mở
lồng ngực của mình cho một con chim cổ đỏ để cho nó có nơi ẩn náu, người
ta có thể xé toác trái tim mình và nuôi con chim bằng chính trái tim
đó, có thể đổ máu để thỏa mãn bất cứ ước vọng nào.
Nắm tình hình
xong mới biết là kẻ bận đồ đen trên các bức ảnh cũng là một sinh viên.
Anh ta không cùng ngành với Florence và không theo học các giờ dạy của
thầy Cyrillus. Anh ta ở trong một căn nhà cho thuê, không xa trường lắm.
Tất nhiên, cảnh sát chúng tôi không hề biết gì về hắn. Tôi vẫn ghi tên
hắn vào trong bộ não của mình: Édouard Dayms.
Để rồi xem.

