06. Truyện ngắn đầu tiên
Từ thị trấn Chernobyl tôi
đáp tàu thủy về Kiev theo
sông Pripyat. Mùa hè, tôi sống trong trang viên xơ xác của viên tướng hồi hưu
họ Levkovich - ở gầnChernobyl. Thầy học tôi kiếm được cho tôi một chân gia sư
trong nhà viên tướng nọ. Nhiệm vụ của tôi là kèm cho cậu ấm gà tồ con ông tướng
thi lại hai môn thuộc học kỳ đầu trong niên khóa.
Ngôi nhà cũ kỹ của viên điền chủ nằm trên một vùng đất thấp.
Tối đến, sương mù lạnh lẽo cuồn cuộn bốc quanh nhà. Ếch nhái kêu inh ỏi trong
những đầm lầy lân cận và mùi đỗ quyên xông lên phát nhức đầu.
Mấy đứa con trai dở hơi của Levkovich đứng ngay ở hàng hiên
dùng súng trường bắn vịt trời trong bữa trà tối.
Levkovich - một người đàn ông phì nộn, dữ tợn, với bộ ria
điểm bạc và đôi mắt đen trợn trừng - suốt ngày ngồi lì trong cái ghế mềm đặt
ngoài thềm, thở dốc vì suyễn. Thỉnh thoảng ông ta lại hét toáng lên bằng giọng
khàn khàn:
- Không phải gia đình nữa, mà là một lũ vô công rồi nghề!
Một quán rượu! Rồi ông tống cổ tuốt tuột chúng bay đi cho mà xem! Đừng hòng
hưởng gia tài của ông!
Nhưng chẳng có ai để ý đến những tiếng la hét của ông ta. Bà
vợ nắm tay hòm chìa khóa trang trại. "Mađam Levkovich" là một người
đàn bà chưa già, lẳng lơ, nhưng bo bo bom bỏm. Suốt mùa hè bà ta mang cái
cóoc-xê kêu sột soạt.
Ngoài lũ con trai vô công rồi nghề, Levkovich còn một mụn
con gái trạc hai mươi. Tên cô ả là "Jeanne d'Arc". Suốt từ sáng đến
tối cô ả ngồi trên lưng con ngựa ô hung tợn, theo cách đàn ông, mà phóng ào ào.
Ra cái điều ta đây ngang tàng.
Cô ta thích lặp đi lặp lại một tiếng, hoàn toàn vô nghĩa
trong hầu hết trường hợp: "Coi khinh!".
Khi người ta giới thiệu tôi với cô ta, cô ả ngồi nguyên trên
ngựa mà nhìn thẳng vào mắt tôi, rồi chìa tay ra, phán:
- Coi khinh!
Tôi chán ngán, chẳng biết đến khi nào mới thoát được cái gia
đình điên điên khùng khùng ấy và cảm thấy nhẹ hẳn người khi rốt cuộc rồi cũng
ngồi lên được cái đệm cỏ phủ vải gai trên chiếc xe tải đồ và người xà ích, bác
Ignati Loyola (trong nhà Levkovich mọi người đều mang những tên lịch sử), tục
gọi Ignat, nắm lấy sợi thừng thay cho cương ngựa và chúng tôi thủng thẳng đi về
hướng Chernobyl.
Vừa ra khỏi cổng nhà, xe chúng tôi đã lọt ngay vào cái tĩnh
lặng triền miên của cánh rừng thấp.
Mãi chiều tối chúng tôi mới lết được tới Chernobyl và đành
phải ngủ lại trong một quán trọ. Tàu thủy đến chậm.
Chủ quán là một người Do Thái đứng tuổi, họ Kusher.
Kusher để tôi ngủ trong một căn phòng hẹp với những bức chân
dung ông bà ông vải ông ta - những ông lão râu bạc đội mũ chỏm bằng lụa, những
bà lão mang tóc giả và quấn khăn thêu. Mắt các bà lão trong tranh đều đẫm lệ.
Từ ngọn đèn trong bếp, mùi dầu hỏa hôi rình xông lên sặc
sụa. Vừa mới ngả mình xuống cái đệm nhồi lông chim dày cộp, tôi đã bị hằng hà
sa số rệp từ mọi ngóc ngách xông ra tấn công.
Tôi chồm dậy, hấp tấp mặc quần áo, bước ra thềm. Ngôi nhà ở
ngay cạnh dải cát bờ sông. Dòng Pripyat mờ mờ lấp loáng. Trên bờ sông, gỗ ván
xếp từng chồng.
Tôi ngồi xuống ghế dài ngoài thềm, xốc cổ áo choàng học sinh
lên. Đêm lạnh. Tôi thấy rét.
Có hai người lạ mặt ngồi trên bậc thềm. Trong bóng tối tôi
không nhìn rõ mặt họ. Một người hút makhorka, người kia ngồi gập mình, hình như
đang ngủ. Từ trong sân vọng ra tiếng ngáy như sấm của bác Ignati Loyola. Bác
ngủ ngay trên đệm cỏ khô trong xe và giờ đây tôi ghen với bác.
- Rệp hả?
Người hút makhorka cất giọng the thé hỏi tôi.
Nghe tiếng, tôi nhận ra anh ta. Đó là một anh chàng Do Thái
thấp bé, mặt khó đăm đăm, chân đi ủng dạ không tất. Khi tôi và bác Ignati
Loyola vừa đến đây, anh ta mở cổng cho chúng tôi vào sân và đòi trả công mười
kopek. Tôi cho anh ta đồng một hào. Kusher nhìn thấy, từ bên trong cửa sổ kêu
ầm lên:
- Cút ngay lập tức khỏi nhà tao, đồ khố rách áo ôm! Tao nói
mày có cả nghìn lần rồi!
Nhưng anh chàng đi ủng dạ thậm chí chẳng buồn nhìn lại
Kusher. Anh ta nháy mắt với tôi, bảo:
- Ông thấy chửa? Bất cứ một đồng cắc nào cũng làm hắn ta
bỏng tay. Hắn rồi chết vì tiền cho mà xem, ông cứ nhớ lấy lời tôi!
Khi tôi hỏi Kusher về anh chàng nọ thì ông ta miễn cưỡng
đáp:
- Thằng Yoska đấy mà! Cái thằng ấy nó dở người đấy! Nhưng
mà, tôi hiểu cậu nghĩ gì rồi... Có điều, nếu cậu chưa biết sống thế nào cho
phải đạo thì xin cứ trọng thiên hạ trước đã. Chớ có nhìn người bằng nửa con
mắt.
- Này ông, ông còn phải trả thêm tiền rệp cho Kusher nữa cơ
đấy - Yoska rít một hơi thuốc, nói với tôi, và tôi nhìn thấy trên má anh ta
những nám râu tua tủa - Con người ta khi ngửa tay ăn xin để làm giàu, nó không
từ bất cứ điều gì đâu.
- Yoska! - người từ nãy ngồi ngủ gục bất thần lên tiếng,
giọng khàn và dữ tợn - Cớ sao mày làm thiệt đời Khristya, hở thằng kia? Hai năm
trời, chẳng đêm nào tao ngủ được...
- Ông Nikifor, hoạ có điên mới đi nói những lời đê mạt như
vậy! - Yoska giận dữ kêu lên - Con mà lại làm thiệt đời Khristya ư? Ông hãy đến
đức cha Mikhail của ông mà hỏi xem đứa nào làm thiệt đời nàng? Hay là đến mà
hỏi ông đội xếp Xukharenkô cũng được.
- Ôi, con gái của ta ơi! - Nikifor nói, giọng tuyệt vọng -
Mặt trời của ta ơi, con đã lìa bỏ nơi đầm lầy mà về cõi vô cùng rồi.
- Thôi, im đi! - Yoska quát.
- Đến cả làm lễ cầu hồn cho con gái tao chúng nó cũng không
cho! - không thèm nghe Yoska, Nikifor nói - Tao ấy à, rồi tao phải đến Kiev, đến tận đức giáo
chủ. Ngài chưa thương là tao chưa chịu.
- Thôi đi! - Yoska nhắc lại - Chỉ cần đổi lấy một sợi tóc
của Khristya thôi, con cũng sẵn lòng bán ngay cái cuộc đời ghẻ lở của con. Vậy
mà ông lại nỡ nói con như vậy!
Bất thình lình anh chàng bật khóc, tuy cố nén nhưng vẫn thút
thít. Vì cố nén khóc, từ cổ họng anh ta phát ra một tiếng rít khẽ.
- Khóc đi, thằng ngốc ạ! - Nikifor bình thản nói, còn có vẻ
khuyến khích anh ta khóc nữa là khác. - Nếu không vì Khristya yêu mày thì tao
đã giết phứt mày đi cho rồi, thằng tội đồ khốn khổ khốn nạn ạ. Tội vạ đâu tao
chịu.
- Thôi đi, ông! - Yoska hét lên - Ông cứ giết con đi! Con
đang mong thế đây! Thà chết rữa trong mồ còn hơn.
- Mày ngốc vẫn hoàn ngốc, Yoska ạ! - Nikifor trả lời, giọng
buồn rũ - Được, về đến Kiev tao
sẽ giết mày đi cho rảnh, cho mày khỏi làm khổ tao. Tao cực lắm rồi.
- Thế ông giao nhà lại cho ai vậy, ông Nikifor? - Yoska thôi
khóc, hỏi.
- Tao chẳng giao cho ai sất. Tao lấy gỗ đóng chặt cửa rả
lại, thế là xong. Bây giờ tao cần cóc gì cái nhà ấy nữa. Người chết chẳng cần
đến thuốc lá.
Tôi lắng nghe câu chuyện khó hiểu. Trên sông Pripyat, sương
mù dâng lên như một bức tường. Từ những tấm ván ẩm mốc bốc lên một mùi như mùi
thuốc, hăng hắc. Trong thị trấn, những con chó uể oải cắn suông.
- Không biết bao giờ cái tàu thủy phải gió ấy mới đến? -
Nikifor bực dọc nói - Tao với mày bây giờ có nửa chai ngang mà nốc thì tuyệt,
Yoska nhỉ? Cũng đỡ buồn. Nhưng mà kiếm đâu ra cái của ấy bây giờ?
Tôi dựa lưng vào tường, sưởi ấm trong tấm áo choàng.
Sáng ngày ra, tàu thủy vẫn chưa tới. Kusher nói rằng do
sương mù cho nên tàu phải đậu lại qua đêm ở đâu đó, nóng ruột cũng vô ích. Thể
nào rồi nó cũng dừng ởChernobyl vài tiếng.
Tôi uống trà no nê. Ignati Loyola ra về.
Buồn, tôi đi lang thang trong thị trấn. Trên đường phố
chính, quán xá đã mở cửa. Từ các quán bay ra mùi cá ướp và mùi xà phòng giặt. Ở
hiệu cắt tóc có tấm biển dựng trên một cái chạng gỗ, ông chủ hiệu mặt đầy tàn
nhang, mặc áo khoác, đứng cắn hạt dưa.
Chẳng biết tiêu thời giờ vào việc gì, tôi rẽ vào cạo mặt.
Ông thợ cạo thở dài, phết bọt xà phòng mát lạnh lên mặt tôi và bắt đầu cuộc hỏi
cung nhã nhặn thường gặp ở các hiệu cắt tóc tỉnh lẻ rằng tôi làm nghề gì, tại
sao lại đến đây.
Bỗng lũ trẻ con chạy sầm sầm trên những tấm ván lát hè, vừa
chạy vừa huýt sáo, nhăn nhó giễu cợt. Vẳng đến giọng quen thuộc của Yoska:
Ta không dùng bài ca hùng tráng
Phá giấc mộng vàng người đẹp ta yêu
- Lazar! - bên kia bức vách bằng ván ghép, một giọng nữ quát
lên - Cài cửa lại ngay lập tức! Yoska lại say rồi. Sao mà lại cứ thế kia chứ,
hở trời?
Ông thợ cạo cài then cửa và kéo rèm.
- Hễ thấy có ai trong hiệu của chúng tôi là y như rằng thằng
Yoska rẽ vào, hát hỏng, nhảy múa và khóc lóc - ông ta thở dài, giải thích.
- Anh ta làm sao vậy? - tôi hỏi.
Ông thợ cạo không kịp trả lời. Một thiếu phụ trẻ, đầu tóc bơ
phờ, mắt mở to, long lanh vì xúc động, từ bên kia vách bước ra.
- Chả là thế này, ông khách ạ! - thiếu phụ nói - Nhưng trước
tiên, em phải chào ông đã! Sau là, thưa ông, cái anh Lazar nhà em đây, nói
thực, anh ấy chẳng biết quái gì để kể cho ông nghe đâu, bởi vì đàn ông, ông ạ,
hiểu làm sao nổi trái tim đàn bà! Sao cơ? Đừng lắc đầu quầy quậy như thế,
Lazar! Ông khách ơi, xin ông cứ nghe em kể cái đã, rồi xin ông ngẫm về những
điều em sắp nói với ông. Em sẽ kể cho ông nghe vì tình yêu, người con gái kia
đã chịu khổ chịu sở đến là nhường nào.
- Manya! - ông thợ cạo nói - Đừng có bốc.
Yoska kêu gào ở đâu đó, xa xa:
Khi tôi chết, các người hãy đến
Thăm nấm mồ bé nhỏ của tôi
Tặng nhau, mang mấy miếng dồi
Và rượu đắng một chai lừa lọc.
- Có khiếp không kia chứ! - Manya nói - Mà đó là Yoska đấy!
Chính là cái nhà anh Yoska con bà Pesya lẽ ra thì đậu y sĩ ở Kiev đấy! Ông biết
không, Pesya là bà mẹ tốt bụng nhất ở thị trấn chúng em. Ơn Chúa, bà ấy không
phải sống đến cái ngày nhục nhã này. Ông khách ơi, chắc ông cũng thừa hiểu:
phải yêu tới mức nào người đàn bà mới có thể vì người mình yêu mà sẵn lòng chịu
mọi khốn khó...
- Cái gì, nhà nó nói cái gì thế, hở Manya? - ông thợ cạo kêu
trời - Nghe nhà nó nói, ông khách chẳng hiểu nhà nó định nói cái gì đâu.
- Chả là hồi ấy ở miền chúng em đây có hội chợ - Manya kể -
Ông Nikifor góa vợ, làm nghề gác rừng ở Karpilovka, mới dẫn con gái đi xem. Ông
ấy có mỗi mụn con gái là Khristya thôi. Chao ôi, giá mà ông được thấy Khristya!
Ông khách ơi, em nói chắc là ông sẽ bị Khristya hớp hồn đấy! Nói để ông biết,
mắt Khristya cứ xanh ngăn ngắt như da trời kia kìa, còn đuôi xam của cô ấy thì
cứ rộm sáng lên như thể nó được gội bằng nước vàng trong truyện cổ tích. Sao mà
lại có người hiền thục như thế cơ chứ! Mới thanh tú như thế cơ chứ! Em chưa
từng gặp người như vậy bao giờ! Vừa nhác thấy Khristya là anh chàng Yoska nhà
ta đã đứng sững như trời trồng. Hắn phải lòng cô ấy ngay tắp lự. Thì có gì lạ
đâu. Đến hoàng đế mà trông thấy cô ấy cũng phải chết mê chết mệt. Thế mà
Khristya lại đi yêu Yoska mới lạ! Ông nhìn thấy anh chàng ấy rồi phải không?
Người thì bé tẹo, chỉ bằng cái thằng nhóc này này, tóc thì đỏ cạch, giọng thì
rè rè, tính tình lại gàn dở. Rốt cuộc là thế nào? Khristya bỏ bố đẻ đến ở với
Yoska. Ông đến mà xem nhà cửa của anh ta! Ông ngó kỹ mà xem! Một con dê ở còn
chật, lọ là họ những ba người. Chỉ được cái sạch thôi, sạch lắm lắm. Thế rồi...
ông thử đoán rồi sao? Bà Pesya đón Khristya rất mực long trọng, chẳng khác gì
đón một nàng công chúa. Khristya ở lại với Yoska, thành vợ thành chồng. Thế là
anh ta, cái anh chàng Yoska ấy, cứ hơn hớn lên, mặt mũi cứ sáng choang như đèn
ban đêm vậy. Ông thừa biết người Do Thái mà ăn ở với người theo đạo Thiên Chúa thì
điều đó có nghĩa là thế nào. Không một đức cha nào chịu làm phép cưới cho họ
đâu. Yoska mới vào nhà thờ gặp cha Mikhail để xin cải đạo. Nhưng cha bảo:
"Đáng nhẽ nhà anh phải cải đạo trước đã rồi mới được ngủ với con gái theo
đạo Chúa. Anh lại làm ngược tuốt tuột. Bây giờ, nếu không có phép của chính đức
giáo chủ thì ta cũng chẳng làm lễ cưới cho anh đâu, nhà quý tộc thành Jerusalem ạ!".
Yoska văng tục với cha rồi bỏ đi. Lúc đó ông ravin của chúng em bèn thọc tay
vào. Ông ravin đã nghe tin Yoska muốn cải sang đạo Chúa, thế là ông ấy nguyền
rủa mười đời nhà anh ta ở trong nhà nguyện. Đúng vào lúc ấy, ông gác rừng
Nikifor cũng đến, ông ta gục xuống chân con gái mà van nài cô trở về. Khristya
chỉ khóc, một mực không là không. Lũ trẻ con ở đây, tất nhiên là có kẻ xúi
giục, hễ thấy Khristya đâu là la hét: "Ê, Khristya, đồ ngoại giáo! Có thèm
thịt cấm không đấy?" Rồi nắm tay dứ cô ấy. Ở ngoài phố thiên hạ nghiêng
ngó nhìn theo Khristya, giễu cợt. Một hôm có đứa từ bên kia hàng rào lượm cục
phân ném vào lưng Khristya. Khắp nhà bà Pesya, chỗ nào cũng bê bết hắc ín, ông
có tưởng tượng được không, ông khách?
- Trời, bác Pesya ấy tốt lắm! - ông thợ cạo thở dài. - Đấy
mới thật là một người đàn bà!
- Ông ravin mới gọi bà Pesya lại mà bảo rằng: "Bà Pesya
Izmailevna kính mến ạ, bà đã để cho chuyện loạn hôn xảy ra trong nhà bà đấy
nhá. Bà đã chống lại luật đạo đấy nhá. Tôi nguyền rủa nhà bà. Đức Jehova sẽ
trừng phạt bà như trừng phạt một con điếm. Bà hãy thương lấy cái đầu bạc của
bà". Ông có biết bà Pesya đáp lại ông ta thế nào không? Bà Pesya mới nói
thế này: "Ông không phải là ravin! Ông là một tên đội xếp! Thiên hạ yêu
nhau thì mặc xác người ta, can dự gì đến nhà ông mà ông phải thò đôi tay núc
ních mỡ sấy của ông vào chuyện người dưng". Bà nhổ toẹt một bãi nước bọt
rồi bỏ đi. Ông ravin bèn nguyền rủa cả bà Pesya trong nhà thờ. Ở vùng này cái
gì chứ hành con người ta thì họ giỏi lắm, ông ạ. Nhưng ông chớ nói lại với ai
đấy! Cả thị trấn xôn xao, người ta không còn biết đến chuyện gì khác ngoài
chuyện Khristya. Cuối cùng, ông cẩm Sukharenko mới gọi Yoska và Khristya lại mà
bảo: "Yoska, ta sẽ đưa anh ra tòa vì tội lăng mạ đức cha Mikhail. Rồi anh
sẽ được nếm mùi khổ sai của ta. Còn Khristya, ta sẽ bắt cô về với bố đẻ. Ta cho
các người suy nghĩ ba ngày. Các người làm loạn cả huyện này lên rồi. Vì các
người, ta sẽ bị ngài tỉnh trưởng quở trách đấy".
Yoska bị ông cẩm tống ngục ngay tắp lự. Về sau, Sukharenko
bảo ông ta chỉ định dọa thôi, chứ không định bỏ tù thật. Sau đó thì sao, ông có
đoán được không? Nói ông không tin đâu, nhưng thực quả Khristya đã vì đau đớn
quá mà chết. Trông thương lắm. Người nào cũng mủi lòng, ấy là em nói những
người tốt kìa. Mấy ngày liền Khristya chỉ khóc ròng, nước mắt cũng chẳng còn,
hai con mắt cứ khô khốc, lại chẳng ăn chẳng uống gì ráo. Chỉ một mực lạy van
xin cho được gặp Yoska. Đúng vào ngày Yôm Kipur, tức là ngày lễ Phán Xét, vào
buổi tối, Khristya ngủ thiếp đi, rồi cứ thế không dậy nữa. Cô ấy nằm đấy, nom
mới trắng trẻo và hạnh phúc làm sao! Hẳn Khristya phải cảm ơn Chúa đã thương
đến cô ấy mà rước đi khỏi cuộc đời chó má này. Tại sao Khristya lại phải chịu
một hình phạt như thế, nếu chỉ vì cô ấy yêu Yoska? Ông cắt nghĩa cho em nghe
xem nào, vì sao kia chứ?! Chẳng lẽ trên cõi đời này chỉ còn toàn ngợm là ngợm
hay sao? Sukharenko vội tức tốc thả ngay Yoska ra, nhưng anh ta đã hoàn toàn
mất trí rồi. Từ đó Yoska bắt đầu rượu chè be bét, rồi ngửa tay đi ăn xin.
- Tôi mà như hắn ta thì thà tôi chết quách còn hơn - ông thợ
cạo nói. - Tôi sẽ tương ngay vào trán một viên đạn.
- Ối giời ơi, nhà nó can trường nhỉ! - Manya kêu lên. - Đến
lúc ấy có mà ba chân bốn cẳng tránh xa cái chết đến hàng trăm dặm ấy thì có.
Ngữ nhà nó hiểu sao nổi chuyện trái tim đàn bà. Tình yêu có thể đốt cháy nó
thành tro bụi.
- Trái tim đàn bà với chả trái tim đàn ông! - ông thợ cạo
trả lời và nhún vai. - Có cái gì khác nhau kia chứ?
Từ hiệu cắt tóc tôi trở về quán trọ. Cả Yoska lẫn Nikifor
đều không thấy ở đấy nữa. Kusher vận chiếc gi-lê sờn ngồi bên cửa sổ uống trà.
Trong phòng, những con ruồi béo mập bay vù vù.
Cái tàu thủy bé xíu mãi tối mới đến. Nó đỗ
lạiChernobyl đến đêm. Tôi được một chỗ nằm trong phòng khách của tàu, trên
một cái đi-văng bọc vải sơn cũ rích.
Đêm, sương lại xuống. Tàu thủy tông vào bờ. Cứ thế nó đứng
đực ra cho đến sáng bạch, đợi cho sương tan hết. Tôi không gặp Nikifor trên
tàu. Chắc hẳn ông ta lại say khướt cùng với Yoska.
Sở dĩ tôi phải kể lại tỉ mỉ câu chuyện trên bởi vì tôi đã
đốt phăng quyển vở chép những bài thơ đầu tiên của tôi khi đặt chân về
đến Kiev.
Không một chút tiếc rẻ, tôi nhìn những dòng chữ cầu kỳ biến thành tro. Những
"bọt pha lê", những "bầu trời bằng ngọc xanh", những tửu
điếm và những điệu nhảy của vũ nữ di-gan Tây Ban Nha chết đi không bao giờ sống
lại.
Tôi tỉnh ngộ lập tức. Thì ra tình yêu không gắn liền với
những bông hoa súng đang héo hắt, mà với những cục phân. Người ta đã ném cứt
vào lưng một thiếu nữ tuyệt đẹp đang yêu.
Nghĩ về chuyện đó, tôi chợt nhớ đến dòng chữ "Thế kỷ
kinh khủng, những tâm hồn kinh khủng" và quyết định viết truyện ngắn đầu
tiên của mình, như tôi tự nhủ, một "truyện ngắn ra truyện ngắn" về số
phận của Khristya.
Tôi đánh vật mãi với truyện ngắn ấy, nhưng không tài nào
hiểu nổi vì sao dưới ngòi bút của tôi nó lại cứ khô héo và nhợt nhạt, cho dù
cốt chuyện thật thê thảm. Sau rồi, tôi cũng đoán ra. Trước hết, truyện ngắn
được viết bằng lời người khác, sau là vì quá say với cuộc tình của Khristya tôi
đã bỏ qua nếp sống cuồng tín tàn nhẫn của thị trấn.
Tôi viết lại. Chính tôi cũng ngạc nhiên, không hiểu sao tôi
không tài nào "đặt được" vào truyện những từ đẹp và cầu kỳ. Truyện
ngắn này đòi sự thật và sự giản dị.
Khi tôi mang truyện ngắn đầu tiên của tôi tới tòa soạn tờ
báo đã đăng thơ tôi thì ông chủ bút bảo:
- Đừng uổng công vô ích, anh bạn trẻ ạ. Truyện của anh không
đăng được đâu. Chỉ riêng một lão cẩm trong truyện thôi cũng đủ để tôi bị rầy rà
rồi. Nhưng nói chung, truyện viết chắc tay đấy. Hãy mang lại cho chúng tôi một
cái gì khác đi. Mà nhớ phải ký bút danh nhá. Anh còn là học sinh trung học mà.
Anh có thể bị đuổi học vì chuyện ấy đấy.
Tôi nhận lại truyện ngắn, cất đi. Mãi tới mùa xuân năm sau
tôi mới lấy nó ra, đọc lại,và hiểu thêm được một điều: trong truyện không thấy
tác giả, không nỗi căm giận, không ý nghĩ, không cả sự thán phục của tác giả
trước tình yêu của Khristya.
Tôi bèn viết lại lần nữa và mang đến cho ông chủ bút, không
cốt để được in, mà để nhờ ông thẩm định.
Ông chủ bút đọc một lèo ngay trước mặt tôi rồi đứng lên, vỗ
vai tôi và buông một câu:
- Tôi ủng hộ.
Thế là lần đầu tiên tôi khẳng định được một cách chắc chắn
rằng điều căn bản đối với nhà văn là phải thể hiện mình đầy đủ nhất, khoáng đạt
nhất, trong bất kỳ tác phẩm nào, dù chỉ trong một truyện ngắn nhỏ như vậy. Bằng
cách đó nhà văn thể hiện thời đại mình đang sống và nhân dân. Trong việc thể
hiện mình này không có gì đáng để nhà văn phải chùn bước - không cả sự hổ thẹn
rởm trước độc giả, không cả nỗi lo sợ phải nhắc lại những điều mà các nhà văn
khác đã viết (nhưng viết một cách khác), không cả sự e ngại cả các nhà phê bình
lẫn các ông chủ bút.
Trong lúc làm việc nhà văn cần phải lãng quên mọi sự và viết
như thể viết cho chính mình hoặc cho người thân nhất của mình.
Phải làm cho nội tâm mình được tự do, mở mọi cửa cho nó và
bất thần anh sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng trong tâm thức của anh, những ý
nghĩ, tình cảm và tứ thơ hóa ra phong phú hơn nhiều so với anh tưởng.
Quá trình sáng tạo, trong dòng đi của nó, dần có thêm những
tính chất mới, phức tạp lên và phong phú thêm.
Cái đó cũng giống như mùa xuân trong thiên nhiên. Sức nóng
của mặt trời không thay đổi. Nhưng nó làm tan tuyết, nó sưởi ấm không khí, đất
đai và cây cối. Đất đai tràn ngập tiếng động, tiếng sóng vỗ, ánh lấp lánh của
những giọt nước và dòng băng tan - hàng nghìn dấu hiệu của mùa xuân - trong khi
đó thì, tôi xin nhắc lại, sức nóng của mặt trời không hề thay đổi.
Trong sáng tác cũng vậy. Cảm thức của ta, về thực chất,
không thay đổi. Nhưng trong lúc ta làm việc, nó dấy lên những trận cuồng phong,
những dòng, những thác ý nghĩ mới, hình ảnh mới, cảm giác mới và từ mới. Chính
vì thế mà nhiều khi ta phải ngạc nhiên trước cái mà mình viết ra.
Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới, có ý
nghĩa và thú vị, nhìn thấy những điều người khác không nhận ra, người đó mới có
thể là nhà văn.
Riêng đối với tôi, tôi rất chóng vánh hiểu ra rằng tôi chỉ
có thể nói được rất ít, ít đến bực mình. Và tôi cũng hiểu rằng cảm hứng trong
sáng tác cũng dễ tắt như nó dễ bùng lên, nếu ta bỏ đói nó. Cái vốn quan sát
cuộc sống của tôi lúc đó quá nghèo nàn và hạn hẹp.
Lúc đó tôi đặt cuốn sách lên trên cuộc đời chứ không phải
đặt cuộc đời lên trên cuốn sách. Cần phải làm cho cuộc sống tràn đầy trong ta.
Sau khi hiểu ra điều ấy, tôi hoàn toàn gác bút mười năm
liền, và như Gorky nói, tôi "nhập thế", bắt đầu cuộc viễn hành lang
thang trên nước Nga, làm hết nghề này đến nghề khác, tiếp xúc với đủ mọi loại
người.
Nhưng đó không phải là cuộc sống nhân tạo. Tôi không phải là
người quan sát chuyên nghiệp hay là người sưu tầm các sự kiện.
Không! Tôi sống, đơn giản là thế, không hề cố gắng ghi chép
hoặc nhớ lấy dù là một chút gì cho những tác phẩm tương lai.
Tôi sống, tôi làm việc, tôi yêu, tôi đau khổ, tôi hy vọng,
tôi mơ ước, biết chắc rằng sớm hay muộn, trong tuổi trưởng thành, hoặc thậm chí
trong tuổi già, tôi sẽ viết. Tôi sẽ viết không phải vì tôi đã đặt ra cho mình
nhiệm vụ ấy mà là vì bản thể tôi đòi tôi phải làm như vậy. Và bởi vì văn học
đối với tôi là một cái gì đó đẹp đẽ nhất trên đời.

