Nhím thanh lịch - Phần 26 chương 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18
SUY NGHĨ SÂU SỐ 15
Nếu bạn muốn chữa trị cho mình
Hãy chữa cho
Những người khác
Và cười hay khóc
Trước đổi thay kỳ diệu này của số phận
Các
bạn có biết gì không? Tôi tự hỏi liệu mình có bỏ lỡ gì không. Hơi giống
như ai đó hay giao du với kẻ xấu và phát hiện ra con đường khác sau khi
được gặp được một người tốt. Những kẻ xấu mà tôi thường giao du là mẹ
tôi, chị Colombe, bố tôi và cả nhóm bạn bè của họ. Nhưng hôm nay, tôi đã
nghe chấn thương tinh thần của bà ấy: bà ấy chạy trốn ông Kakuro vì bị
sang chấn tâm lý sau cái chết của bà Lisette, chị gái của bà ấy, vì bị
con trai một gia đình giàu có quyến rũ rồi bỏ rơi. Từ đó, không thân
thiết với người giàu để không phải chết như thế là cách sống của bà ấy.
Khi
nghe bà Michel kể chuyện, tôi tự hỏi: điều gì gây đau đớn nhất? Người
chị gái chết vì bị bỏ rơi hay những tác động thưởng trực của sự kiện
này: nỗi sợ phải chết nếu không chịu giữ nguyên vị trí xã hội của mình?
Cái chết của người chị gái bà Michel có thể vượt qua được cảnh trừng
phạt chính mình không?
Và nhất là tôi lại cảm thấy một điều khác,
một cảm giác lạ mà khi viết ra nó, tôi xúc động sâu sắc đến nỗi phải
buông bút hai phút để khóc. Đây là điều mà tôi cảm thấy: khi nghe bà
Michel kể và nhìn bà ấy khóc, nhất là khi cảm thấy bà ấy nhẹ nhõm thế
nào khi nói ra được chuyện đó với tôi, tôi đã hiểu vấn đề: tôi hiểu rằng
tôi đau khổ vì không thể làm những gì tốt đẹp cho những người xung
quanh. Tôi hiểu rằng tôi ghét bố tôi, mẹ tôi và nhất là chị Colombe vì
tôi không thể có ích gì cho họ, bởi vì tôi không thể làm gì giúp họ. Họ
bị ốm nặng còn tôi lại quá yếu. Tôi thấy rõ triệu của họ, nhưng tôi
không đủ khả năng chữa bệnh cho họ, và bỗng nhiên điều đó làm tôi cũng
phát ốm giống như họ, nhưng tôi lại không nhận ra. Thế mà khi cầm tay bà
Michel, tôi cảm thấy rằng tôi cũng bị ốm. Dù sao đi nữa, điều chắc chắn
là tôi không thể chữa trị bằng cách trừng phạt những người mà tôi không
thể chữa khỏi bệnh. Có lẽ tôi cần nghĩ lại về chuyện đốt nhà và tự tử.
Vả lại, tôi phải thừa nhận: tôi không còn muốn chết đến thế nữa, tôi
muốn gặp lại bà Michel, ông Karuko, cả Yoko, đứa cháu gái vô cùng nghịch
ngợm của ông ấy nữa, và nhờ họ giúp đỡ. Ôi tất nhiên rồi, tôi sẽ không
đến và nói: please, help me(38), tôi là một cô bé muốn tự tử. Nhưng tôi
mong muốn để cho người khác làm điều tốt với mình: dù sao tôi cũng chỉ
là một cô bé rất bất hạnh, và ngay cả khi tôi quá thông minh, điều đó
cũng không làm thay đổi gì trên thực tế, đúng không? Một cô bé bất hạnh
mà vào thời điểm tồi tệ nhất, có may mắn gặp được những người tốt. Liệu
về mặt đạo đức, tôi có quyền bỏ qua dịp này không?
38. Làm ơn giúp tôi.
Ôi,
tôi chẳng biết làm gì cả. Chung quy lại, câu chuyện này là một thảm
kịch. Còn nhiều người có dũng khí, hãy vui lên! Tôi đã từng muốn nói với
mình như thế, nhưng cuối cùng, thật đáng buồn! Họ chết dưới mưa! Tôi
không còn biết nghĩ gì nữa. Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng đã tìm thấy
thiên đường của mình; tôi tưởng đã hiểu rằng, để chữa trị cho những
người khác, những người “có thể chữa trị được” khác, những người có thể
được cứu sống, thay vì buồn rầu vì không thể cứu những người khac. Thế
thì sao, tôi phải trở thành thầy thuốc ư? Hay nhà văn? Cũng tương tự
nhau, đúng không?
Và rồi để có một bà Michel, còn có biết bao nhiêu chị Colombe bao nhiêu anh chàng đáng buồn như anh Tibère?
13
Trong những lối đi ở địa ngục
Sau khi Paloma đi khỏi, đầu óc tôi bị xáo trộn hoàn toàn, tôi ngồi yên trên ghế bành một lúc lâu.
Rồi tôi lấy hết dũng cảm để bấm số điện thoại của ông Kakuro Ozu.
Paul N’Guyen nhấc máy sau tiếng chuông thứ hai.
- A, chào bà Michel,-cậu ta nói - tôi có thể giúp gì cho bà?
- Làm ơn cho tôi nói chuyện với ông Kakuro - tôi nói.
- Ông ấy đi vắng, - cậu ta trả lời - khi nào, ông ấy sẽ gọi ngay cho bà, được không ạ?
-
Không, không, - tôi nói, cảm thấy nhẹ nhõm vì được nói qua một người
trung gian. - Làm ơn nói hộ tôi rằng nếu ông ấy không thay đổi ý kiến,
tôi sẽ rất vui được ăn tối cùng ông ấy vào ngày mai.
- Vâng, - Paul N’Guyen đáp.
Đặt
điện thoại xuống, tôi lại thả mình xuống ghế bành và chìm đắm gần một
tiếng đồng hồ trong những suy nghĩ rời rạc nhưng rất thú vị.
- Ở đây có mùi hơi khó chịu, - một giọng đàn ông nhẹ nhàng cất lên sau lưng tôi. - Đã có ai sửa cho cô chưa?
Cánh
cửa mở nhẹ đến nỗi tôi không hề nghe thấy. Đó là một anh chành đẹp
trai, mái tóc nâu hơi bù xù, chiếc áo bò khoác ngoài mới tinh và đôi mắt
to của giống chó cocker hiền lành.
- Có phải Jean? Jean Arthens? - tôi hỏi, không tin nổi vào mắt mình.
- Vâng, cậu ta đáp, đầu nghiêng sang một bên giống như trước đây.
Nhưng
đó đúng là những gì còn lại từ tấm thân tàn ma dại, từ một tâm hồn trẻ
tuổi bị thiêu rụi trong thân xác gầy giơ xương; Jean Arthens vốn đã gần
như suy sụp, giờ đây rõ ràng đang hồi sinh.
- Mặt mũi cháu khá hẳn lên! - tôi nói và cười thật tươi.
Cậu ta cười đáp lại rất lịch sự.
- Vâng, chào cô Michel, cháu rất vui được gặp lại cô. Hợp với cô đấy - cậu nói thêm chỉ tay vào mái tóc tôi.
- Cám ơn, - tôi nói - Nhưng sao cháu lại tới đây? Cháu có muốn uống trà không?
- À… - Cậu nói với một chút lường lự như trước kia, - vâng ạ.
Tôi pha trà, còn cậu ấy ngồi xuống một chiếc ghế và nhìn Léon với đôi mắt sửng sốt.
- Con mèo đã to đến thế này rồi cơ à? - cậu hỏi không hề có ác ý.
- Ừ, tôi đáp - nó không yêu thể thao lắm.
- Có phải nó bốc mùi hôi không? - cậu ấy hỏi và khụt khịt mũi vẻ mặt khó chịu.
- Không, không - tôi nói - đấy là tại đường ống.
-
Chắc cô thấy lạ vì cháu đến đây như thế này, nhất là khi cô và cháu
chưa bao giờ nói chuyện nhiều với nhau, đúng không, cháu không hay nói
lắm hồi… vâng, hồi bố cháu còn sống.
- Cô vui vì gặp cháu, nhất là thấy cháu đã khá hơn, - tôi nói rất chân thật.
- Vâng, - cậu ấy nói -…cháu mới từ rất xa về.
Chúng tôi cùng đồng thời nhấp hai ngụm nhỏ trà nóng bỏng.
-
Cuối cùng thì cháu đã khỏi rồi, cháu nghĩ là cháu đã khỏi hẳn, - cậu ấy
nói -, nếu thực sự có thể chữa khỏi được. Nhưng cháu không động vào ma
túy nữa, cháu đã gặp một cô gái tốt, vâng, một cô gái tuyệt vời, cháu
phải nói như thế (cậu nhìn tôi, đôi mắt sáng lên, mũi sụt sịt nhẹ) và
cháu đã kiếm được một công việc khá hay.
- Cháu làm gì? - tôi hỏi.
- Cháu làm ở một cửa hàng bán dụng cụ cho thuyền buồm.
- Dụng cụ cho tàu thủy?
-
Vâng và rất thích. Ở đó, cháu có cảm tưởng như được đi nghỉ. Mọi người
đến và nói chuyện với cháu về thuyền của họ, về những vùng biển mà họ sẽ
đi, về những vùng biển mà họ mới từ đó trở về, cháu rất thích, và hơn
nữa cháu vui vì được làm việc, cô ạ.
- Công việc cụ thể của cháu là gì?
-
Cháu gần như làm mọi việc thủ kho, đưa hàng nhưng dần dần cháu đã học
hỏi được nhiều, vì thế đến giờ, đôi khi cháu được giao những việc thú vị
hơn: sửa buồm, dây néo, lên danh mục tiếp tế cho một con tàu.
Các
bạn có cảm thấy chất thơ của từ này không? Người ta tiếp tế cho một con
tàu, người ta cung cấp cho một thành phố. Nếu ai đó không hiểu rằng sự
kỳ diệu của ngôn ngữ được sinh ra từ những sắc thái tinh tế như thế, tôi
sẽ khẩn cầu: hãy chú ý những dấu phẩy.
- Mà cô cũng khỏe ra đấy - cậu ấy nhìn tôi thân tình nói.
- Thế ư? - tôi đáp - Đúng là có một vài thay đổi rất tốt với cô.
-
Cô biết đấy. Cháu quay về đây không phải để nhìn lại căn hộ này hay
những người ở đây. Thậm chí cháu không chắc là họ còn nhận ra cháu;
nhưng cháu có mang theo thẻ căn cước, đề phòng khi ngay cả cô cũng không
nhận ra cháu. Không, cháu đến đây vì cháu không thể nhớ ra một thứ đã
giúp ích cho cháu rất nhiều khi cháu bị ốm và sau đó, khi cháu đang
trong thời gian chữa bệnh.
- Cô giúp cháu có được không?
-
Có, vì một hôm, chính cô đã nói cho cháu biết tên của loài hoa đó. Trong
bồn hoa ở đằng kia (cậu chỉ về phía cuối sân), có những bông hoa nhỏ
rất xinh màu trắng và đỏ, chính cô đã trồng chúng đúng không? Và một
hôm, cháu đã hỏi cô đó là cây gì, nhưng cháu không thể nhớ được cái tên
đó. Thế mà lúc nào cháu cũng nghĩ đến những bông hoa đó, cháu cũng không
biết tại sao. Chúng đẹp, khi bị đau, cháu nghĩ đến những bông hoa đó và
cảm thấy đỡ hơn. Lúc này, cháu đi ngang qua đây và cháu nghĩ: mình sẽ
đi hỏi cô Michel xem cô ấy có thể nói được không?
Jean dõi theo phản ứng của tôi, vẻ hơi lúng túng.
- Hẳn là cô thấy chuyện này lạ lắm nhỉ? Hy vọng là cháu không làm cô sợ bằng câu chuyện về hoa đó.
- Không, - tôi nói, - không hề. Giá như cô biết được rằng chúng giúp ích cho cháu đến thế… Cô đã có thể trồng chúng ở khắp nơi!
Cậu ấy cười như một thằng bé con sung sướng.
-
Ôi, cô Michel, nhưng cô biết không, điều đó đúng là đã cứu sống cháu.
Đó là một điều kỳ diệu! Vậy cô có thể nói cho cháu biết đó là hoa gì
không?
Được, thiên thần của tôi, tôi có thể. Trong những lối đi ở
địa ngục, dưới trời mưa như trút, hơi thở ngắt quãng và cảm thấy buồn
nôi, một tia sáng mỏng manh: đó là hoa trà.
- Được, - tôi đáp - Đó là hoa trà.
Jean chăm chú nhìn tôi, đôi mắt mở to. Rồi một giọt nước mắt nhỏ lăn dọc theo má của đứa trẻ vừa thoát nạn.
-
Hoa trà… - cậu nói, tâm trí chìm trong một ký ức chỉ thuộc về cậu. -
Hoa trà, đúng. - Cậu nhắc lại và nhìn tôi. - Đúng thế. Hoa trà.
Tôi cảm thấy một giọt nước mắt lăn dài trên má của chính mình.
Tôi cầm tay Jean.
- Jean cháu không thể biết được cô vui sướng như thế nào khi cháu về đây hôm nay đâu - tôi nói.
- Thế ư? - Cậu nói, vẻ ngạc nhiên. - Nhưng tại sao? Tại sao?
Bởi vì một bông hoa trà có thể thay đổi số phận.
14
Từ một hành lang đến những lối đi
Cuộc
chiến mà chúng ta đang tham gia, mặc dù hiển nhiên sẽ thất bại, là gì
vậy? Hết buổi sáng này đến buổi sáng khác, sau khi đã mệt nhoài vì tất
cả những trận chiến đó, chúng ta tiếp tục nỗi kinh hãi cuộc sống hàng
ngày, đó là hành lang hẹp dài vô tận mà vào những giờ cuối cùng, xứng
đáng với số phận vì đã phải bước lâu đến thế. Vâng, thiên thần của tôi,
đây là cuộc sống thường ngày: buồn bã, trống rỗng và chìm trong đau khổ.
Những lối người đi rộng của địa ngục cũng không hề khác; một ngày nào
đó, người ta rơi vào đó sau khi đã ở trong hành lang hẹp quá lâu. Từ
hành lang đến những lối đi: sự sụp đổ diễn ra, không va chạm, cũng không
bất ngờ. Mỗi ngày, chúng ta tiến đến hành lang buồn và dần dần từng
bước một, bước hết con đường đi đầy buồn tẻ của mình.
Cậu ấy đang ở
các lối đi? Làm thế nào người ta có thể hồi tỉnh sau khi đã ngã xuống?
Con người mới nào trên đôi mắt đã hóa đã? Cuộc chiến bắt đầu từ đâu và
trận chiến kết thúc ở đâu?
Khi đó, một bông hoa trà.
15
Trên đôi vai nhễ nhãi mồ hôi
Lúc hai mươi giờ, Paul N’Guyen đến phòng tôi, tay lễ mễ bê các loại túi.
-
Ông Ozu vẫn chưa quay lại được - có vấn đề về visa ở Đại sứ quán - vì
thế ông ấy bảo tôi chuyển cho bà tất cả những thứ này, - cậu ấy nói và
nở nụ cười rất tươi.
Cậu đặt đống túi lên bàn và chia cho tôi một tấm thiệp.
- Cám ơn, - tôi nói. - Cậu có muốn uống gì không?
- Cám ơn, - cậu ấy đáp - nhưng tôi còn rất nhiều việc phải làm. Tôi để dành lời mời của bà cho một dịp khác.
Rồi cậu ấy lại cười với tôi, với vẻ gì đó nồng ấm và sung sướng khiến tôi vui vẻ thực sự.
Một mình trong bếp, tôi ngồi trước đống túi và mở phong bì ra.
“Bỗng
nhiên, anh có cảm giác mát rượi khoan khoái trên đôi vai nhễ nhại mồ
hôi của mình mà thoạt tiên không rõ đó là cái gì; nhưng trong lúc nghỉ
giải lao, anh thấy một đám mây đen nặng nề là là bay tới và trời đổ mưa
rào.”
Xin bà hãy nhận những mòn quà giản dị này.
Kakuro.
Mưa
mùa hạ trên đôi vai của Lévine đang cắt cỏ… Tôi đưa tay lên ngực, thấy
mình chưa bao giờ xúc động đến thế. Tôi lần lượt mở từng túi.
Một chiếc váy lụa màu xám ngọc trai, cổ đứng nhỏ, cài lệch, thắt bằng đai lụa màu tía, nhẹ và sợi dệt sít.
Đôi giày gót nhỏ, làm bằng đa đen hạt mịn và mền đến nỗi tôi áp nó lên má mình.
Tôi nhìn chiếc váy, khăn, đôi giày.
Bên ngoài, có tiếng Léon cào cào vào cánh cửa và kêu meo meo đòi vào phòng.
Tôi bật khóc khe khẽ, chầm chậm, với một bông hoa trà run rẩy trong lồng ngực.
16
Chuyện gì đó cần phải kết thúc
Ngay ngày hôn sau, lúc mười giờ, có tiếng gõ cửa.
Đó
là một kiểu gõ cò hương cao gầy, mặt đồ toàn đen, đội mũ len màu xanh
nước biển và đi giày cao cổ kiểu lính thời chiến tranh Việt Nam. Đó cũng
là bạn của Colombe và một chuyên gia tầm cỡ thế giới trong việc lược bỏ
lời nói lễ độ. Cậu ta tên là Tebére.
- Cháu tìm Colombe, - Tebére nói
Xin các bạn hãy đánh giá sự nực cười của câu này. Tôi tìm Juliette, Roméo nói, câu này dù sao cũng hay ho hơn.
-
Cháu tìm Colombe, - Tebére nói; cậu ta chỉ sợ nhất dầu gội đầu và để lộ
điều này khi bỏ mũ ra không phải vì lịch sự mà vì trời quá nóng.
Bây giờ đang là tháng Năm, quỷ thật.
- Paloma nói với cháu là Colombe ở đây - cậu ta nói thêm.
Rồi lại nói tiếp:
- Mẹ kiếp, phiền quá.
Paloma, cháu đùa được lắm.
Tôi nhanh chóng đuổi khéo cậu ta và chìm đắm trong những suy nghĩ lạ lùng.
Tebére…
cái tên nổi tiếng cho một con người đáng thương đến thế(39). Tôi nhớ
lại lời văn của Colombe Jose, những lối đi yên tĩnh của thư viện
Saulchoir… và đầu óc tôi bay đến tận Rome… Tebére… ký ức về khuôn mặt
của Jean Arthens bất ngờ hiện ra, tôi lại nhìn thấy khuôn mặt của bố cậu
ta cùng cái cà vạt to bất lịch sự và nực cười… Tất cả những sự tìm kiếm
đó, tất cả những thế giới đó… Liệu chúng ta có thể giống nhau đến thế
và sống trong những vũ trụ xa cách đến thế không? Liệu chúng ta có thể
có cùng một sự cuồng nhiệt mặc dù không sinh ra ở cùng một vùng đất,
không cùng một dòng máu và không cùng một tham vọng không Tebére … tôi
cảm thấy mệt mỏi, thật đấy, mệt vì tất cả những kẻ giàu đó, mệt vì tất
cả những người nghèo đó, mệt vì trò hề đó… Léon nhảy ra khỏi ghế bành và
chạy đến cọ mình vào chân tôi. Con mèo bị béo phì chỉ vì lòng hảo tâm
này cũng là một tâm hồn hào hiệp cảm nhận được những biến động tâm hồn
của tôi. Mệt mỏi, vâng, mệt mỏi…
39. Tebére là tên hoàng đế thứ hai của La Mã, tên đầy đủ là Tiberius Claudius Nero.
Chuyện gì đó cần phải kết thúc, chuyện gì đó cần phải bắt đầu.
17
Khổ vì điệu đà
Lúc hai mươi giờ, tôi đã sẵn sàng.
Chiếc váy và đôi giày vửa in với tôi (cỡ 42 và 37).
Khăn choàng theo kích thước La Mã (rộng 60 xăng timét, dày 2 mét).
Sau khi gội đầu 3 lần, tôi sấy tóc bằng máy sấy Babyliss 1600 watt và chải 2 lần về mọi hướng. Kết quả thật bất ngờ.
Tôi ngồi xuống 4 lần và cũng đứng lên 4 lần, chứng tỏ bây giờ tôi đang đứng mà không biết nên làm gì.
Có lẽ là ngồi xuống.
Tôi
lôi từ đâu đống ga trải giường ở đáy tủ ra hộp nữ trang và lấy từ đó ra
2 chiếc hoa tai được thừa hưởng từ mẹ chồng tôi, bà Yvette to béo - đôi
hoa tai cũ bằng bạc với 2 hạt hồng ngọc hình quả lê. Sau 6 lần thử tôi
mới xỏ được đúng vào tai và giờ đây tôi phải sống với cảm giác có 2 con
mèo bụng phệ đang treo ở tai làm dái tai căng hết cỡ. Suốt 54 năm không
đeo đồ trang sức nên tôi không sẵn sàng chịu khổ sở vì kiểu cách điệu
đà. Tôi phết lên môi 1 lớp son “Camin profond”, thỏi son mua từ 20 năm
trước để đi dự đám cưới của một cô em họ. Chưa bao giờ tôi lấy làm ngạc
nhiên về tuổi thị dài của những đồ vật không mấy cần thiết, trong khi
những cuộc đời đầy dũng khí lại chết đi mỗi ngày. Tôi nằm trong số 8%
dân số thế giớ tự xoa dịu lo âu của mình bằng cách chìm đắm trong các
con số.
Ông Kakuro Ozu gõ 2 tiếng vào cánh cửa phòng tôi.
Tôi mở cửa.
Ông
ấy rất đẹp. Ông ấy mặc bộ đồ gồm áo vest cổ cao màu ghi than đá với
những nút trang trí hợp tông màu và chiếc quần ống đứng cùng bộ, đi đôi
giày đế thấp bằng da mềm trông giống như đôi giày vải đi trong nhà cao
cấp. Rất… Âu - Á.
- Ô, trông bà thật tuyệt! - ông ấy nói với tôi.
- Cám ơn, - tôi xúc động nói, - trông ông cũng rất đẹp. Chúc mừng sinh nhật!
Ông
ấy cười. Sau khi tôi đã đóng cửa cẩn thận sau lưng mình và trước mặt
Léon đang cố chui ra, ông Kakuro chìa cánh tay cho tôi, tôi đặt bàn tay
hơi run rẩy của mình lên đó. Cầu mong cho đừng ai nhìn thấy chúng tôi,
trong tôi vang lên một lời cầu muốn kháng cự, lời khẩn cầu của Renée
sống trong bí mật. Tôi đã cố vứt bỏ biết bao nỗi sợ hãi vào giàn thiêu
nhưng vô ích, tôi vẫn chưa sẵn sàng trở thành chủ đề của những kẻ ngồi
lê đôi mách ở phố Grenelle.
Ai sẽ bị bất ngờ về chuyện này?
Chúng tôi đi về phía cửa ra vào. Cánh cửa bỗng mở ra khi chúng tôi vẫn chưa tới nơi.
Đó là Jacinthe Rose và Anna-Helène Meurisse.
Chó má thật! Làm gì bây giờ?
Chúng tôi đã ở ngay trước mặt họ.
-
Xin chào, xin chào các bà, - ông Kakuro vừa nói to vừa kéo mạnh tôi về
phía bên trái và lướt nhanh qua họ, - xin chào các bà, chúng tôi đang bị
muộn, chào các bà, chúng tôi đi đây!
- A, chào ông Ozu, - hai người đàn bà làm điệu bộ và cũng tò mò quay lại nhìn chúng tôi.
- Chào bà, - họ nói (với tôi) và cười nhe hết cả răng.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nhiều răng đến thế cùng một lúc.
- Rất hân hạnh, thưa bà, - Anna-Helène Meurisse khẽ nói với tôi và hau háu nhìn tôi khi chúng tôi ào qua cửa.
- Nhất định rồi, nhất định rồi! - ông Kakuro nói nahnh và dùng gót chân đẩy cánh cửa vào.
- Khốn khổ, - ông ấy nói - nếu dừng lại, thế nào chúng ta cũng phải mất một tiếng.
- Họ không nhận ra rôi, - tôi nhắc lại.
Ông Kakuro cũng dừng lại, tay tôi vẫn đặt trên cánh tay ông ấy.
- Bởi vì họ chưa bao giờ nhìn thấy bà cả, - ông ấy nói với tôi - Còn tôi, tôi vẫn sẽ nhận ra bà trong bất cứ hoàn cảnh nào.
18
Nước chảy
Chỉ
cần một lần thử nghiệm việc người ta có thể bị mù trong ánh sáng và
nhìn rõ trong bóng tôi là đủ để người ta tự đặt ra câu hỏi về thị giác.
Tại sao chúng ta nhìn thấy được? Trong khi bước lên chiếc xe taxi mà ông
Kukaro đã đợi sẵn và nghĩ về Jacinthe Rose và Anna-Helène Meurisse, hai
người đàn bà chỉ nhìn thấy ở tôi những gì họ có thể nhìn thấy (nắm tay
ông Ozu, trong một thế giới chia thành thứ bậc), điều hiển nhân rằng cái
nhìn giống như một bàn tay tìm cách bắt lầu nước chảy khiến tôi thực sự
chưa bao giờ sửng sốt đến thế. Vâng, con mắt nhận thấy nhưng không nhìn
kỹ càng, tin nhưng không đặt câu hỏi, nhận nhưng không tìm kiếm - không
ham muốn, không khao khát, cũng không định cố gắng.
Và trong khi xe taxi lướt đi dưới bầu trời bắt đầu tôi, tôi thầm nghĩ.
Tôi đến Jean Arthens, hai mắt sáng rực vì những bông hoa trà.
Tôi nghĩ đến Pierre Arthens, con mắt sắc sảo và sự mù quáng của kẻ ăn mày.
Tôi nghĩ đến những người đàn bà tham, những cặp mắt nàn xin mù quáng đến vô nghĩa.
Tôi nghĩ đến Gégène, hốc mắt chết và không sức sống, chỉ còn lại sự suy sụp.
Tôi nghĩ đến Lucien, không đủ khả năng nhìn thấy vì bóng tối đôi khi lại quá mạnh.
Tôi nghĩ đến cả Neptune với đôi mắt như một cái mõm không biết tự lừa dối.
Rồi tôi tự hỏi liệu tôi có nhìn rõ bản thân mình không.