01. Lời nói đầu - Phần 1

Lời nói đầu

Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt
trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa.
Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch
một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp
thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh
thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua,
bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe.

Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn
đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng
mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ.

Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được
ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa
bọc simili:

- Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng
lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã
đặt mua toàn tập hôm qua rồi.

Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy
chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại
chừng nào tôi chưa đọc xong.

Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở
Moskva - tôi đã gặp Paustovsky.

Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên
màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau
khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường
là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run
rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng...

Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia
vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là
nhờ Konstantin Paustovsky.

Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể
mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một
đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận
ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ,
với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm
và vì thế có ý nghĩa hơn.

Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi
người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người
đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là
một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta
không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi
dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới
không dễ thấy ấy.

Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ
lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục
của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn
cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã
xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh
cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong
gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết.
Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những
bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp
xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã
tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều
lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn
thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của
những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà
cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn
rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta
rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện
ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn.

***

Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm
thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển
tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân
viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời
Nga hoàng Nikolaev.

[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh
chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng
đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản
dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan.

Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở
không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia
đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong
nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu
nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng
ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát.

Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1
thành phố Kiev.
Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một
nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư".

Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà
văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn
mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao
Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.

Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky
còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí
"Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào
khoảng năm 1911.

Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học
tổng hợp Kiev.
Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn
thành phố này từ đấy.

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm
nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con
thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ
công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài
suốt từ thành phố Lublin (Ba
Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu
báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận
khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva.

Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch
giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi
Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ
đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog,
Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng
Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận
công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye.

Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva.
Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà
văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và
quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau".

Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy
đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky
đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn
trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel,
Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của
mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum,
Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư.

Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng
chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu
trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời.

Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự
của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau".

Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn
"Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại
khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng".

Sau khi "Kara-Bugaz" ra đời, Paustovsky xin ra
ngoài biên chế, tức là thôi không làm cho nhà nước và ăn lương nhà nước nữa, để
chuyên viết văn, "cái công việc duy nhất, choán hết mọi việc khác, có lúc
thực cay cực, nhưng là cái bao giờ tôi cũng yêu mến". Ở chế độ xã hội chủ
nghĩa, việc xin ra ngoài biên chế để sống tự do được coi như một việc làm không
bình thường, một hành động rồ dại, hoặc một hành động dũng cảm, tuỳ theo cách
nhìn của mỗi người.

Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn
đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo
Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến
những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra,
ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố
Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm...

Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên
chiến tranh của Mặt trận Nam và
ở đó ông cũng đi rất nhiều.

Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá
đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi",
"Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết".

Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho
mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những
xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra
nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà
văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ.

Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn
nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống.[2]

[2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố
mang tên Konstantin Pautovsky.

Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn
nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự
thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước.

Báo cáo nội dung xấu