Đời ảo - Chương 26 - 27
26
Chiều thứ Bảy, tôi mặc đồ quần vợt
trắng (tôi vừa mua buổi sáng - thường thì tôi mặc quần lửng tả tơi và áo
phông mà chơi), đeo đồng hồ Ý đắt đến lố bịch mà tôi vừa vung tiền mua
gần đây, và đến một nơi rất phô trương và riêng biệt có tên là Câu lạc
bộ Tennis và Quần vợt sân tường. Alana Jennings là thành viên của câu
lạc bộ này, và theo hồ sơ thì hầu như thứ Bảy nào cô ta cũng chơi ở đây.
Tôi đã xác nhận lại thời gian ra sân của cô ta bằng cách gọi tới đây
ngày hôm qua và bảo mình đáng lẽ ra có trận đấu ngày mai với cô ta,
nhưng quên giờ và không liên lạc được, không biết là mấy giờ nữa? Thật
dễ dàng. Cô ta có một trận đấu đôi vào lúc bốn giờ ba mươi.
Nửa
tiếng trước khi đến trận đấu của cô ta, tôi gặp người quản lý thành viên
của câu lạc bộ và được dẫn đi xem qua nơi này. Cũng phải mất ít công
sức, bởi đây là câu lạc bộ kín; bạn không thể cứ thế từ ngoài đường bước
vào được. Tôi đã bảo Arnold Meacham nhờ Wyatt sắp xếp cho một gã giàu
có nào đó là thành viên câu lạc bộ - một người bạn của một người bạn của
một người bạn, lùi lại vài mức độ như thế từ Wyatt - liên hệ với câu
lạc bộ và bảo lãnh cho tôi. Gã đó nằm trong Ban Hội viên, và rõ ràng là
tên tuổi của hắn cũng có trọng lượng trong câu lạc bộ, bởi vì Josh, tay
Giám đốc Hội viên, xem ra rất vui được dẫn tôi đi xem. Hắn thậm chí còn
cho tôi vé vào cửa trong ngày dành cho khách để tôi có thể xem các sân
đấu (sân đất nện nhé, cả trong nhà và bên ngoài), có thể vào một trận
đấu nào đó nữa.
Chỗ này là một ngôi nhà theo phong cách kiến trúc
Shingle trải dài, trông giống như “biệt thự nông thôn” ở Newport. Nó nằm
giữa một bãi cỏ được cắt xén hoàn hảo như mặt biển màu lục bảo. Tôi
cuối cùng cũng dứt được Josh ra ở quán cà phê nhờ giả vờ vẫy tay với ai
đó tôi quen. Hắn bảo sẽ sắp xếp cho tôi một séc đấu, nhưng tôi bảo không
cần, tôi quen mọi người ở đây, tôi sẽ ổn thôi.
Vài phút sau tôi
thấy cô ta. Bạn không thể không thấy cô em này được. Cô ta mặc áo hãng
Fred Perry, và có bộ ngực đầy đặn (chả biết tại sao mà mấy bức ảnh theo
dõi không thể hiện được điều đó lắm). Đôi mắt xanh lấp lánh. Cô ta vào
quán cà phê với một người phụ nữ khác trạc tuổi mình và gọi Pellegrino
cho cả hai. Tôi lấy một bàn gần cô ta, nhưng không quá sát và ở đằng sau
ngoài tầm mắt. Cái tôi cần là quan sát, nhìn kỹ, lắng nghe và quan
trọng nhất là không bị thấy. Nếu Alana để ý tôi thì lần sau muốn la cà
xung quanh là mệt đấy. Tôi chẳng phải là Brad Pitt, nhưng cũng chẳng xấu
xí lắm; phụ nữ thường hay để ý đến tôi. Tôi phải cẩn thận.
Tôi
không nói được người phụ nữ Alana Jennings đi cùng là hàng xóm hay bạn
đại học hay gì nữa, nhưng họ rõ ràng không nói chuyện công việc với
nhau. Dễ đoán được rằng họ không làm cùng nhau trong đội AURORA. Thật
không may mắn - tôi sẽ không nghe được cái gì hay ho cả.
Nhưng rồi
điện thoại di động của cô ta đổ chuông. “Alana nghe đây,” cô ta nói.
Giọng mượt như nhung, êm dịu như ở trường tư, có học thức mà không giả
tạo.
“Thật à?” Alana nói. “Chà, có vẻ anh giải quyết được nó rồi.”
Tai tôi dỏng lên.
“Keith, anh vừa cắt giảm thời gian đi được phân nửa đấy, thật tuyệt vời.”
Chắc
chắn cô ta đang nói chuyện công việc. Tôi dịch đến gần hơn một chút để
nghe rõ hơn. Phòng ồn ào tiếng cười, tiếng đĩa leng keng và tiếng bóng
tennis thịch thịch, làm cho phần lớn những gì cô ta nói rất khó
nghe. Ai đó va vào bàn tôi, một gã to con béo bụng, làm ly Coke của tôi
rung lên. Hắn cười to, làm mất phần lớn cuộc nói chuyện của Alana. Biến đi, thằng khốn.
Hắn
núng nính đi mất, và tôi lại nghe được thêm chút ít nữa. Giờ cô ta đang
nói thì thầm, và chỉ vài mẩu ngẫu nhiên lọt về phía tôi. Tôi nghe thấy
cô ta nói: “... ờ, đó là câu hỏi sáu-mươi-tư-tỷ-đô, phải không
nào? Giá mà tôi biết được.” Rồi to hơn một chút. “Cảm ơn cho tôi biết
nhé - nghe hay đấy.” Một tiếng bíp nhỏ và cuộc gọi kết thúc. “Công
việc,” cô ta phân trần với người phụ nữ kia. “Xin lỗi nhé. Tớ ước gì tắt
nó đi được, nhưng mấy ngày nay tớ phải giữ điện thoại bật liên tục.
Drew kia rồi!” Một thằng cao to đến chỗ họ - khoảng ba mươi, da màu
đồng, cơ thể to bè như người chèo thuyền - và hôn lên má cô ta. Tôi để ý
thấy hắn không hôn người phụ nữ còn lại.
“Chào em,” hắn nói.
Hay thật, tôi nghĩ. Bọn người của Wyatt đã bỏ qua chi tiết Alana rốt cuộc cũng đang hẹn hò ai đó.
“Chào Drew,” cô ta đáp. “George đâu?”
“Cậu ấy không gọi em à?” Drew hỏi. “Cái thằng lơ đễnh. Cậu ta quên là mình phải đi với con gái cuối tuần này.”
“Thế chúng ta không có người thứ tư à?” người phụ nữ kia nói.
“Tìm ai đó vào vậy,” Drew bảo. “Anh không tin nổi cậu ta không gọi cho em. Đúng là thằng nhút nhát.”
Một
bóng đèn bừng sáng trong đầu tôi. Đột nhiên vứt bỏ kế hoạch làm người
quan sát vô danh mà tôi đã lên một cách cẩn thận, tôi ra quyết định táo
bạo chỉ trong nửa giây. Tôi đứng lên và lên tiếng. “Xin lỗi.”
Họ nhìn về phía tôi.
“Các anh chị cần người thứ tư đúng không?” tôi nói.
Tôi
giới thiệu mình bằng tên thật, bảo họ tôi đang xem qua nơi này. Tôi
không nhắc tới Trion. Họ có vẻ nhẹ người vì tìm được tôi. Tôi nghĩ họ
nhìn cái vợt ti tan chuyên nghiệp hiệu Yonex của tôi và nghĩ là tôi rất
khá, dù tôi bảo họ rằng mình chỉ tầm tầm thôi, và lâu rồi tôi chưa chơi.
Căn bản thì đúng thế.
Chúng tôi chọn một sân ở ngoài trời. Ngày
hôm nay nắng đẹp và ấm áp, hơi có chút gió. Alana và Drew ở một đội, tôi
cùng người phụ nữ kia ở một đội, tên cô ta là Jody. Jody và Alana khả
năng ngang nhau, nhưng Alana có dáng chơi uyển chuyển hơn. Cô ta không
hẳn là tấn công dữ dội, nhưng có cú đánh trái tay tốt, liên tục trả
bóng, liên tục đón bóng, không có di chuyển nào thừa. Giao bóng đơn giản
và chính xác: luôn luôn qua lưới. Kiểu chơi của cô ta thật tự nhiên, cứ
như là hít thở vậy.
Thật không may, tôi lại đánh giá thấp Ngài
Đẹp Trai. Hắn chơi rất tốt. Ban đầu tôi chơi không vững, khá gượng gạo,
và hai lần giao hỏng quả đầu, khiến Jody khó chịu ra mặt. Dù vậy, tôi
lấy lại phong độ khá nhanh. Trong khi đó, Drew chơi như thể mình đang
chơi trong giải quần vợt Wimbledon của Anh vậy. Tôi càng lấy lại phong
độ, hắn càng chơi tấn công, tới mức nó trở nên lố bịch. Hắn bắt đầu tiến
đến sát lưới, lấn lên phía trước sân để đón những quả đáng lẽ dành cho
Alana, đúng là bám dính lấy bóng. Bạn có thể thấy cô ta nhăn mặt với
hắn. Tôi bắt đầu cảm nhận được giữa họ có chuyện gì đó - căng thẳng dâng
cao.
Đang diễn ra ở đây là cả một chuyện khác - trận đấu của hai
con đầu đàn. Drew bắt đầu giao bóng thẳng vào tôi, đánh rất mạnh, đôi
khi quá xa. Dù giao bóng nhanh dữ dội, hắn lại không điều khiển bóng
tốt, rồi hắn và Alana dần thua. Lúc sau tôi cũng tóm được đuôi hắn, đoán
được hắn sẽ lấn sân, tôi ngụy trang cú đánh bóng của mình và đánh về
phía sau hắn. Ngài Đẹp Trai đã bấm phải cái nút ganh đua cũ trong tôi.
Tôi muốn đặt hắn về đúng vị trí. Tôi muốn người đàn bà của gã nguyên
thủy đó. Chẳng mấy chốc tôi đổ mồ hôi. Tôi nhận ra mình đang chơi quá
hăng say, quá công kích trong cuộc đấu chủ yếu là xã giao này; không hợp
lý lắm. Vì vậy tôi chùng xuống và chơi kiên nhẫn hơn, giữ bóng trên
không, để Drew tự mắc phải sai lầm.
Drew tới lưới và bắt tay tôi
khi hết trận. Rồi hắn vỗ vào lưng tôi. “Anh chơi cơ bản giỏi lắm,” hắn
nói bằng giọng điệu thân mật giả tạo.
“Anh cũng vậy,” tôi nói.
Hắn nhún vai. “Tôi phải lo phần lớn sân.”
Alana nghe được và đôi mắt xanh ánh lên vẻ khó chịu. Cô ta quay sang tôi. “Anh có thời gian đi uống chút gì đó không?”
Chỉ
có Alana và tôi ở dưới “mái hiên”, cách họ gọi khu sàn gỗ lớn nhìn ra
các sân chơi. Jody đã kiếm cớ bảo mình phải đi, nhận ra trong cách nói
bóng gió gì đó của phụ nữ là Alana không muốn đi cả nhóm. Rồi Drew thấy
chuyện gì đang diễn ra và cũng tìm cớ đi nốt, dù không hòa nhã được như
thế.
Cô phục vụ đến và Alana bảo tôi chọn trước, cô ta còn chưa
quyết định được mình muốn gì. Tôi gọi một ly Tanqueray Malacca G &
T. Cô ta giật mình liếc nhìn tôi, chỉ trong một giây ngắn ngủi rồi lấy
lại bình tĩnh ngay.
“Tôi cũng gọi như thế,” Alana nói.
“Em
sẽ đi xem bọn em có loại đó không,” cô bé phục vụ, một học sinh trung
học tóc vàng cột kiểu đuôi ngựa, nói. Một vài phút sau cô bé mang đồ
uống quay lại.
Chúng tôi nói chuyện một lúc, về câu lạc bộ, về các
thành viên (cô ta gọi họ là “hợm hĩnh”), về sân chơi (“những sân tốt
nhất quanh đây từ trước tới giờ”), nhưng cô ta quá sành điệu để hỏi han chuyện buồn chán anh-làm-nghề-gì.
Alana không nhắc tới Trion, và tôi cũng vậy. Tôi bắt đầu thấy sợ đến
phần đó của cuộc nói chuyện, không biết tôi sẽ phải làm thế nào để lấp
liếm đi sự trùng hợp kỳ lạ rằng chúng tôi đều làm việc ở Trion, và này, em từng làm đúng cái việc tôi đang
làm đấy nhé! Tôi không thể tin nổi mình lại tự nguyện chơi cùng với họ,
tự nhảy đúng vào quỹ đạo của cô ta thay vì ẩn mình không gây chú ý.
Thật tốt là chúng tôi chưa bao giờ thấy nhau ở nơi làm việc. Tôi tự hỏi
có phải những người trong AURORA đi bằng cổng riêng không. Dù sao thì
rượu gin bốc lên đầu rất nhanh, và hôm nay là ngày nắng đẹp, và cuộc nói
chuyện thật trôi chảy.
“Tôi xin lỗi vì Drew lại quá khích như thế,” Alana nói.
“Cậu ta chơi tốt lắm.”
“Anh ấy cũng quá đáng quá. Anh là mối đe dọa. Hẳn mấy chuyện đàn ông. Chiến đấu bằng vợt.”
Tôi
cười. “Giống như trong một câu của Ani DiFranco, không biết em biết
không? ‘Vì tất cả mọi công cụ đều là vũ khí nếu bạn biết dùng nó đúng
cách.’ ”
Mắt cô ta sáng bừng lên. “Chính xác! Anh cũng nghe Ani à?”
Tôi nhún vai. “ ‘Khoa học đuổi bắt tiền bạc, và tiền bạc đuổi bắt chính mình...’ ”
“ ‘Và những trí óc ưu tú nhất của thế hệ tôi không thể bảo lãnh’,” cô ta đọc nốt. “Nam giới không nhiều người thích Ani.”
“Vậy chắc tôi là anh chàng nhạy cảm.” Tôi tỏ vẻ thản nhiên.
“Chắc vậy. Chúng ta thỉnh thoảng đi đâu chơi đi,” Alana nói. Tôi nghe đúng không vậy? Có phải cô ta vừa mời tôi đi chơi không?
“Hay đấy,” tôi nói. “Thế em thích đồ ăn Thái không?”
27
Tôi
tới nhà bố trong tâm trạng vui vẻ sau cuộc hẹn hò nho nhỏ với Alana
Jennings đến mức tôi tưởng như mình đang mặc áo giáp. Giờ thì chẳng có
gì ông nói hay làm có thể khiến tôi bận tâm được.
Vừa bước lên nền
gỗ nứt nẻ của bậc thềm, tôi đã nghe tiếng họ cãi nhau - giọng the thé,
oang oác nghèn nghẹn của bố tôi, càng lúc càng giống chim hơn, và giọng
trả lời ầm ầm, trầm và âm vang của Antwoine. Tôi thấy họ trong phòng tắm
ở tầng một, căn phòng tràn đầy hơi nước cuồn cuộn bốc lên từ máy hóa
hơi. Bố tôi đang nằm sấp mặt xuống ghế dài, cả đống gối dưới đầu và ngực
đỡ ông lên. Antwoine đang xoa bóp tấm lưng trần của ông bằng đôi bàn
tay to bè, áo y tá xanh nhạt sũng nước. Anh ngước lên khi tôi mở cửa
phòng.
“Chào Adam.”
“Thằng chó đẻ này đang cố giết tao,” bố rít lên.
“Đây
là cách làm đờm trong phổi ông lỏng ra,” Antwoine nói. “Thứ của nợ đó
đóng nhờn nhợt lại vì chỗ lông mao bị hỏng đấy.” Anh tiếp tục công việc,
gây ra tiếng đập nhẹ. Lưng bố nhợt nhạt ốm yếu, trắng như tờ giấy,
chùng và rũ xuống. Dường như không có tí cơ bắp nào. Tôi vẫn còn nhớ
lưng bố từng trông như thế nào lúc tôi còn nhỏ: cơ bắp, gân guốc, trông
đến phát sợ. Đây là da dẻ của một ông già, và tôi ước là mình chưa trông
thấy.
“Thằng khốn này nói dối tao,” bố nói, giọng nghẹn đi vì
đống gối. “Nó bảo tao chỉ đi tắm hơi thôi. Nó không nói nó sẽ đập tao
nứt cả đống xương sườn chết tiệt. Chúa ạ, tao phải uống steroid, xương tao giòn tan, thằng da đen khốn kiếp!”
“Này bố,” tôi hét lên, “đủ rồi!”
“Tao không phải là con chó cái trong tù của mày, thằng da đen!”
Antwoine không phản ứng. Anh tiếp tục vỗ lên lưng bố tôi, đều đều và nhịp nhàng.
“Bố,” tôi nói, “người này to con và khỏe hơn bố nhiều. Con không nghĩ làm cậu ấy điên lên là hay đâu.”
Antwoine
ngước lên nhìn tôi với đôi mắt ngái ngủ và thích thú. “Này, ngày nào
trong tù tôi cũng phải xoay xở với bọn phân biệt chủng tộc Aryan Nation.
Cứ tin tôi đi, một lão què lắm miệng chẳng là gì đâu.”
Tôi nhăn mặt.
“Thằng chó đẻ khốn kiếp!” bố rít lên. Tôi để ý thấy ông không dùng từ “thằng da đen” nữa.
Lúc sau, bố lại được đặt ngồi trước ti vi, nối với máy sục khí, ống thông vào mũi.
“Vụ này không nên cơm cháo gì cả,” ông nói, cáu kỉnh với cái ti vi. “Mày thấy đống đồ ăn cho thỏ nó cho tao chưa?”
“Chúng
gọi là rau dưa hoa quả,” Antwoine nói. Anh ngồi trên ghế cách đó vài
bước. “Tôi biết ông ấy thích ăn gì - tôi thấy trong chạn rồi. Thịt bò
hầm của Dinty Moore trong hộp to, xúc xích Viên, xúc xích gan. Chà, tôi
còn ở đây thì không đâu. Ông cần ăn đồ ăn có lợi cho sức khỏe, Frank ạ,
tăng cường sức đề kháng cho ông. Ông bị cảm, ông sẽ mắc viêm phổi, phải
vào bệnh viện, rồi tôi biết làm gì bây giờ? Ông sẽ không cần đến tôi khi
ở trong bệnh viện.”
“Trời ạ.”
“Thêm nữa là không uống cô
ca. Phải bỏ thứ của nợ đó đi. Ông cần nước, làm giảm nước nhầy đi, không
có cafein. Ông cần kali, can xi vì dùng steroid.” Anh chọc chọc ngón
tay trỏ vào lòng bàn tay, cứ như thể mình là huấn luyện viên cho nhà vô
địch quyền anh thế giới hạng nặng vậy.
“Nếu muốn thì cứ đi mà làm thức ăn cho thỏ, nhưng tao không ăn đâu,” bố nói.
“Thế
thì ông chỉ tự giết mình thôi. Ông tốn năng lượng để thở gấp mười lần
người bình thường, vậy nên ông phải ăn, lấy sức lực, thêm chút cơ bắp,
đại loại thế. Ông mà tiêu tùng khi tôi đang chăm sóc, tôi không chịu
trách nhiệm đâu.”
“Làm như mày thực sự quan tâm vậy,” bố nói.
“Ông nghĩ tôi đến đây giúp ông chết à?”
“Tao nhìn thì có vẻ như thế đấy.”
“Nếu
tôi muốn giết ông, sao tôi phải chậm rãi mà làm chứ?” Antwoine nói.
“Trừ phi ông nghĩ tôi thấy chuyện này vui vẻ. Như là tôi thích chuyện chết tiệt này vậy.”
“Thật là bùng nổ ha?” tôi lên tiếng.
“Ồ
này, xem cái đồng hồ trên tay cậu ấy kìa?” Antwoine đột nhiên nói. Tôi
quên tháo chiếc Panerai ra. Có lẽ trong tiềm thức tôi nghĩ rằng nó thậm
chí không bắt mắt anh ta hay bố tôi. “Cho tôi xem với nào.” Anh bước tới
chỗ tôi, kinh ngạc xem nó. “Trời, cái đồng hồ này phải đáng giá năm
ngàn đô la ấy chứ.” Anh ta đoán gần đúng giá rồi. Tôi thấy xấu hổ - nó
nhiều hơn số tiền anh ta kiếm được trong hai tháng. “Đây là đồng hồ lặn
của Ý hả?”
“Ờ,” tôi vội vã đáp.
“Ôi trời, mày đang giỡn tao đấy à,” bố tôi nói, giọng như cái bản lề kẹt gỉ. “Khốn kiếp, tao không tin nổi.” Giờ thì ông cũng trân trân nhìn cái đồng hồ của tôi. “Mày bỏ ra năm nghìn đô cho một cái đồng hồ chết
tiệt? Đồ tồi! Mày biết tao phải mửa mật ra thế nào mới kiếm được năm
nghìn đô khi tao đang cho mày đi học không? Mày bỏ ra chừng ấy cho một
cái đồng hồ khốn kiếp?”
“Đó là tiền của con, bố à.” Rồi tôi yếu ớt nói thêm, “Đó là đầu tư.”
“Thôi đi, vì Chúa, mày nghĩ tao là thằng ngu à? Đầu tư gì chứ?”
“Bố
à, là thế này, con vừa được thăng tiến lớn. Giờ con làm ở Hệ thống
Trion và kiếm được gấp đôi mức lương làm ở Wyatt, thế được rồi chứ?”
Ông nhìn tôi buốt giá. “Chúng cho mày bao nhiêu tiền mà mày vứt đi năm nghìn chứ - Chúa ạ, tao nói không nổi nữa.”
“Họ trả cho con rất nhiều, bố ạ. Và nếu con muốn vứt tiền của mình đi, thì con sẽ vứt đi. Là con kiếm được cơ mà.”
“Mày
kiếm được,” ông mỉa mai nhại lại. “Cứ tự nhiên nếu có bất cứ khi nào
mày muốn trả lại tao số...” - ông lấy hơi - “Tao không biết tao đã đổ bao nhiêu vạn đô cho mày rồi nữa.”
Tôi
suýt thì nói thẳng ra tôi đã bỏ bao nhiêu tiền cho ông, nhưng tôi ngừng
lại kịp thời. Một thoáng thắng lợi không đáng. Thay vì thế tôi nói đi
nói lại với mình rằng, đây không phải là bố của mày đâu. Đây chỉ là một
phiên bản tranh biếm họa xấu xa của bố, được Hanna-Barbera chuyển thành
hoạt hình, bị thuốc prednisone và cả tá chất biến đổi tinh thần làm méo
mó không nhận ra nổi. Nhưng dĩ nhiên tôi biết điều đó không đúng lắm, và
đây thật ra vẫn là cùng một lão già khốn nạn, chỉ có điều âm đã được
vặn to lên vài nấc.
“Mày sống trong thế giới tưởng tượng,” bố tiếp
tục nói, rồi thở mạnh. “Mày nghĩ chỉ cần mày mua một bộ comlê hai nghìn
đô, giày năm trăm đô và đồng hồ năm nghìn đô là mày sẽ trở thành một
đứa trong bọn chúng phải không?” Ông lại hít một hơi. “Được
rồi, tao sẽ cho mày biết. Mày đang mặc bộ đồ Halloween chết tiệt, thế
thôi. Mày đang hóa trang. Tao nói thế với mày vì mày là con tao và sẽ
không ai khác nói thẳng vào mặt mày. Mày chẳng hơn gì con khỉ đột mặc
vét tuxedo.”
“Thế nghĩa là sao?” tôi lẩm bẩm. Tôi để ý thấy Antwoine đã ý tứ bước ra khỏi phòng. Mặt tôi đỏ lựng lên.
Ông
ấy chỉ là người bệnh thôi, tôi tự nhủ. Ông bị khí thũng ở giai đoạn
cuối. Ông đang chết dần. Ông không biết mình đang nói gì đâu.
“Mày
nghĩ sẽ có lúc mày trở thành một trong số chúng? Con ạ, mày thích nghĩ
thế phải không? Mày nghĩ rằng chúng sẽ nhận mày và cho mày tham gia
những câu lạc bộ kín, thịt con gái chúng và chơi pô lô với chúng.” Ông hít vào cả phổi không khí. “Nhưng chúng biết
mày là ai và mày đến từ đâu, con trai ạ. Có thể chúng sẽ cho mày chơi
trong hộp cát ít lâu, nhưng ngay khi mày bắt đầu quên mất mày thực ra là
ai, mẹ kiếp, sẽ có người nhắc cho mày nhớ thôi.”
Tôi không thể
nhịn thêm nữa. Ông đang làm tôi phát điên. “Thương trường không như thế
đâu bố,” tôi kiên nhẫn nói. “Đó không phải một câu lạc bộ. Đây là chuyện
kiếm tiền. Nếu bố giúp họ kiếm tiền, bố thỏa mãn một nhu cầu. Con ở chỗ
đó vì họ cần con.”
“Ờ, chúng cần mày,” bố tôi nhại lại,
nhả ra từng chữ, gật đầu. “Hay đấy. Chúng cần mày như kẻ muốn đi ị cần
giấy vệ sinh thôi, mày hiểu chứ? Rồi một khi chúng lau đít xong, chúng
xả nước. Tao bảo mày thế này, tất cả những gì chúng quan tâm là kẻ
thắng, và chúng biết mày là đồ thua cuộc thôi, chúng sẽ không cho mày
quên điều đó đi đâu.”
Tôi đảo mắt, lắc đầu và không nói gì. Một mạch máu đập ở thái dương.
Ông
lại lấy hơi. “Và mày quá ngu xuẩn và tự mãn nên không biết được điều
đó. Mày cứ sống trong cái thế giới tưởng tượng chết tiệt, y như mẹ của
mày. Nó lúc nào cũng nghĩ mình quá tốt đối với tao, nhưng nó chẳng là
cái đinh gì. Nó chỉ mơ tưởng. Và mày cũng chẳng là cái đinh gì. Mày đi
học trường dự bị đại học hào nhoáng trong vài năm, và mày có bằng đại
học vô dụng và đắt giá, nhưng mày vẫn chẳng là cái đinh gì.”
Ông
thở sâu, và giọng dường như dịu đi đôi chút. “Tao bảo mày điều này vì
tao không muốn mày bị xéo qua như cách mà chúng đã xéo qua tao, con ạ.
Giống như cái trường dự bị đại học chết dẫm đó, cách mà lũ phụ huynh
giàu có coi thường tao, như tao không phải trong bọn chúng. Mà, biết
không, tao mất ít lâu mới nhận ra điều đó, nhưng chúng đã đúng. Tao
không phải trong bọn chúng. Mày cũng vậy, và mày càng sớm đoán ra điều
đó, mày càng khá khẩm hơn.”
“Khá khẩm như bố chứ gì,” tôi nói. Nó cứ trượt ra khỏi miệng.
Ông trừng trừng nhìn tôi, mắt sáng rực. “Ít nhất tao biết tao là ai,” ông nói. “Mẹ kiếp, mày chẳng biết mày là ai.”

