Vườn tình - Chương 19
Và rồi, tôi đã chán giải thích. Tôi thấy rõ trong những cố gắng
đó có những điều thật mơ hồ và vô bổ. Các bạn phải chấp nhận là phần lớn
thời gian, chúng tôi không hiểu điều gì đang xảy ra, xảy ra trong lòng
chúng tôi hay quanh chúng tôi. Về phần tôi, tôi sẽ chấp nhận là ông
không nhất thiết phải tin tôi.
Sáng hôm đó, trên bãi biển, tôi cảm
thấy lồng ngực tôi mở ra để đón không khí biển khơi. Không khí của
những chuyến đi dài và những hành trình xa xôi. Florence ngả đầu trên
vai tôi. Tôi nghĩ em tin tôi. Tôi đã lấy em làm vợ. Chúng tôi đã bỏ học
và về sinh sống trong thành phố nhỏ bé quê hương tôi.
Tôi nghĩ
mình đã làm tất cả những gì có thể để xua tan bóng tối trong đáy sâu mắt
em. Chúng tôi đã cùng nhau làm được ít nhất là hai điều kỳ diệu: sinh
ra hai thằng con có tên là Étienne và Mattéo. Điều kỳ diệu thứ ba đang
hình thành. Cần phải có thời gian. Cần phải kiên nhẫn và có tình yêu.
Rất nhiều tình yêu. Nhưng, nhờ những nỗ lực của chúng tôi cộng lại, nhờ
vào sức mạnh ý chí của chúng tôi, cuối cùng cuộc sống đã trở thành một
cái gì đó an bình và êm dịu.
Ông không biết là điều đó có ý nghĩa đối với tôi như thế nào đâu, thưa ông Astrid.
Chỉ một cuộc sống bình thường thôi.
Cho
đến buổi sáng Noel đáng nhớ đó. Cho đến cái ngày đáng sợ, đáng nguyền
rủa đó, cái ngày mà con quỷ thoát ra khỏi hộp. Một hình ảnh dễ dãi,
nhưng tôi không tìm ra hình ảnh nào chính xác hơn. Hoặc hắn, hoặc tôi.
Chứ không thể cả hai được nữa.
Marie chưa đứng dậy mà tôi đã rẽ
cho mình một lối đi trong quán cà phê đông người. Tôi đi ra khỏi quán
như vừa đi ra từ một lò lửa. Tôi đi vài bước trên vỉa hè. Tôi mặc áo
sơmi nhưng cái lạnh giá chưa kịp xâm chiếm lấy người tôi. Marie vội vã
đuổi theo tôi. Em mang theo cái túi xách, cuốn sổ tay và cái áo bludông
mà tôi đã quên. Em chưa kịp cài cúc áo choàng.
- Anh ổn chứ? Marie hỏi tôi.
Tôi không trả lời, chỉ đưa một chân ra trước và hít thở không khí mát lạnh. Marie khoác áo bludông lên vai tôi.
- Anh mặc vào đi kẻo lạnh.
Chúng
tôi đi bên nhau một lúc. Lúc ấy xe cộ đi lại khá nhiều. Một số tuyến
phố có trang trí cho dịp Noel: đèn nháy được chăng ngang hai cột điện,
một đôi tuần lộc đang kéo xe trượt tuyết, một cái ủng khổng lồ, một cơn
mưa sao băng. Tôi cảm thấy Marie đang nhìn tôi có vẻ phần nào lo lắng.
Khi dừng chân lại trước đèn đỏ, Marie nói:
- Xin lỗi anh vì em đã nói thẳng quá. Anh Alexandre ạ. Và tàn nhẫn nữa. Em thật vụng về... Anh giận em à?
Tôi lại hít sâu.
-
Anh không ngờ được, tôi nói. Anh đến đó để qua một buổi tối... một buổi
tối kiểu “cựu chiến binh”. Em hiểu chứ? Để gợi lại những kỷ niệm xưa
cũ. Về thời gian đã mất.
- Chưa quá muộn đâu anh ạ. Nếu anh vẫn muốn.
Tôi nhún vai. Đèn đỏ cho xe ô tô, nhưng chúng tôi chưa đi.
- Anh muốn em để anh ở lại một mình à? Marie hỏi.
- Không. Anh đã hứa là sẽ kể cho em. Anh phải học cách giữ lời hứa.
- Hay là ngày mai, hoặc ngày kia cũng được.
- Không, tôi nói lại.
Chúng
tôi lặng lẽ bước đi. Đi đến cảng lúc nào không biết. Chúng tôi nghe
tiếng biển rì rào, cảm thấy biển rồi mãi sau đó mới thấy biển. Những con
chim mòng biển bay lượn trên đầu chúng tôi. Chúng tôi chỉ thấy những
cái bụng trắng toát của chúng.
- Tại sao?... Tôi thì thầm.
Tôi nghĩ mình đang tự hỏi mình, nhưng Marie đã nghe thấy.
- Tại sao cái gì, anh Alex?
Tôi lại dừng chân trên vỉa hè.
- Sao hắn lại có thể làm thế? Chìa tay cho anh sau khi đã đánh anh bằng chính bàn tay đó. Bằng tất cả sức lực của mình.
Marie nhún một bên vai. Một cử chỉ khó nhận ra.
- Có lẽ anh không phải là người duy nhất hối hận, Marie nói.
Rồi em nói nhanh:
-
Nghe này, anh Alexandre, có lẽ em đã hơi vội vàng. Em đã khá hài lòng
với lí thuyết nhỏ nhặt của mình, thông điệp hòa bình và tất cả những thứ
ấy, và em quá vội cho anh biết. Nhưng đó chỉ là một cách diễn giải, một
giả thiết như bao giả thiết khác. Nó cũng chỉ có vậy thôi. Và rất có
thể em đã sai... ý em là anh đừng có dằn vặt gì vì điều đó. Chúng ta hãy
bỏ qua đi. Ít nhất là lúc này. Có thể chúng ta sẽ quay lại khi đầu óc
tỉnh táo hơn.
Miệng Marie phả ra từng làn hơi mỏng. Tay em siết chặt cổ áo choàng. Tôi cầm tay em. Làn da của em buốt giá.
- Em bị lạnh rồi, tôi nói.
- Hơi hơi thôi.
- Đói à?
- Hơi hơi thôi.
Tôi nhìn quanh, như tìm một nơi trú ẩn trong cơn bão.
- Đi nào, tôi nói.
Tôi
kéo em đi qua những đường phố chật hẹp quanh co trong khu phố cổ. Tôi
còn nhớ một nhà hàng nho nhỏ trong khu phố, nhà hàng này chỉ tiếp khách
quen, một số khách hàng sành điệu bo bo giữ riêng nó cho mình. Trong nhà
hàng không có hơn bốn bộ bàn ghế, ông chủ lo việc nấu nướng còn bà vợ
lo việc phục vụ. Kinh tế gia đình. Và trái phép. Món mực phủ hầm ngon
nhất thế giới.
Chỉ có điều nhà hàng đó không tồn tại nữa.
Thay vào đó là cửa hàng bán đồ tắm rửa cho chó.
Tôi kiểm tra tên đường nhưng đúng là tôi không nhầm.
Cặp vợ chồng già đó có lẽ đã nghỉ hoặc đã chết.
Thêm một bức tường nữa bị đổ.
- Mẹ kiếp... Tôi nói.
Chỉ
khi đó tôi mới nhận ra bàn tay của Marie trong bàn tay tôi. Tôi vẫn
luôn cầm tay em. Trong vài giây tôi không biết nên làm gì. Rồi sau đó
tôi nhẹ nhàng buông tay em ra.
- Hỏng rồi, tôi vừa nói vừa nhìn sang chỗ khác. Ta làm gì bây giờ? Em có thích chỗ nào không, hay ta chọn đại một quán nào đó?
- Quan trọng gì đâu, Marie nói, em theo anh.
Biển
hiệu đầu tiên mà chúng tôi gặp là biển hiệu của một quán pizza. Dolce
Vita. Cổ điển, không cầu kỳ hoa mỹ. Lúc ấy còn sớm và khách hàng chưa
đông. Chúng tôi được mời ngồi gần một cái lò sưởi mà có lẽ từ khi kết
thúc chiến tranh đến nay chưa hề được nhóm lại. Hai suất ăn, mỗi suất
mười lăm euro và một chai nước khoáng Badoit: Đó không phải là một bữa
ăn tối thịnh soạn. Tôi chỉ có thể làm được mỗi một việc là thỏa mãn trí
tò mò của Marie. Sau khi ăn khai vị xong, tôi lại nói về trường hợp
Édouard Dayms.
Sự chờ đợi bắt đầu trở nên không thể chịu đựng nổi.
Ariel không lộ diện từ sáng 24, ngày mà chúng tôi gặp lại nhau trong
thời gian ngắn ngủi, bên bờ biển. Cả một tuần lễ trôi qua. Không có tín
hiệu nào. Mặc dù vậy, tôi cảm thấy sự hiện diện của hắn quá rõ, tin chắc
rằng hắn đang hiện diện cho dù đơn giản chỉ là một sự xuất hiện ngắn
ngủi và ngẫu nhiên. Flo cũng cảm thấy như vậy. Em thu người lại, co ro
trong góc riêng của lòng mình. Sự lo sợ làm cho em câm lặng. Tôi đã bảo
em nên thay đổi không khí. Em nên đi, nên cùng các con đi đâu xa vài
ngày. Florence đã từ chối.
Và rồi, tối 31, đúng 23 giờ 15 phút, chuông điện thoại reo.
Lịch sử lặp lại. Số phận tỏ ra nghiệt ngã.
Hồi chuông thứ nhất chưa kết thúc tôi đã nhấc máy. Ariel chỉ nói:
- Mình đang chờ các cậu.
Tôi
không nói lời nào. Flo đứng ở bên kia hành lang. Mặt em tái mét. Mắt em
tối sầm lại. Lúc ấy, em không đeo những giọt nước mắt màu xanh lơ ở hai
tai nữa, em đã xếp vào hộp tư trang. Tôi còn cầm ống nghe trong tay vài
giây nữa. Rồi tôi gác máy. Tôi đứng yên tại chỗ. Florence cũng vậy.
- Đó là hắn, em nói. Tôi gật đầu đồng ý.
- Hắn muốn gì?
Tôi nói dối. Tôi nói:
- Hắn muốn gặp anh.
- Không, Florence nói, anh đừng có đi!
Câu nói đó khiến tôi xúc động. Em vẫn còn thương tôi nhưng em không tin tôi có đủ sức mạnh.
- Anh đừng có đi, em nói lại.
Tôi
tiến lại gần. Môi em mím lại, cằm hơi run. Tôi có thể thấy tất cả những
cố gắng của em để không khuỵu người xuống. Tôi thầm thì:
- Lần cuối cùng thôi, em yêu ạ.
Bờ mi em khép lại, em nhắm mắt, hít sâu vào rồi ngước mắt lên.
- Anh đã nói với em rồi đấy nhé.
Tôi chỉ cái bụng to tròn của em.
- Anh đang nói với nó đấy.
Étienne
và Mattéo đang xem tivi trong phòng khách. Tôi hôn lên trán từng đứa.
Chúng không rời mắt khỏi màn hình. Càng tốt. Tôi khoác áo bludông vào và
lấy chìa khóa xe. Khi tôi đang bước qua cửa thì Flo gọi tôi.
- Anh sẽ... anh sẽ trở về chứ? Em hỏi.
Giọng em lí nhí. Tôi nghĩ tôi sẽ không phản bội em, tôi sẽ không bỏ rơi em. Tôi thì không.
- Tất nhiên rồi, tôi nói.
Tôi mỉm cười với em, rồi đi ra.
Édouard
Matthieu Anthonin Dayms. Sinh ngày 23 tháng 8 năm 1971 tại Cologny,
bang Genève. Xuất thân từ một gia đình giàu có. Bố là một bác sĩ phẫu
thuật thần kinh, mẹ là người được hưởng một khoản hồi môn rất lớn, nhờ
đó mà bà được xem là một trong những người giàu nhất nước. Hai người này
định cưới nhau, có với nhau nhiều đứa con và sống hạnh phúc lâu dài.
Nhưng mọi chuyện đã không diễn ra như thế.
Một năm sau khi Édouard
chào đời, một đứa trẻ thứ hai được sinh ra. Một bé gái. Cô con gái được
đặt tên là Marie-José Emmanuelle, Edouard đặt tên lại cho em mình là
“Jona”. Người anh và cô em gái cùng nhau lớn lên trong cơ ngơi rộng lớn
của gia đình. Đó gần như là một trang viên có công viên rộng lớn và một
cái hồ nước. Một nhà tù hạng sang mà chúng gần như không bao giờ có thể
thoát ra ngoài. Không học hành, việc học hành của chúng được một cô gia
sư đảm nhiệm, một bà gốc Anh tên là Doris Greenhill.
Sống cách
biệt với phần còn lại của thế giới, hai đứa trẻ không bao giờ chia lìa
nhau. Quan hệ của chúng cực kỳ mật thiết, gắn bó keo sơn. Đến nỗi người
ta thường có cảm giác như hai cái vỏ làm bằng thịt da đó đang chứa đựng
duy nhất một bộ não. Thêm một câu chuyện về cặp đôi, hay về một nửa. Số
mệnh của chúng dường như cùng đi theo những con đường gắn kết với nhau,
không thể tách rời, không bao giờ tan rã. Nhưng mọi chuyện đã không diễn
ra như thế.
Một buổi tối mùa đông, bé Édouard về nhà. Một mình.
Như thường lệ, nó về nhà từ một cuộc thám hiểm gần khu vực công viên.
Quần áo của nó lấm bùn từ đầu đến chân, mặt nó bê bết máu. Một vết
thương khá sâu ở phía trên lông mày. Hỏi vặn mãi nó cũng chỉ giải thích:
“Quỷ... có quỷ...”
Người ta đã đi tìm con bé suốt đêm và cả ba
ngày sau đó. Đến ngày thứ tư, người ta tìm thấy thi thể nó nổi trên mặt
nước hồ buốt giá. Chết đuối. Không có dấu vết nào của con quỷ mà thằng
bé đã nói. Một kẻ lang thang? Một người bắt cá trái phép? Hay chỉ là một
người đi dạo? Không một ai biết điều đó.
Khi ấy, Édouard mười tuổi. Jona chín tuổi. Sự im lặng bao trùm trong ngôi nhà.
Làm sao tôi biết được chuyện đó ư? Bà Greenhill đã kể cho tôi nghe.
Tôi đã tìm hiểu thêm.
Cuộc
gặp đầu tiên giữa tôi và Édouard Dayms đáng nhớ đến nỗi mà tôi đã muốn
biết tất cả, muốn biết tất cả về hắn trước khi gặp lại hắn lần nữa. Khó
hiểu lắm, tôi biết. Và khó giải thích nữa. Bởi vì hắn đem lại một cảm
giác vượt qua cả ngôn từ và suy nghĩ, đến một nơi nào đó thật phi lí.
Tôi nghĩ đó là khởi đầu của một sự quyến rũ. Đúng thế. Một sự quyến rũ
có thể so sánh với sự quyến rũ của Ariel đối với Matthieu, và được miêu
tả trong cuốn sổ bởi chính... Édouard Dayms. Điều này có xu hướng chứng
minh, trong ngoặc đơn, là sự điên rồ của hắn chỉ có sự sáng suốt của hắn
sánh bằng. Cuối cùng, vì lý do gì đi chăng nữa, vấn đề là ở chỗ hắn đã
cắn nọc độc của mình và phát tán trong mọi tế bào của bộ não tôi. Tôi
đâm ra nghiện. Từ đó, tôi luôn tìm tòi, đào bới, lục lọi, chất vấn. Cuộc
điều tra về án mạng Cyrillus đã biến thành một sự tìm kiếm chính mình
sau khi Édouard Dayms nhập cuộc. Giữa hai lần say rượu, tôi đã dành toàn
bộ sức lực của mình vào việc đó. Và may mắn phần nào đã giúp tôi.
Tôi
đã khám phá cuộc sống của Doris Greenhill. Tôi đã lần ra dấu vết của bà
ta. Bà cựu gia sư đã không rời Thụy Sỹ. Tôi đi gặp bà ta. Tôi cứ tưởng
người tôi muốn gặp là một bà già gần đất xa trời nhưng người phụ nữ mà
hai anh em mệnh danh là “Bà Gorila” không hơn tuổi tôi là mấy. Một người
phụ nữ thông minh và duyên dáng. Bà không quên bất cứ điều gì về những
năm tháng đã qua tại gia đình Dayms, trong ngôi nhà Thiên Nga. Bà không
kể cho tôi nghe một cách trôi chảy. Theo bà, cái chết của bé Jona đã có
tác động như một cú tăng tốc của quá trình phân hủy vốn đã nhen nhóm từ
lâu. Quan hệ giữa hai vợ chồng vốn đã không mặn nồng gì, giờ lại càng
trầm trọng hơn. Bà mẹ như một nàng công chúa ngủ trong rừng, giam mình
trong lâu đài với những ước mơ và niềm hy vọng, bà chờ một vị cứu tinh
nhưng chàng hoàng tử lại dương dương tự đắc trong các sân gà của giới
thượng lưu. Ông ta bỉ ổi và hám sắc, còn bà thất vọng và ghen tuông: khi
hai người gặp nhau là mắt sáng rực lên. Sau khi con bé chết, người mẹ
bắt đầu buông xuôi. Rốt cuộc, bà ta không còn rời tháp ngà của mình nữa,
rồi cũng không rời giường của mình nữa. Nàng công chúa bị suy nhược
thần kinh. Trên chiếc bàn ngủ, có đủ loại thuốc chữa bệnh, tinh hoa của
hóa học gây mê. Ông bố thì đã chọn những giải pháp tự nhiên hơn: từ rượu
sâmpanh, ông chuyển sang rượu vodka, từ ba ly ông chuyển sang một chai
đầy. Nhưng bà mẹ lại là người thắng cuộc. Một hôm, bà đã uống thuốc quá
liều, liều thuốc đó đã đưa bà đến một vương quốc mà không có nụ hôn nào
có thể đánh thức bà dậy nữa.
Édouard tiếp tục lớn lên trong không
khí lành mạnh và tươi vui đó. Bà Greenhill chất phác là người chăm sóc
cậu. Theo thời gian, vai trò gia sư của bà đã được chuyển sang vai trò
quản gia, rồi vú nuôi mà không ai yêu cầu. Sáng bà đến rất sớm, tối bà
về rất muộn, khi chắc chắn là thằng bé đã ngủ. Không có bà thì nó đã hư
hỏng rồi. Thằng bé có nhận thức được tình hình không nhỉ? Có thể. Nhưng
nó không thể hiện gì hết. Không buồn, không đau khổ, không giận dữ. Bà
Greenhill cảm thấy lo ngại và thậm chí sợ hãi trước việc nó không có
phản ứng gì. Bà tâm sự với tôi là bà thường nhìn trộm Édouard, ánh mắt
đờ đẫn và lạnh lùng của nó làm cho bà rùng mình. Không thể tiếp cận. Từ
khi em gái mất, nó có vẻ dửng dưng trước tất cả. Édouard mười bốn tuổi
thì đến lượt mẹ mất. Nó thấy người ta mang thi hài mẹ mình đi mà không
nhỏ một giọt nước mắt. Bà Greenhill không thể không nghĩ là nó bị mất
hồn.
Hai năm sau, hai bố con chuyển nhà. Những kẻ sống sót. Ông
bác sĩ phẫu thuật đã phạm phải những sai lầm lớn khi phẫu thuật cho hai
bệnh nhân và đã bị đình chỉ công tác. Buộc nghỉ việc dài hạn. Ông ta bán
nhà và mua một căn khác tại vùng Côte d’Azur, nước Pháp. Có thể sự thay
đổi nơi ở và không khí sẽ đem lại cho họ một cuộc sống dễ chịu hơn. Có
thể họ sẽ bắt đầu lại từ đầu. Bà Greenhill hy vọng như thế. Bà thường
nghĩ đến họ. Và đặc biệt đến Édouard. Bà gần như là người đã nuôi cậu bé
khôn lớn. Bà đã làm những gì có thể. Bà cho rằng thằng bé đã phải hứng
chịu nhiều đau khổ và đã đến lúc cuộc sống của nó xuôi chèo mát mái. Tôi
thấy bà ngập ngừng, nhưng cuối cùng, bà đã không hỏi tôi nguyên do vì
sao tôi đến gặp bà.
Từ khi họ bỏ đi, bà không nhận được tin tức gì về họ. Một tấm bưu thiếp cũng không.
Đó
là phần Thụy Sỹ của câu chuyện. Tuổi thơ của kẻ giết người. Nguồn gốc.
Không khó để đào sâu trong đó những chất liệu cho bi kịch sắp xảy ra.
Édouard Dayms là một quả bom nổ chậm. Chỉ còn thiếu ngòi nổ nữa mà thôi.
Nếu
dựa vào bằng chứng mà hắn đã đưa ra trong quyển sổ của mình, thì mọi
chuyện đã xảy ra ngay trong năm đầu sống tại Pháp. Đúng lúc đó, hai con
người, một Ariel và một Matthieu gặp nhau. Hoặc gặp lại nhau. Tại sao ư?
Tôi không biết. Nhưng có thể hình dung là chứng tâm thần phân lập của
Édouard vẫn đang ở tình trạng tiềm ẩn, nó chín muồi từ từ, tách biệt,
trong không khí yên tĩnh và ma quỷ của ngôi nhà Thiên Nga, giờ nó đã sẵn
sàng bộc lộ. Chỉ sự thay đổi nơi ở thôi, như bà Greenhill nói, chỉ sự
đảo lộn các thói quen thôi cũng có thể trở thành ngòi nổ. Édouard Dayms
khám phá biển khơi và chân trời bất tận... Dù gì đi nữa, nhị thức địa
ngục bắt đầu hình thành. Kết quả của nó là những gì được viết trong
quyển sổ, như “tình tiết về Carteneau” - một tay anh chị thời trung học.
Những rối loạn ác tính của nhân cách. Những cơn cuồng ám đầu tiên. Và
hành động bạo lực đầu tiên. Phịa hay là thật?... Đoạn này gần như không
thể kiểm chứng được, nhưng tôi có xu hướng tin là thật. Đội lốt những
sinh linh đang ám nó, đang nhập vào người nó, Édouard Dayms giơ nanh
vuốt của mình ra. Hắn chưa giết người. Hắn đang học những gì còn lại mà
hắn chưa học. Về sau, cuộc gặp thứ hai đã diễn ra, cũng mang tính quyết
định như thế: Florence.
Đó là một cô gái trẻ. Một con người bằng
xương bằng thịt. Nhưng với cô gái mà người trần mắt thịt chỉ thấy là một
con điếm khốn khổ và nghiện ngập thì Édouard Dayms thấy gì? Một con
chim cổ đỏ. Một con chim ưng, một tinh tú lung linh trên bầu trời cao.
Một ý trung nhân.
Jona tái sinh. Jona được cứu thoát khỏi cái hồ
nước xanh như ngọc. Tại sao lại là cô ta? Tại sao lại là Florence Mazeau
chứ không phải là ai khác? Sự giống nhau về hình thức giữa hắn và cô ta
là điều không thể chối cãi. Họ như hai anh em thực sự. Nhưng chưa hết:
tôi nghĩ đầu óc của cô gái trẻ là một mảnh đất màu mỡ cho kinh nghiệm
đó. Một mảnh đất bỏ hoang và tươi tốt, mơ hồ và dễ uốn nắn đối với bất
cứ ai. Thế rồi nhà luyện đan xuất hiện và biến cô gái khốn khổ lạc loài
thành một vì sao sáng ngời. Hắn tâng cô ta lên mây xanh mà không cần
đụng đến cô ta. Cô ta cũng muốn tin như thế vì không được quên là về
phần mình, Florence đang cần một người anh, đang thiếu ánh mắt đầy sức
sống của một người anh - điều mà cô ta đã không thể nào có được trong
tuổi thơ của mình. Tóm lại là cả hai trao cho nhau cơ hội thứ hai. Lần
này, Edouard không nhầm lẫn. Hắn sẽ không phản bội. Hắn sẽ không giả
điếc trước những lời cầu cứu hay van lơn. Không ai sẽ có thể làm khổ
người em gái yêu quý của hắn. Coi chừng những kẻ đụng vào nó! Không có
con quỷ nào có khả năng giật bàn tay nhỏ nhắn ra khỏi tay hắn, không ai
sẽ có thể cướp của hắn người em đó. Hắn không sợ ai nữa, không sợ gì
nữa.
Bởi vì bây giờ, quỷ dữ chính là hắn.
Ông hãy nhớ, thưa
ông Astrid, cái buổi tối đặc biệt đó. Đó là thời khắc bước sang năm
2000. Bắt đầu một kỷ nguyên mới. Con người sang một trang mới. Con người
chỉnh lại đồng hồ. Người ta thưởng thức những con số và những biểu
tượng. Những nhà tiên tri ung dung thông báo thời hỗn mang sắp đến, sự
sụp đổ hoàn toàn, những sự hy sinh hàng loạt, những tai biến: động đất,
sinh thái, khí quyển, vi tính. Những nhà tiên tri - những người khác hay
đôi khi là chính những người đó - tuyên bố điều ngược lại: Sự lên ngôi
của ánh sáng trên trái đất, sáng ngời và có khả năng gội rửa, trắng hơn
cả trắng, y như xà phòng.
Người ta làm cho nhau rùng mình run sợ.
Người ta chơi chữ. Người ta đùa với những múi thời gian để bán vé máy
bay cho các công ty lữ hành, xe ngựa mui gập siêu âm được trưng dụng để
những kẻ mạnh nhất trong chúng ta có thể sống kép cùng một sự kiện, mở
sâmpanh hai lần, đếm ngược hai mươi tư lần lúc nửa đêm thay vì mười hai,
với giá cắt cổ. Hãy nhớ điều đó. Một sự lừa đảo thương mại và thông tin
đại chúng quy mô lớn.
Tôi đi gặp Ariel. Tôi mang theo mình khẩu Ruger quen thuộc, calip 38 đặc biệt.

