Hoa trên mộ Algernon - Chương 05

17 tháng Tư – Đêm qua tôi gặp ác mộng,
và sáng nay khi tỉnh dậy, tôi tự do liên tưởng theo cách mà bác sĩ
Strauss bảo tôi làm mỗi khi nhớ lại giấc mơ của mình. Nghĩ về giấc mơ và
để cho trí óc tôi lang thang cho đến khi các ý nghĩ xuất hiện trong
đầu. Tôi cứ làm thế cho đến lúc đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng. Bác sĩ
Strauss nói như thế có nghĩa là tôi đã đạt đến điểm mà tiềm thức tìm
cách ngăn không cho ý thức nhớ lại. Đấy là bức tường giữa hiện tại và
quá khứ. Đôi khi bức tường vẫn đứng vững, đôi khi bức tường sụp đổ và
tôi có thể nhớ lại được những gì đằng sau nó.

Giống như sáng nay.

Đấy
là giấc mơ về cô Kinnian đọc báo cáo tiến bộ của tôi. Trong giấc mơ,
tôi ngồi xuống để viết nhưng chẳng thể nào viết hay đọc được chút gì.
Tất cả đều biến mất. Tôi sợ lắm, vì thế tôi nhờ Gimpy ở tiệm bánh viết
giúp cho tôi. Nhưng khi cô Kinnian đọc báo cáo cô rất giận và xé tan các
trang giấy bởi vì trong đó toàn những từ ngữ bậy bạ.

Khi tôi về
nhà, giáo sư Nemur và bác sĩ Strauss đã ngồi chờ tôi ở đó, họ đánh cho
tôi một trận vì tội viết bậy trong báo cáo tiến bộ. Khi mọi người về
hết, tôi nhặt các trang giấy rách vụn lên nhưng chúng biến thành những
tấm thiệp tình yêu có buộc ruy băng dính đầy máu.

Giấc mơ này thật là đáng sợ nhưng tôi nhảy ra khỏi giường ghi lại tất cả và lại bắt đầu tự do liên tưởng.

Tiệm
bánh… nướng bánh… cái lò… có người đá tôi… ngã xuống… máu me khắp nơi…
viết… cây bút chì lớn trên tấm thiệp đỏ… trái tim nhỏ bằng vàng… khung
ảnh hình trái tim… sợi dây xích… tất cả đều dính máu… và hắn đang cười
nhạo tôi…

Sợi dây xích là của dây chuyền trái tim có lồng ảnh…
quay tròn… phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh vào mắt tôi. Và tôi thích
xem nó quay… quan sát sợi dây xích… cuộn tròn, xoắn tít lại và quay
tròn… và một bé gái đang đứng nhìn tôi.

Tên của cô bé là cô Kin – ý tôi là tên Harriet.

Harriet… Harriet… chúng ta ai cũng yêu Harriet.”

Và rồi chẳng có gì nữa cả. Tất cả lại tiếp tục trống rỗng.

Cô Kinnian đang nhìn qua vai tôi để đọc báo cáo tiến bộ.

Rồi chúng tôi có mặt ở Trung tâm Người lớn Thiểu năng, và cô lại đọc qua vai tôi khi tôi viết bài nuận bài luận.

Trường học chuyển thành P.S. 13
tôi mới mười một tuổi và cô Kinnian cũng chỉ mười một tuổi, nhưng giờ
cô không phải là cô Kinnian nữa. Cô là một cô bé có má lúm đồng tiền với
những lọn tóc dài và tên cô là Harriet. Chúng tôi ai cũng yêu quý
Harriet. Hôm đấy là Valentine.

Tôi nhớ…

Tôi nhớ đến những gì xảy ra tại P.S. 13 và tại sao họ lại phải chuyển trường và đưa tôi đến P.S. 222. Nguyên nhân là do Harriet.

Tôi
nhìn thấy cậu bé Charlie A mười một tuổi. Cậu có một khung ảnh hình
trái tim nhỏ màu vàng mà có lần cậu nhặt được trên đường phố. Trái tim
không có dây xích, nhưng cậu xỏ nó vào một sợi dây, và cậu rất thích
quay trái tim đó để cho sợi dây xoắn tít lại, rồi sau đó nhìn nó quay
ngược trở lại, xoay tròn xoay tròn, ánh mặt trời lấp lánh trong mắt cậu.

Thỉnh
thoảng, khi lũ trẻ chơi trò bắt bóng, chúng lại cho cậu chơi ở giữa và
cậu tìm cách bắt lấy quả bóng trước khi một đứa nào đó bắt được. Cậu
thích được chơi ở giữa như thế - dù cho chẳng bao giờ cậu bắt được quả
bóng – và có lần khi Hymie Roth sơ ý đánh rơi quả bóng và cậu nhặt nó
lên thì lũ trẻ vẫn không cho cậu ném bóng đi mà bắt cậu đứng trở lại
giữa vòng.

Khi Harriet đi qua, lũ trẻ ngừng chơi mà nhìn cô bé.
Tất cả lũ con trai đều thích Harriet. Khi cô bé lắc đầu thì các lọn tóc
bay lên bay xuống, và cô bé có má lúm đồng tiền. Charlie không hiểu tại
sao lũ trẻ lại nhặng xị lên vì cô bé và tại sao lúc nào chúng cũng muốn
được nói chuyện với cô bé (cậu thích chơi bóng hoặc tạt lon hoặc trò
ringo – levio(4) hơn là nói chuyện với con gái), nhưng vì toàn bộ lũ con trai đều chết mê chết mệt Hariet nên cậu cũng say mê Harriet.

4. Ringo-levio
là trò chơi bắt nguồn từ New York (Mỹ), khá giống cới trò đánh trận giả
của Việt Nam, trong đó người chơi chia thành hai nhóm tương đối cân
bằng về số lượng và tiến hành bắt giữ thành viên nhóm kia làm tù binh.


bé không bao giờ trêu chọc cậu như những đứa trẻ khác, còn cậu thì làm
trò cho cô bé xem. Cậu giẫm lên bàn khi giáo viên không có mặt trong
lớp. Cậu ném tẩy qua cửa sổ, viết nhăng nhít lên bảng học và lên tường
lớp. Và Harriet thì lúc nào cũng kêu lên và cười khúc khích: “Ối xem
Charlie kìa. Bạn ấy có hay không kìa? Ối, trông bạn ấy buồn cười chưa
kìa?”

Hôm đấy là Valentine, và lũ con trai kháo chuyện với nhau về
những tấm thiệp tình yêu chúng sẽ tặng cho Harriet, vì thế Charlie nói:
“Tớ cũng sẽ tặng thiệp cho Harriet.”

Cả lũ cười ồ lên và Barry nói: “Thế cậu sẽ lấy thiệp ở đâu ra chứ?”

“Tớ sẽ tặng cho cô ấy một tấm thiệp thật đẹp. Rồi các cậu sẽ thấy.”

Nhưng
cậu không có xu nào để mua thiệp cả, vì vậy cậu quyết định sẽ tặng cho
Harriet cái khung ảnh hình trái tim, giống như những tấm thiệp Valentine
bày trên cửa sổ quầy hàng. Đêm đó, cậu lấy giấy gói quà từ ngăn kéo của
mẹ, và phải mất một lúc lâu cậu mới gói xong và thắt một cái nơ bằng
sợi ruy băng đỏ. Rồi hôm sau, trong giờ ăn trưa ở trường, cậu mang món
quà tới cho Hymie Roth nhờ Hymie viết giúp mấy dòng lên tờ giấy.

Cậu nhờ Hymie viết: “Harriet
yêu quý, tớ nghĩ rằng cậu là cô gái xinh đẹp nhất thế giới. Tớ thích
cậu rất nhiều và tớ yêu cậu. Tớ muốn cậu trở thành nữ thần tình yêu của
tớ. Bạn Charlie Gordon
.”

Hymie viết bằng chữ lớn rất cẩn thận
lên tờ giấy, miệng ngoác ra cười suốt, rồi bảo với Charlie: “Giời ơi,
món quà này sẽ làm nó ngạc nhiên mà chết mất. Chờ xem đến lúc nó nhìn
thấy thế nào nhé.”

Charlie sợ lắm, nhưng cậu muốn tặng cho Harriet
cái khung ảnh hình trái tim, vì vậy cậu theo cô bé từ trường về nhà và
chờ cho đến khi cô bé vào hẳn trong nhà. Rồi cậu lẻn vào hành lang và
treo món quà lên tay nắm cửa bên trong. Cậu nhấn chuông hai lần và chạy
qua bên kia đường rồi nấp sau gốc cây.

Khi Harriet bước xuống, cô
bé nhìn quanh xem ai đã bấm chuông. Rồi cô bé cũng nhìn thấy gói quà. Cô
bé cầm lấy và mang lên gác. Charlie đi từ trường về nhà và bị phát vào
mông vì tội lấy giấy và ruy băng từ ngăn kéo của mẹ mà không xin phép.
Nhưng cậu chẳng quan tâm lắm. Ngày mai, Harriet sẽ đeo cái khung ảnh
hình trái tim và nói với toàn bộ lũ con trai là cậu đã tặng nó cho cô
bé. Rồi chúng sẽ thấy.

Hôm sau, cậu chạy hộc tốc đến trường, nhưng còn sớm quá. Harriet vẫn chưa đến, và cậu hết sức hồi hộp.

Nhưng
khi Harriet đến trường, thậm chí cô bé còn chẳng thèm liếc mắt nhìn
cậu. Cô bé cũng chẳng đeo trái tim ấy. Và trông cô bé rất tức giận.

Cậu
làm đủ trò mỗi khi cô Janson không để ý: Cậu làm mặt cười. Cậu cười lăn
lộn. Cậu đứng lên ghế và lắc mông. Thậm chí cậu còn ném phấn vào
Harold. Nhưng Harriet chẳng thèm nhìn cậu lấy một lần. Có lẽ cô bé đã
quên ở nhà. Có lẽ ngày mai cô bé sẽ đeo nó. Cô bé đi qua chỗ cậu ở chỗ
hành lang, nhưng khi cậu quay sang để bắt chuyện thì cô bé đi nhanh qua
cậu mà chẳng nói lời nào.

Ở giữa sân trường, hai ông anh của cô bé đang đứng chờ cậu.

Gus đẩy cậu: “Thằng nhóc láo toét này, có phải mày viết những dòng bẩn thỉu này cho em tao không?”

Charlie bảo cậu không hề viết dòng chữ bẩn thỉu nào cả. “Em chỉ tặng thiệp Valentine cho bạn ấy thôi.”

Oscar,
trước khi tốt nghiệp trung học đã từng ở trong đội bóng của trường, túm
lấy áo Charlie và giật đứt hai cái cúc. “Tránh xa em gái tao ra, đồ hư
hỏng. Dù sao thì mày cũng chẳng thuộc về cái trường này.”

Hắn đẩy Charlie qua cho Gus, và Gus túm lấy cổ cậu. Charlie sợ hãi, bật khóc.

Rồi
chúng bắt đầu đánh cậu, Oscar đấm vào mũi cậu, còn Gus thì đánh cậu ngã
lăn ra đất và đá vào sườn, rồi cả hai đứa đều đá cậu, đứa này xong đến
đứa khác, và có mấy đứa bé ở trong sân bạn của Charlie – chạy đến hét
lên và vỗ tay: “Đánh nhau! Đánh nhau! Người ta đánh Charlie kìa!”

Quần
áo rách nát, mũi chảy máu và bị gãy một răng, sau khi Gus và Oscar bỏ
đi, cậu ngồi trên vỉa hè và khóc. Máu có vị chua. Những đứa trẻ khác chỉ
cười và hét: “Charlie ăn đòn! Charlie ăn đòn!” Sau đó ông Wagner, giám
thị trường, đến đuổi chúng đi. Ông đưa Charlie vào phòng bọn con trai và
bảo nó lau máu với đất trên mặt và tay trước khi về nhà…

Tôi đoán là tôi khá ngốc bởi vì tôi tin vào những gì mọi người nói. Lẽ ra tôi không nên tin Hymie hay bất cứ người nào.

Trước
ngày hôm nay thì tôi chưa bao giờ nhớ được chút gì về chuyện này cả,
nhưng tất cả đã trở lại với tôi sau khi tôi suy nghĩ về giấc mơ. Nó có
liên quan ít nhiều đến cái cảm giác khi cô Kinnian đọc báo cáo tiến bộ
của tôi. Dù sao thì bây giờ tôi cũng thấy vui vì không phải nhờ người
khác viết hộ mình nữa. Giờ thì tôi có thể tự mình làm được rồi.

Nhưng tôi chợt nhận ra một điều. Harriet không hề trả lại cho tôi trái tim đó.

18 tháng Tư – Tôi
đã hiểu Rorschach là gì. Đấy là bài thử nghiệm với những dấu mực mà tôi
đã có lần làm trước khi phẫu thuật. Ngay khi vừa hiểu ra nó là cái gì,
tôi lại thấy sợ. Tôi biết Burt sắp sửa bảo tôi tìm các hình ảnh, và tôi
biết mình không thể nào làm được. Tôi đang nghĩ, giá mà có cách nào đó
để biết được loại hình ảnh nào ẩn giấu ở đó. Có thể là chẳng có hình ảnh
nào trong đó cả. Có thể nó chỉ là mẹo để xem tôi có đần độn đến mức đi
tìm một thứ không hề có trong đó chăng. Chỉ nghĩ thế đã khiến tôi phát
điên lên với anh ta rồi.

Anh ta nói: “Được rồi, Charlie. Anh đã từng nhìn thấy những tấm bìa này rồi, nhớ chứ?”

“Tất nhiên là tôi nhớ.”

Tôi nói bằng giọng khiến anh ta hiểu là tôi đang rất giận và anh ta nhìn tôi ngạc nhiên.

“Có chuyện gì thế Charlie?”

“Không, chẳng có gì đâu. Mấy vết mực này làm tôi khó chịu quá.”

Anh
mỉm cười và lắc đầu. “Chẳng có gì khó chịu cả. Đây chỉ là một trong
những bài kiểm tra tính cách bình thường thôi mà. Giờ thì tôi muốn anh
nhìn vào tấm bìa này. Nó giống cái gì? Anh nhìn thấy gì trên tấm bìa
này? Mọi người nhìn thấy đủ thứ qua những vết mực này. Hãy nói tôi nghe
đối với anh thì nó là gì – nó khiến anh nghĩ tới điều gì?”

Tôi thấy choáng. Tôi nhìn chằm chằm vào tấm bìa rồi lại nhìn anh ta.

Đấy
không phải là điều mà tôi nghĩ rằng anh ta sẽ nói ra. “Anh muốn nói là
không có hình ảnh nào ẩn chứa trong những vết mực này ư?”

Burt nhướn mày và tháo kính ra. “Cái gì?”

“Hình
ảnh! Ẩn chứa trong những vết mực này! Lần trước anh bảo tôi là ai cũng
có thể nhìn thấy chúng và anh muốn tôi cũng tìm ra chúng.”

“Không phải đâu Charlie à. Chắc là tôi không nói vậy đâu.”

Tôi
hét vào mặt anh ta: “Ý anh là sao?” Nỗi sợ những vết mực lớn đến mức
tôi nổi giận với cả bản thân mình lẫn Burt. “Anh đã nói với tôi thế. Chỉ
vì anh không đủ thông minh để đi học đại học không có nghĩa là anh được
phép lấy tôi ra làm trò đùa. Tôi chán ngấy và mệt mỏi với việc bị trêu
chọc lắm rồi.”

Tôi nhớ là mình chưa bao giờ giận dữ đến thế. Tôi
không hề nghĩ rằng chính do Burt, nhưng đột nhiên mọi thứ nổ tung ra.
Tôi ném mấy tấm bìa Rorschach lên bàn và bước ra ngoài. Giáo sư Nemur
đang bước đi dọc hành lang, và khi tôi chạy vụt qua ông mà không chào
một câu thì ông biết ngay là có chuyện. Khi tôi chuẩn bị bước vào thang
máy thì ông và Burt đuổi kịp tôi.

Nemur nắm lấy cánh tay tôi, nói: “Charlie, chờ chút đã. Tất cả những chuyện này là thế nào?”

Tôi
run lên và gật đầu với Burt. “Tôi chán ngấy và mệt mỏi vì cứ bị mọi
người trêu chọc rồi. Thế thôi. Có lẽ trước kia tôi không hiểu biết như
bây giờ, nhưng giờ đây biết rồi thì tôi lại không thích nữa.”

Nemur nói: “Ở đây chẳng có ai trêu chọc anh hết, Charlie à.”

“Thế còn những vết mực thì sao? Lúc trước Burt bảo tôi là có hình ảnh ở trong vết mực và mọi người ai cũng thấy cả, còn tôi…”

“Nghe
này Charlie. Anh có muốn nghe chính xác những lời Burt nói với anh, và
cả câu trả lời của anh không? Chúng tôi đã ghi âm buổi thử nghiệm đó.
Chúng tôi có thể mở lại và cho anh nghe từng lời trong đó.”

Tôi
cùng họ quay trở lại khoa tâm lý với nhiều cảm giác lẫn lộn. Tôi biết
chắc rằng họ trêu chọc tôi và lừa gạt tôi lúc tôi còn quá ngây ngô,
chẳng biết gì. Cơn giận của tôi là một cảm giác thú vị, và tôi không dễ
dàng từ bỏ nó. Tôi đã sẵn sàng để chiến đấu.

Khi Nemur đến tủ hồ
sơ để lấy cuốn băng, Burt giải thích: “Lần trước, tôi dùng những từ gần
giống như hôm nay. Những cuộc thử nghiệm này đòi hỏi phải như thế để mỗi
lần thực hiện thì quy trình vẫn giống như nhau.”

“Khi nào nghe xong cuốn băng thì tôi mới tin lời anh.”

Họ
liếc nhìn nhau. Tôi cảm thấy máu lại dồn lên mặt tôi một lần nữa. Họ
đang cười nhạo tôi. Nhưng rồi tôi nhận ra những gì tôi vừa nói, và tự
thấy mình đã hiểu ra lý do của cái liếc nhìn. Họ không hề cười nhạo. Họ
biết những gì đang xảy ra với tôi. Tôi đã đạt đến một mức độ mới, giận
dữ và nghi ngờ là những phản ứng đầu tiên của tôi đối với thế giới xung
quanh.

Giọng của Burt vang lên từ máy ghi âm:

“Giờ thì tôi
muốn anh nhìn vào tấm bìa này, Charlie. Nó có thể giống cái gì? Anh nhìn
thấy gì trên tấm bìa này? Mọi người nhìn thấy đủ thứ qua những vết mực
này. Hãy nói tôi nghe nó khiến anh nghĩ tới điều gì…?”

Cũng những
từ ấy, cũng cái giọng ấy mấy phút trước anh ta mới nói trong phòng thí
nghiệm. Và tôi nghe thấy câu trả lời của mình – những điều trẻ con và
quá quắt. Và tôi buông mình đánh phịch xuống chiếc ghế bên cạnh bàn của
giáo sư Nemur. “Thực sự đấy là tôi ư?”

Tôi trở lại phòng thí
nghiệm với Burt, và chúng tôi tiếp tục tiến hành thử nghiệm Rorschach.
Chúng tôi chậm rãi xem từng tấm bìa một. Lần này thì phản ứng của tôi đã
khác hẳn. Tôi “nhìn thấy” mọi thứ trong các vết mực. Một cặp dơi đang
giằng kéo với nhau. Hai người đàn ông đang đấu kiếm. Tôi tưởng tượng ra
đủ thứ. Nhưng dù cho có như vậy đi nữa thì tôi nhận thấy mình chẳng còn
hoàn toàn tin tưởng Burt như trước nữa. Tôi cứ lật đi lật lại các tấm
bìa, kiểm tra mặt sau của chúng xem có điều gì mà tôi cần phải tìm kiếm
nữa không.

Tôi lén nhìn trộm khi anh ta đang ghi chép lại. Nhưng chúng được viết bằng một thứ mật mã trông thế này:

WF + A DdF-Ad orig. WF-A + obj

Cuộc
thử nghiệm vẫn tỏ ra vô nghĩa. Đối với tôi, dường như ai cũng có thể
bịa đặt ra những thứ mà anh ta không hề nhìn thấy thực sự. Làm thế nào
mà họ biết được là tôi không lỡm họ bằng cách nói những điều mà tôi
không hề tưởng tượng được ra nhỉ?

Có lẽ tôi sẽ hiểu điều này khi
bác sĩ Strauss cho phép tôi đọc sách tâm lý học. Càng ngày, việc ghi lại
tất cả những suy nghĩ và cảm giác của bản thân càng trở nên khó khăn
đối với tôi bởi vì tôi biết rằng mọi người sẽ đọc chúng. Có lẽ sẽ tốt
hơn nếu tôi giữ một số báo cáo cho riêng mình một thời gian. Tôi sẽ hỏi
bác sĩ Strauss về chuyện này. Tại sao mọi chuyện lại đột ngột làm tôi
thấy phiền phức chứ?

Báo cáo nội dung xấu