Gió lẻ và 9 câu chuyện khác - Chương 07
Thổ sầu
Lúc vào nách một con sông gầy gò
chảy cắt qua đồng, Thổ Sầu như một đứa trẻ tuyệt vọng níu tìm vú mẹ. Dọc
triền sông, cỏ kết dày, từ trên bờ thò xuống nước như đất đang gục đầu
gội tóc, những cây bần de xa khỏi mé sông, những cây sộp rũ rượi xóa tóc
chùm rễ nâu, những thân cau lẻ đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà nhói
lên xa xa… tất cả những thứ đó làm cho vẻ mặt Thổ Sầu buồn thiu. Những
chiều phai, nhìn ra sông thấy lục bình trôi lơ phơ mấy cái bông lục bình
quá thì, cũng phai như chiều. Ngó ra sau nhà thấy một cái vạt đồng
trũng sâu, ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa thớt, xanh xao. Vườn cũ
có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy bụi tre bụi trúc vút
lên trời 1 chùm xanh ngắt…
Khi tôi ra đời Thổ Sầu đã buồn thâm
căn cố đế. Đến nỗi những người ở đây không còn cảm giác để nhân biết
buồn nữa. Chỉ khách phương xa mới ngây ngất trước bộ mặt sầu muộn của
quê tôi. Họ lặng đi. Bàng hoàng. Ngây dại. Và cơn choáng váng đó đã bật
lên một ý nghĩ lạ lùng, Thổ Sầu sẽ làm du lịch.
Tía tôi trở tính
lầm lù ngay từ khi Thổ Sầu đón lượt khách đầu tiên. Họ săm soi cái nồi
méo mó cháy đen và chụp hình chúng tôi ăn cơm chiều bên ơ kho quẹt mặn
chát. Tía tôi nói, giọng nẫu nê, tao muốn chết quá, Đậu ơi. Tôi cũng
ngột ngạt cứng mình, nên chỉ biết lúng búng nói, thôi kệ họ… Không giải
thích được. tại sao khách lại hớn hở và háo hức khi nhìn thấy những căn
nhà cột gặm gió thổi lá mục rơi lả tả, chiếc tivi đen trắng xài bình ắc
quy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương vẫn còn dài mà khung hình
còn chút xíu vì thiếu điện. Những cột xay bột bằng đá xám. Những vách
buồng được đan bằng sậy đập giập…
Nhà tôi xiêu vẹo đã lâu. Nhánh
khế de trên nóc nhà có bữa rụng xuống mâm cơm của chúng tôi mấy trái
chín rục. Vẻ hiu hắt, cũ kỹ của ngôi nhà thường cuốn hút khách dừng
chân, ghé vào. Tía tôi tạt vào họ một bộ mặt lạnh tanh, te te bỏ ra
vườn, cây gậy dấm dứ trên tay như chực phang vào ai đó. Tôi cũng khó
chịu khi người ta hãi hùng níu vai nhau coi tôi lột da chuột dưới cầu
ao. Tôi thấy hình ảnh mình – một thằng con trai tàn bạo, man rợ trong
mắt họ. Tôi ngọ nguậy, giãy giụa một cách tuyệt vọng. Bởi suốt một mùa
nắng đó, hai tía con tôi chỉ sống nhờ vào tiền bán chuột đồng nên tôi
không làm sao cải thiện được hình ảnh của mình.
Khi trời trở
gió Nam, mùa mưa kéo theo một bầy sấm chớp ập tới, bộ dang tôi đã bớt
tàn nhẫn nhưng vẫn lem luốc vì bận cắm cậu,đặt trúm, soi nhái. Điều đó
làm tôi bị thâm một cái tật là tắm lâu, bùn đất sạch rồi nhưng những ánh
mắt vừa thương cảm vừa ghê sợ của những người xa lạ cứ rát trên da tôi.
Giữa mùa mưa nắng dẳng dai. Tưởng khách chán Thổ Sầu rồi, không dè
khách tới đây ngày càng đông. Thổ Sầu quá quyến rũ, khiến người ta mụ mị
đi bởi cái nghèo, giản dị đến mức nguyên thủy. Nhiều người khách mô tả,
họ như rơi tõm vào một vũng buồn, và chìm trong thứ bùn mát rượi và
thơm ngọt mùi đồng bãi.
Những bữa mưa nhiều, khách mừng húm, khoái
chí sì sụp lội ra đường. Họ xách dép lội trật vuột trên con đường ọp ẹp
bùn sình, người này nhờ người kia chụp cho kiểu hình ngoi ngóp. Người
nào người nấy hớn hở hết biết.
Tía nhìn cảnh đó ngao ngán lắc đầu.
Lại nói tao chết à, Đậu. Với tía tôi, chỉ ở Thổ Sầu hoặc chết, phải tía
kêu, mình dời đi chỗ khác, Đậu ơi. Ngay lập tức tôi sẽ đốt phứt cái nhà
và dắt tía xuống đò. Chưa biết đi đâu, về đâu nhưng rời bỏ chỗ này
trước đã. Nhưng đó không phải lựa chọn của tía, tôi chỉ biết cười buồn,
“sức mấy mà tía chết. Từ từ rồi quen thôi, tía”.
Quen, như hầu hết
bà con ở Thổ Sầu bắt đầu quen làm du lịch. Họ thôi núp trốn mà để mặc
khách chụp hình mình đang nấu cơm trong gian bếp thấp chật chội, củi ướt
sủi tăm, mù mịt khói, hay đang hứng nước dột xuống từ mái nhà, hay đang
khâu chiếc mền bằng vải vụn… Khách có quá nhiều thứ để giới thiệu Thổ
Sầu với bạn bè, một chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu, mấy
cái đèn cóc lụm tim, chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt
tre dù đã chuốt kỹ vẫn gù lên lông chông.
Nhưng ngộ, người đông
đúc, lượn lờ khắp Thổ Sầu những xóm vẫn buồn. Vài nhà định mở quán phở
những rốt cuộc, để giữ nét hoang sơ cho xóm, họ lại chỉ bán bánh dừa,
bánh khọt, cốm gạo… Chái bếp nhà tôi sập do mối ăn, nhưng không lợp
được, phải chờ mưa nắng cho mớ lá mới ngả màu cũ kỹ một chút. Tía tôi
hay kêu trời, bất chợt. Thoảng thốt như trong lòng có những ý nghĩ nào
đó bị xáo trộn, bóp nghẹt vọt ra ba tiếng trời ơi trời. Có bữa, tía với
tôi ngồi vót tre đan thúng trên tấm đệm rách te tua ngoài hàng ba, vài
người khách xăng xái xà vào, kinh ngạc hết hồn khi biết cái thúng kia
chỉ bán được chừng mươi ngàn, mà trật vuột lắm, lúc bán được, lúc không.
Một chị nọ bỗng ngó tôi, cất giọng thoảng thốt, không hiểu tại sao
người ở đây ai cũng thấy buồn buồn hết. Làm du lịch thì phải vui chớ.
Tía tôi cắm phập cây mác xuống đất, cười khan, “Vui. Nhưng mà nhục… ”.
Khách cun cút bỏ đi.
Vì thái độ đó mà tía tôi bị ông trưởng xóm
phê bình dữ dội. Chòm tóc thưa của ông chỉ phơ phất ngang vai tôi, tay
chém vào không khí liên tục, trưởng xóm nói, “Xóm mình không tài nguyên
đất cát gì hết, chỉ sống nhờ du lịch, không kéo khách tới thì thôi, sao
anh Hai lại đuổi khách đi”. Tía tôi ngồi im re, không thưa thớt, phân
bua gì, nhưng ánh mắt lầm lì, khinh khỉnh.
Khi nắng trở lại ủ Thổ
Sầu trong màu vàng úa hoang hoải, sự thù ghét người lạ trong lòng tía
tôi lại càng chất chứa. Tánh tía tôi rất cố chấp. Mà cũng do khách không
thèm giấu che những ý nghĩ của mình. Những người có quá khứ nghèo thì
phơ phởn thấy mình đã thoát được cái nơi (tương tự) như Thổ Sầu. Những
người chưa từng nếm trải cảm giác cuộc sống quê mùa thì trầm trồ, thắc
mác nhiều chuyện không đâu, thí dụ như chỉ ăn cơm suông, chừng nào hết
cơm mới đụng đến mớ đồ ăn ít ỏi. Người thấy cuộc sống chật chội, nặng nề
đến đay, bỗng thấy mình ham sống, thấy tràn trề sức lực trong cuộc chen
chúc mưu sinh. Phụ nữ luôn có nụ cười kỳ lạ, như thể không ngậm miệng
được, nụ cười biết nói, “vậy mình quá giàu so với đám người này”. Đám
đàn ông ánh mắt cũng mãn nguyện không kém, “dám chắc là trong ba tháng
nữa bà vợ mình không than vãn chuyện lương thấp lương cao”.
Chỉ
mấy đứa trẻ là dễ thương. Tôi thích nhìn vẻ thất vọng não bề của chúng
khi tới xóm tôi. Tôi bỏ rất nhiều thời gian la cà ngoài bến, ngó mấy đứa
nhỏ giãy nảy, kêu khóc bên đôi giày leo núi và bộ đồ tắm biển thừa
thãi. Tôi cười ngất. Nhất là khi ra về, nhiều đứa ấm ức cằn nhằn:
- Hổng vui gì hết… Nhìn người ta nghèo hổng vui gì hết.
Nghe câu đó tôi vừa thích, vừa thương. Ông trời mà cho tôi thằng con như vậy, dám tôi đội lên đầu lắm.
Tôi
nói điều đó với Huệ, đứa con gái bên xóm chuyên thắt cào cào bằng lá
dừa bán cho khách du lịch. Nó cười buồn, biểu tôi, muốn có con thì rủ
con Mận hay con Đèo. Mai mốt nhà Huệ đã dời ra chợ huyện. Má nó ao ước
trước lúc chết rong nhà có cái ti vi màu.
Khách sẽ bực lắm, thất vọng lắm nếu giữa Thồ Sầu đìu hiu lại có ti vi màu.
Huệ
nhìn tôi một cách vô vọng, “Dậu đi với Huệ nghen ?”. Tôi cúi mặt nhìn
đôi bàn chân đang ngập trong bùn, không, tôi không bỏ Thổ Sầu được,vì
tía tôi không đời nào chịu dời đi. Vì sau vườn cỏ lại mon men bò lên mộ
má tôi, ông bà tôi…

