Đời ảo - Chương 01 - 02
Cuốn sách này dành cho Henry: anh trai và cố vấn, và cũng như
mọi khi, dành cho hai người phụ nữ trong cuộc đời tôi: vợ tôi, Michele
và con gái tôi, Emma.
PHẦN 1
DÀN XẾP
Dàn xếp:
Thuật ngữ của CIA bắt nguồn từ thời Chiến tranh lạnh, chỉ một người
phải thỏa hiệp hoặc bị hăm dọa buộc thực hiện mệnh lệnh của Tổ chức.
- Từ điển tình báo
1
Cho
tới khi mọi chuyện xảy ra, tôi không hề tin vào lời người xưa rằng bạn
nên cẩn thận với điều mình mong ước, bởi bạn có thể sẽ toại nguyện.
Giờ tôi tin rồi.
Giờ
tôi tin vào tất cả những câu tục ngữ răn dạy đó. Tôi tin rằng kiêu ngạo
dẫn tới thất bại. Tôi tin rằng lá rụng về cội, rằng họa vô đơn chí,
rằng chớ thấy sáng mà ngỡ là vàng, rằng cây kim trong bọc lâu ngày cũng
lòi ra. Trời ạ, cứ kể thêm đi. Tôi tin hết.
Tôi có thể nói với bạn
rằng mọi chuyện bắt đầu từ một hành động hào phóng, nhưng như thế không
phải lắm. Là một hành động ngu xuẩn thì đúng hơn. Cứ gọi nó là tiếng
cầu cứu. Có lẽ giống việc giơ ngón tay giữa lên hơn. Dù là gì đi nữa thì
đó cũng là lỗi của tôi. Tôi nửa nghĩ rằng mình sẽ thoát vụ này, nửa chờ
mình sẽ bị đuổi việc. Phải nói rằng khi nhìn lại cách mọi việc bắt đầu,
tôi tự thấy sửng sốt trước sự kiêu căng ngu xuẩn của mình. Tôi không
phủ nhận mình đáng bị như vậy. Chỉ là không như những gì tôi mong đợi -
nhưng ai lại mong đợi những điều như thế này chứ?
Tất cả những gì
tôi làm là gọi vài cuộc điện thoại. Mạo nhận làm Phó Chủ tịch ban Sự
kiện tập đoàn và gọi tới nhà tổ chức sự kiện ngoài trời lừng danh đã tổ
chức tất cả các buổi tiệc tùng của hãng Viễn thông Wyatt. Tôi bảo họ chỉ
cần tổ chức hệt như vụ giải thưởng Người bán hàng của năm mà họ vừa làm
tuần trước là được. (Dĩ nhiên tôi không biết nó xa xỉ tới cỡ nào.) Tôi
đưa họ tất cả những số liệu giải ngân chính xác, đồng ý chuyển tiền
trước. Mọi chuyện dễ dàng đến kinh ngạc.
Ông chủ của Bữa ăn Huy
hoàng bảo tôi rằng ông ta chưa bao giờ tổ chức vụ gì trên sân xếp dỡ của
công ty, và điều này là sự “thách thức về trang trí”, nhưng tôi biết
ông ta sẽ không thể quay lưng lại với tờ séc lớn của hãng Viễn thông
Wyatt.
Không hiểu sao tôi ngờ rằng Bữa ăn Huy hoàng cũng chưa từng tổ chức bữa tiệc nghỉ hưu nào cho một Phó Quản đốc.
Tôi
nghĩ đó mới là điều thực sự khiến Wyatt nổi giận. Trả tiền cho tiệc về
hưu của Jonesie - một lão công nhân xếp dỡ, Lạy Chúa! - là vi phạm trật
tự tự nhiên. Thay vì thế, nếu tôi đem tiền đi trả cho một chiếc Ferrari
360 Modena mui trần, Nicholas Wyatt hẳn đã hiểu được. Ông ta hẳn sẽ nhìn
nhận sự tham lam của tôi như bằng chứng về những thói phàm cả hai cùng
có, như say mê rượu, hay “đĩ điếm” như cách ông ta vẫn gọi đàn bà.
Nếu biết trước chuyện này sẽ kết thúc như thế nào, liệu tôi có làm không? Chết tiệt, không.
Dù
sao thì tôi cũng phải nói là nó khá tuyệt. Tôi muốn nói về việc bữa
tiệc của Jonesie đã được trả từ quỹ dành riêng cho những hoạt động
“ngoài lề” của Chủ tịch Hội đồng Quản trị và các Phó Chủ tịch cấp cao ở
khu nghỉ mát Guanahani trên đảo St. Barthélemy và cho những thứ đại loại
thế.
Tôi cũng thích được nhìn cảnh những gã bốc dỡ cuối cùng cũng
được nếm mùi lối sống của đám lãnh đạo. Hầu hết vợ chồng bọn họ, những
người thấy Tiệc Tôm ở quán Tôm Hùm Đỏ hay món Sườn Barbie ở quán nướng
Hoang Dã đã khá là phung phí rồi, chẳng biết phải làm gì với mấy món kỳ
lạ, như trứng cá osetra muối và thịt lưng bê Provencal. Nhưng họ ngốn
ngấu lườn bò tẩm bột, sườn cừu, tôm hùm nướng kèm với mì ravioli. Mấy
hình điêu khắc bằng băng rất được chú ý. Rượu sâm banh Dom Perignon rót
tới tấp, và bia Budweiser còn ào ạt hơn. (Tôi gọi thứ này rất đúng, vì
thường các buổi chiều thứ Sáu, trong khi tôi vừa hút thuốc vừa loanh
quanh trong khu bốc dỡ, sẽ có ai đó, thường là Jonesie hay đốc công
Jimmy Connolly mang tới cả bom Budweiser lạnh để ăn mừng vì một tuần nữa
đã kết thúc.)
Jonesie vui cả tối. Đó là người đàn ông luống tuổi
với khuôn mặt ngượng nghịu dãi dầu sương gió có thể khiến người khác vừa
mới gặp đã thấy thích ngay. Vợ ông, Esther, bốn mươi hai tuổi, mới nhìn
thì có vẻ khó gần, nhưng hóa ra lại nhảy giỏi không ngờ. Tôi đã thuê cả
một nhóm nhảy Reggae Jamaica tuyệt vời, và ai cũng tham gia, thậm chí
cả những người không ai ngờ là sẽ nhảy.
Dĩ nhiên chuyện này xảy ra
sau cuộc suy thoái lớn của ngành công nghệ, các công ty ở khắp mọi nơi
sa thải nhân sự và ban hành chính sách “tiết kiệm”, có nghĩa là bạn phải
tự trả tiền cho thứ cà phê dở tệ, không còn Coca-cola miễn phí trong
phòng giải lao, và đại loại như vậy. Vào một chiều thứ Sáu, Jonesie bị
cho thôi việc, mất vài giờ để ký giấy tờ ở phòng Nhân sự và sẽ ở nhà cả
quãng đời còn lại, không còn tiệc tùng, không còn gì cả. Trong lúc ấy,
ban điều hành của hãng Viễn thông Wyatt đang chuẩn bị bay tới đảo St.
Bart bằng máy bay riêng hiệu Learjet, phang vợ hay bồ bọn họ ở biệt thự
riêng, thoa đẫm dầu dừa lên những ngấn bụng và bàn chính sách tiết kiệm
quy mô công ty trong bữa sáng tự chọn xa xỉ có cả đu đủ và lưỡi chim
ruồi. Jonesie và bạn bè ông không dò hỏi nhiều lắm về chuyện ai đã trả
tiền. Nhưng nó vẫn khiến tôi thầm cảm thấy sung sướng ít nhiều.
Cho
tới khoảng một giờ ba mươi sáng, hẳn là tiếng ghi ta điện và tiếng la ó
của vài thanh niên say mèm đã khơi dậy sự tò mò của một nhân viên an
ninh, rõ ràng là mới được thuê (tiền lương thì tệ hại, tốc độ thay người
thì nhanh không tin nổi), gã này không biết ai trong chúng tôi và không
hề có ý định nhẹ tay cho bất cứ ai.
Hắn béo lùn với khuôn mặt
hồng hào, giông giống chú lợn hoạt hình Porky, chỉ khoảng ba mươi tuổi.
Hắn cứ nắm chặt lấy máy bộ đàm như thể nó là khẩu Glock mà nói: “Chuyện
quái gì thế này?”
Và cuộc sống quen thuộc của tôi đã chấm dứt.
2
Tin nhắn thoại đã đợi sẵn khi tôi tới chỗ làm, vẫn muộn như thường lệ.
Thật
ra là thậm chí còn muộn hơn thường lệ. Người tôi nôn nao, đầu nhức như
búa bổ và tim đập quá nhanh do cốc cà phê rẻ tiền to đùng tôi đã nốc
trên xe điện ngầm. Một làn sóng a xít trào lên trong dạ dày tôi. Tôi đã
định báo ốm, nhưng giọng nói sáng suốt nhỏ bé trong đầu tôi bảo rằng sau
những chuyện đêm qua, khôn ngoan hơn cả là chường mặt tới công ty và
sẵn sàng chịu trận.
Vấn đề là tôi hoàn toàn nghĩ mình sẽ bị đuổi
việc - gần như là chờ đợi điều đó, cũng như khi ta vừa sợ hãi vừa mong
đợi được khoan cái răng sâu. Khi tôi ra khỏi thang máy và đi nửa dặm qua
bốn mươi lô làm việc để tới chỗ của mình, tôi thấy những cái đầu ngẩng
lên, dáng như chó sói, để liếc nhìn tôi. Tôi đã nổi tiếng, chuyện lộ ra
rồi. Chắc chắn e-mail đang bay tá lả.
Mắt tôi ngầu đỏ, tóc rối tung, trông tôi giống như điểm dịch vụ công cộng biết đi HÃY NÓI KHÔNG.
Màn
hình LCD nhỏ của chiếc điện thoại IP hiện dòng chữ, “Bạn có mười một
tin nhắn thoại.” Tôi bật loa và lướt qua chúng. Chỉ cần nghe những tin
nhắn, điên rồ có, chân thành có, nịnh bợ có, cũng làm tôi tăng nhãn áp.
Tôi lôi lọ Advil từ đáy ngăn kéo dưới cùng ra và nuốt khan hai viên. Thế
là đã sáu viên Advil sáng nay, vượt quá mức tối đa được phép. Vậy
chuyện gì có thể xảy ra với tôi? Chết vì quá liều thuốc chống viêm không
steroid ngay trước khi bị đuổi việc?
Tôi là quản lý sơ cấp của
dòng sản phẩm thiết bị định tuyến trong Bộ phận Kinh doanh. Bạn không
muốn nghe giải nghĩa đâu, nó buồn tẻ đến mức tê liệt cả đầu óc. Suốt
ngày tôi phải nghe những cụm từ như “dịch vụ mô phỏng mạch băng thông
rộng”, “thiết bị truy cập tích hợp”, “mạng xương sống ATM”, “giao thức
đường hầm bảo mật IP”, và tôi thề tôi chẳng biết một nửa trong số chúng
nghĩa là gì.
Tin nhắn từ một gã thuộc bộ phận Bán hàng tên
Griffin, thường gọi tôi là “ông lớn”, khoe khoang mình đã bán được mấy
chục thiết bị định tuyến do tôi quản lý bằng cách cam đoan với khách
hàng rằng họ sẽ có thêm tính năng đặc biệt - giao thức phát đa phương
cho truyền hình trực tiếp - mà hắn biết quá rõ rằng còn khuya mới có.
Nhưng nếu tính năng đó được thêm vào sản phẩm trước hạn giao hàng, có
thể trong hai tuần tới chăng, thì tốt quá. Phải rồi, cứ mơ đi.
Sau
đó năm phút là cuộc gọi tiếp theo từ sếp của Griffin để “kiểm tra tiến
độ về giao thức phát đa phương chúng tôi nghe nói các anh đang thực
hiện”, cứ như thể tôi là người làm mấy việc kỹ thuật ấy vậy.
Và
một giọng gãy gọn, đầy quyền lực của người có tên là Arnold Meacham, cho
biết mình là Giám đốc An ninh Tập đoàn và mời tôi “ghé qua” văn phòng
ngay khi tôi đến.
Ngoài chức vụ ra thì tôi không biết tí gì về
thằng cha Arnold Meacham này. Tôi chưa bao giờ nghe tên hắn. Tôi thậm
chí còn không biết phòng An ninh Tập đoàn nằm ở đâu.
Thật buồn
cười: khi tôi nghe tin nhắn, tim tôi không đập nhanh như bạn chắc phải
nghĩ đâu. Thực ra nó còn chậm lại ấy chứ, cứ như là cơ thể tôi biết đã
đến lúc rồi. Thật sự là có thứ gì đó rất Thiền đang diễn ra, sự bình
thản nội tại vì nhận ra rằng dù sao cũng chẳng làm gì được. Tôi gần như
còn tận hưởng giây phút ấy.
Trong vài phút, tôi trân trối nhìn ván
tường lô của mình, vải Avora sần màu than giống như lớp phủ sàn trong
căn hộ của bố tôi. Tôi để mặt ván tường trống, không có dấu hiệu nào của
con người - không ảnh vợ và con cái (dễ thôi, vì tôi chưa có), không
truyện tranh trào phúng công sở Dilbert, không thứ gì khéo léo hay lộ
liễu thể hiện rằng tôi miễn cưỡng làm ở đây, vì với tôi nói miễn cưỡng
vẫn còn là nhẹ. Tôi có một giá sách đựng cuốn hướng dẫn tra cứu về giao
thức định tuyến và bốn cặp bìa đen dày cộp đựng “thư viện tính năng” cho
thiết bị định tuyến MG-50K. Tôi sẽ không luyến tiếc lô làm việc này
đâu.
Hơn nữa, đâu phải tôi sắp bị bắn; tôi cho rằng tôi đã bị bắn
rồi. Giờ chỉ còn lại việc vứt xác và lau sạch máu. Tôi nhớ hồi ở trường
cao đẳng đã có lần tôi đọc về máy chém trong lịch sử Pháp và cách mà một
tên đao phủ, cũng là bác sĩ nội khoa, thử làm một thí nghiệm khủng
khiếp (tôi nghĩ là bạn sẽ sốc đấy). Vài giây sau khi đầu bị chặt đứt,
hắn quan sát mắt và môi co giật cho tới khi mi mắt khép lại và mọi thứ
ngừng hẳn. Rồi hắn gọi to tên người chết, và đôi mắt trên cái đầu đã đứt
lìa bật mở trân trối nhìn người hành quyết. Vài giây sau, mắt lại nhắm
lại, rồi ông bác sĩ gọi tên lần nữa, và đôi mắt lại mở trừng trừng. Dễ
thương chưa. Vậy là ba mươi giây sau khi lìa khỏi cổ, đầu vẫn có phản
ứng. Tôi cũng cảm thấy như vậy. Lưỡi dao chém xuống rồi, và họ đang gọi
tên tôi.
Tôi nhấc điện thoại gọi tới văn phòng của Arnold Meacham, bảo trợ lý của hắn rằng tôi đang đến, và hỏi đường tới đó.
Cổ
họng khô khốc nên tôi dừng ở phòng giải lao để lấy một cốc soda
trước-thì-miễn-phí-giờ-thì-nửa-đô. Phòng giải lao ở tít phía sau, giữa
tầng, gần khu thang máy, và khi tôi bước vào, trong trạng thái nửa tỉnh
nửa mê kỳ quặc, một vài đôi cùng là đồng nghiệp nhìn thấy tôi và vội
quay đi bối rối.
Tôi nhìn các chai soda lấm tấm nước và quyết định
không chọn Diet Pepsi như mọi khi - tôi thực sự không cần thêm cafein
lúc này - mà lôi ra một chai Sprite. Tôi không bỏ tiền vào bình để thể
hiện thái độ chống đối. Chà, cho chúng nó biết tay. Tôi mở nắp và hướng
về thang máy.
Tôi ghét công việc của mình, thực sự ghê tởm nó, và
vì vậy ý nghĩ sắp mất việc không hẳn làm tôi suy sụp lắm. Mặt khác, cũng
không hẳn là tôi có quỹ ủy thác và chắc chắn là tôi vẫn cần tiền chứ.
Điểm cốt yếu là đó, không phải sao? Tôi chuyển về đây chủ yếu là để giúp
trả chi phí y tế cho bố tôi - bố tôi, người coi tôi là đồ bỏ đi. Ở
Manhattan làm nghề pha chế rượu, thu nhập của tôi chỉ bằng một nửa nhưng
sống tốt hơn. Chúng ta đang nói tới Manhattan đấy! Còn ở đây tôi sống
trong căn hộ nhỏ, tồi tàn như cái ổ chuột trên phố Pearl luôn sặc mùi
tắc nghẽn giao thông, với những ô cửa sổ rung lách cách khi xe tải rầm
rầm chạy qua vào năm giờ sáng. Phải công nhận là tôi có thể đi bù khú
với bạn bè vài đêm một tuần, nhưng thường thì thế nào tôi cũng phải tiêu
kịch trần hạn mức tín dụng trong tài khoản chi phiếu khoảng một tuần
trước khi tờ chi phiếu trả lương thần kỳ hiện ra vào ngày mười lăm hàng
tháng.
Nói như thế không có nghĩa là tôi làm việc cật lực. Chỉ
làng nhàng thôi. Tôi làm đủ số giờ cần thiết tối thiểu, đi muộn và về
sớm, nhưng tôi làm được việc. Các con số thể hiện thành tích của tôi
không tốt lắm - tôi là “người đóng góp nòng cốt”, nhóm hai, chỉ một bậc
trên “người đóng góp thấp nhất” khi mà bạn nên bắt đầu gói ghém đồ đạc
là vừa.
Tôi vào thang máy, nhìn xuống những thứ mình đang mặc - quần jeans đen và áo polo xám, giày đế mềm - và ước gì mình đeo cà vạt.