Kim Ốc Hận (Tập 1: Duyên) - Phần I - chương 15
Chương 15: Nam nhi thà chết trong chiến trận
“Nam
nhi thà chết trong chiến trận, cần chi uất ức dựng Trường Thành!”[1]
[1] Câu thơ trong bài Ẩm mã Trường Thành quật hành (Cho
ngựa uống nước trong hào Trường Thành) của Trần Lâm thời Đông Hán.
Thảo nguyên mênh mông vô tận, nhìn gần thì chỉ thấy lác đác
mầm xanh mới nhú ra từ sắc khô vàng của mùa đông nhưng càng ra xa thì càng dần
chuyển thành màu xanh lục hút mắt. Quân Hán đã toàn lực chạy suốt một ngày một
đêm, lúc này đang dừng ngựa bên bờ sông nhỏ nghỉ ngơi, chuẩn bị thật tốt cho
trận tập kết quân địch sắp tới. Liễu Duệ dắt ngựa, mỉm cười nhìn nó vừa đi bên
cạnh vừa gặm cỏ, trong lòng thầm ngâm nga mấy câu thơ, cảm giác bi khái mênh
mang.
“Hán Thành”, Vệ Thanh mỉm cười bước tới. Những ngày qua hắn
vẫn luôn quan sát Liễu Duệ, “Khí trời râm mát rồi, ngươi xem chúng ta còn
khoảng bao lâu thì có thể đến được vương đình của người Hung Nô?”
Hán Thành là tên tự của Liễu Duệ. Vào thời đại triều Hán,
phần lớn mọi người đều có tên tự, như Vệ Thanh có tên chữ là Trọng Khanh.
“Nhanh thì bảy tám ngày, chậm ước chừng phải mất đến nửa
tháng. Đương nhiên…”, Liễu Duệ quay đầu lại, “Nếu như không bị lạc đường.” Hắn
vừa nhớ lại vị Phi tướng quân Lý Quảng chưa từng gặp mặt nhưng danh tiếng như
sấm động bên tai. Lịch sử ghi lại, trong đời vị lão tướng này đã mấy lần lạc
đường tại đất Hung Nô, đây là một nguyên nhân trọng yếu dẫn đến việc không được
phong hầu.
“Ha ha!”, Vệ Thanh tự hồ cũng nghĩ đến điều này, “Lần này
chúng ta sẽ không vậy đâu, ta đã mời một người Hán qua lại hung Nô nhiều lần
làm người dẫn đường.”
“Liễu đại ca!”, Thân Hổ đi tới, “Khi nào chúng ta tiếp tục
lên đường đây?” Cậu trông thấy Vệ Thanh thì lãnh đạm hành lễ: “Xin chào Vệ
tướng quân!”
“Không cần khách sáo!”, Vệ Thanh gật đầu, “Cứ để cho người
ngựa nghỉ ngơi một lát đã.”
“Nhưng Tần Thất nói hiện giờ cỏ trên thảo nguyên quá tươi,
chứa nhiều nước, nếu cho ngựa ăn quá no thì một lát nữa khi chạy hết tốc lực
chúng sẽ bị trướng bụng.”
Tần Thất là một binh lính chịu trách nhiệm chăn ngựa của kỵ
binh Khâu Trạch. Khuôn mặt Vệ Thanh dần trở nên lãnh đạm, “Không sao, ta sẽ có
chừng mực.” Không đợi Thân Hổ đáp lời, hắn đã cười tự giễu, “Ta cũng xuất thân
là người chăn ngựa, sao lại không biết chuyện đó chứ?”
Liễu Duệ trừng mắt nhìn Thân Hổ, thầm nghĩ tiểu tử này chẳng
lẽ vì ở với Lộng Triều quá lâu nên bị tiêm nhiễm tính cách của hắn? Rõ ràng khi
còn bé trông rất là cơ trí cơ mà.
Vệ Thanh xoay người trở lại trung quân, tung mình nhảy lên
ngựa, hô vang, “Truyền lệnh, dùng tốc độ nhanh nhất xuất phát.”
Các tướng sĩ hơi kinh ngạc nhưng đều nghe theo tướng lệnh,
nhanh chóng lên ngựa, chỉ thỉnh thoảng cằn nhằn khe khẽ. Vệ Thanh ngoảnh mặt
làm ngơ, ba ngàn hắc giáp kỵ binh dưới trướng Liễu Duệ trầm mặc không nói, nhìn
có vẻ nhũn nhặn nhưng có một loại sức mạnh tinh thần bộc phát ra từ trong xương
cốt. Xuất quân đã được gần nửa tháng, kỵ binh Khâu Trạch biểu hiện rất bình
thường nhưng lại rất tuân thủ mệnh lệnh, hành động như gió, không một chút lười
biếng. Vệ Thanh tấm tắc cho là lạ. Xem ra Liễu Duệ thật sự không phải là người
chỉ biết say mê chế tạo ra những công cụ kỳ lạ như Hoàng thượng và mình đánh
giá lúc đầu. Tang Hoằng Dương, hắn cúi đấu xuống, không quên cảnh trước lúc
mình rời khỏi Trường An, ở trong điện Tuyên Thất, thiên tử đã nửa cười nửa
không nhắc tới cái tên này. Liễu Duệ này chẳng phải do Tang Hoằng Dương tiến cử
lên sao? Cũng vì lý do này nên Liễu Duệ được cử đến Ngũ Nguyên đã hơn bốn năm
mà chẳng hề bị ai gây khó dễ. Điều này cũng không phải vì Liễu Duệ có tài cán
gì lớn mà bởi vì thân phận của người huynh đệ tốt Tang Hoằng Dương luôn ở gần
thiên tử kia. Mấy năm trước trong vườn ngự uyển của thiên tử, Tang Hoằng Dương
tiến cử với Hoàng thượng rằng Liễu Duệ giỏi cầm quân, lúc đó hắn cũng có mặt.
Những năm này, Vệ Thanh lặng lẽ quan sát Tang Hoằng Dương làm mưa làm gió ở
trong triều, mặc dù chức quan không lớn nhưng những người sáng suốt đều biết
rằng hắn rất được lòng Thánh thượng. Thân phận đó có nghĩa là hắn lúc nào cũng
có thể gặp mặt Hoàng thượng. Nếu hắn ghen ghét người nào đó rồi dâng lên cáo
trạng thì đúng là đối phương không thể chống đỡ nổi. Tuy nhiên, vì xuất thân
của Liễu Duệ khi gia nhập quan trường nên cho dù yên ngựa và bàn đạp trong mấy
năm chiến tranh Hán Hung đã có công cực lớn nhưng Liễu Duệ vẫn không được quá
coi trọng, chỉ giậm chân tại chỗ ở chức vụ giáo úy Ngũ Nguyên nho nhỏ suốt mấy
năm qua. Vệ Thanh vừa rong ruổi phi ngựa chạy vừa nghĩ thầm, lần này trở về
Trường An thì mọi chuyện sẽ thay đổi rất nhanh. Chỉ cần dựa vào ba nghìn kỵ
binh ít ỏi, Liễu Duệ vẫn có thể dễ dàng trở lại Trường An thăng quan tiến bước.
“Huynh nói thử xem”, Hàn Nhạn Thanh lười biếng dựa lưng vào
chiếc ghế bọc da hổ trong Tang phủ, thoải mái nheo mắt, mỉm cười hỏi, “Sư huynh
hiện giờ tới đâu rồi?”
“Hắn tới nơi nào cũng không quan trọng”, Tang Hoằng Dương
cảm giác mình bị người phụ nữ này kiềm chế đến mức không còn nóng nảy được nữa,
“Vấn đề là…”, hắn nổi giận nói, “Tại sao muội cứ ở mãi tại chỗ của ta không
chịu đi?”
“Ái chà!” Nàng áp tay lên ngực giả bộ như vô cùng đau lòng,
“Nói như vậy là làm tổn thương tình cảm rồi, chẳng lẽ nhà của huynh không phải
là nhà của muội?” Liếc thấy hắn tức đến phát sặc nàng mới xoa dịu, “Nhà của
muội còn đang xây mà, đương nhiên bây giờ phải ở trong nhà huynh chứ.”
Sau khi Tiêu Phương rời đi, nghĩa mẫu vẫn thường tự quét dọn
Tiêu phủ sạch sẽ như ngày bọn họ còn ở đó. Hàn Nhạn Thanh cảm thấy lãng phí,
nhưng nghĩ tới việc phải đi từ ngoại thành vào nội thành Trường An thì không an
tâm nên dứt khoát bỏ ra một khoản tiền lớn mua một miếng đất bên cạnh Tang phủ,
rầm rộ khởi công xây dựng.
Tang Hoằng Dương bất đắc dĩ lắc đầu, “Muội tính trở về
Trường An sẽ làm những gì?”
“Muội”, Hàn Nhạn Thanh thản nhiên, “Muội muốn mở hiệu thuốc,
làm đại phu ngồi chẩn bệnh.”
Nàng đã học y nhiều năm như vậy mà không thực hành thì không
thể được. Thực hành thì quan trọng nhất là chữa trị nhiều. Muốn vậy thì không
còn gì tốt hơn là mở y quán để mọi người đến khám chữa bệnh, đã thế còn thu
được tiền của bệnh nhân nữa. Mặc dù một vài quan Hàn Nhạn Thanh không thiếu
nhưng tiền do chính tay mình làm ra vẫn cảm thấy thành công hơn.
“Vậy thì mặc cho muội mệt chết đi”, Tang Hoằng Dương ác độc
nguyền rủa.
“Muội nào có ngốc như vậy”, Hàn Nhạn Thanh vênh mặt, “Mỗi
ngày muội chỉ mở một lúc, chẩn bệnh chừng mười người, có hơn nữa cũng không
tiếp.”
“Muội cho rằng muội là…”, Tang Hoằng Dương muốn châm chọc
mấy câu nhưng chợt nhớ ra điều gì liền ngậm miệng.
“Sao cơ?” Nàng nhìn sang vẻ ngạc nhiên.
“Không có gì”, Tang Hoằng Dương gượng gạo.
Nàng nhìn chằm chằm hắn một lát, tin tưởng hắn không thể
tính kế gì lừa được mình, mới quay đi.
Vương đình của Hữu Hiền vương ở Mạc Nam.
Một nữ tỳ dáng vẻ khỏe khoắn nhưng xinh đẹp vén rèm bước vào
trướng, quỳ gối bái chào, “Vương gia, tôi tới rót rượu mời ngài.”
“Được rồi”, Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư cười lớn, thò tay sờ
soạng nắn bóp thân thể người nữ tỳ. “Lại đây, lại đây!”, hắn quay đầu lại nhìn
tay trung niên người Hán dưới trướng, “Trung Hành Thuyết đại nhân, ta mời ngươi
một chén.”
“Cạn chén, “Lạc Cổ Tư đại nhân tôn kính”, Trung Hành Thuyết
mỉm cười uống cạn chén rượu mạnh. Hắn đã sống ở Hung Nô nhiều năm, cũng ăn mặc
trang phục Hung Nô chính thống nhưng mọi hành vi vẫn còn mang phong cách của
các văn nhân người Hán.
“Người Hán các ngươi chắc không có rượu mạnh như thế này”,
Lạc Cổ Tư ngửa đầu cười nói, “Rượu của người Hán cứ như nước lã thì say thế nào
được chứ. Đã không thể uống rượu thì làm sao có thể chống lại được người Hung
Nô trên thảo nguyên chúng ta?”
Mọi người trong trướng phá lên cười ầm ĩ, Trung Hành Thuyết
lắc đầu, “Vương gia, theo tin báo về thì triều Hán đã phái Xa kỵ tướng quân Vệ
Thanh thống lĩnh đại quân tiến công Mạc Nam, Vương gia không nên coi thường.”
“Hà!” Người lên tiếng là một dũng sĩ Hung Nô trong bộ lạc
của Hữu Hiền vương đứng phía sau, bên tay trái của Trung Hành Thuyết. Gã mặc
trang phục hở ngực, cắn một miếng thịt dê nướng lớn đang cầm trong tay rồi vừa
nhai nhồm nhoàm vừa nói, “Thằng nhãi Vệ Thanh chẳng qua là em vợ của hoàng đế
triều Hán, theo như người Hán các ngươi nói là bám váy đàn bà lên làm tướng, có
gây khó dễ được ta?”
“Đúng đấy, đúng đấy!” Trong trướng lại nhao nhao một hồi,
ngay cả nữ tỳ rót rượu cũng che miệng cười trộm, không hề có vẻ lo lắng.
“Mọi người chớ quên rằng năm năm trước hoàng đế triều Hán đã
phái bốn cánh quân đến tấn công Hung Nô ta”, Trung Hành Thuyết nhướng mày, gằn
giọng, “Chỉ có cánh quân của Vệ Thanh là đánh tới tận Long Thành của Hung Nô và
giành được thắng lợi, nhờ vậy hắn mới được phong hầu đó.”
Nhất thời trong trướng lặng ngắt, mặt mũi đám người Hung Nô
đều lộ vẻ khó coi, “Đây chẳng qua là ngẫu nhiên thôi.” Lạc Cổ Tư cười lạnh nói,
“Lúc ấy người Hung Nô vốn không nghĩ tiểu tử chưa ráo máu đầu đó dám đánh đến
Long Thành nên chỉ để lại ở đó một ít tàn binh già yếu.”
“Thế thì hai bộ lạc Lâu Phiền, Hưu Đồ ở vùng Hà Tây[2] đâu
mất rồi?”, Trung Hành Thuyết nói vẻ khiêu khích, biết rằng làm như vậy sẽ rất
không được hoan nghênh nhưng hắn nhất định phải nói, bởi vì nếu như ngay cả hắn
cũng không nói thì những người Hung Nô này sẽ tự đại đến mức ngông cuồng.
[2] Hà Tây: Vùng đất phía Tây của sông Hoàng Hà.
“Hiện giờ Lý Tức của triều Hán đã dẫn quân đến Hữu Bắc Bình
nhưng Thiền vu vẫn phái ta tới lãnh thổ của Hữu Hiền vương”, Trung Hành Thuyết
đứng dậy hành lễ nói với Lạc Cổ Tư, “Chính là hy vọng Hữu Hiền vương có thể coi
trọng lần tiến công này của triều Hán, không làm mất uy danh của người Hung Nô,
những đứa con của Sói.”
“Ta đã phái Lộ Thiền Nhượng dẫn một đội nhân mã đi ngăn chặn
Vệ Thanh rồi.” Không biết là do sợ uy quyền của Thiền vu hay bị Trung Hành
Thuyết thuyết phục mà Lạc Cổ Tư cuối cùng cũng phải nói lộ ra.
Trung Hành Thuyết thở phào nhẹ nhõm, “Đại nhân Lộ Thiền
Nhượng là dũng sĩ nổi tiếng ngang hàng với Ốc Đề Duẫn trong bộ lạc của Hữu Hiền
vương, có hắn thì chắc hẳn có thể ngăn được Vệ Thanh.”
Mặc dù Trung Hành Thuyết không coi trọng Lộ Thiền Nhượng
nhưng cũng không thể nói trắng ra. Cũng may Lộ Thiền Nhượng quả thực là một kẻ
dũng mãnh, ít nhất có thể ngăn chặn quân tiên phong của Vệ Thanh. Khi tin tức
chiến bại truyền tới vương đình, trên dưới bộ lạc của Hữu Hiền vương sẽ coi
trọng, vậy thì trận chiến này sẽ ổn rồi.
Nhưng ngay cả Trung Hành Thuyết cũng không ngờ tới, Vệ Thanh
ngay từ lúc vừa bắt đầu đã chia quân ngăn cản Lộ Thiền Nhượng còn bản thân mình
thì dẫn kỵ binh tinh nhuệ tiến thẳng tới vương đình, trên đường hễ gặp dân Hung
Nô là giết sạch, lúc này chỉ còn cách vương đình không quá một dặm đường.
Một cuộc chiến tranh không chỉ là sự đối địch giữa tướng
quân của hai quốc gia mà còn là sự đối lập giữa vua của hai quốc gia đó. Y Trĩ
Tà[3] chắc phải cảm thấy xui xẻo vì đối thủ của hắn lại là Hán
Vũ Đế Lưu Triệt, có cả thành Trường An phồn hoa, tuy nhiên lại tạo dựng được
trước vương triều hình ảnh một hoàng đế hùng tài nhưng âm trầm, đại lược nhưng
bạo ngược.
[3] Y Trĩ Tà thiền vu chính là người cai trị Hung Nô,
song song với thời đại của Hán Vũ Đế.
Trong bóng đêm, kỵ quân bọc vó ngựa[4] đang
thận trọng tiến sát vương đình Hung Nô, Vệ Thanh vừa cưỡi ngựa vừa phân công
nhiệm vụ.
[4] Kỵ quân bọc vó ngựa: Vó ngựa của kỵ quân toàn bộ được
bọc vải mềm để tránh gây ra tiếng động khi di chuyển.
“Công Tôn Hạ, ngươi mang năm ngàn nhân mã chặn cổng sau
vương đình, không cho một kẻ quan trọng nào chạy thoát.”
“Lý Lãng, ngươi mang năm ngàn nhân mã tạt qua trái.”
…
“Hà phó tướng dẫn đội tìm chuồng ngựa của người Hung Nô,
trước tiên phải làm cho ngựa của Hung Nô kinh sợ, ta muốn người Hung Nô không
còn ngựa để chiến đấu. Triệu Tín, ngươi mang một đội nhân mã ở giữa phối hợp
tác chiến. Ta dẫn quân tấn công chính diện, nghe rõ chưa?”
“Rõ!” Chúng tướng nhất tề nhỏ giọng đáp.
“Hán Thành, ngươi đang suy nghĩ gì?”
“Mạt tướng đang nghĩ tới một câu thơ,”, Liễu Duệ từ từ quay
đầu nhìn nghiêng lại, cặp mắt trong trẻo ánh lên trong màn đêm sâu thẳm.
Vệ Thanh cảm thấy buồn cười, Liễu Duệ vốn không phải văn
nhân, làm sao có thể trong thời khắc khẩn trương của một cuộc chiến khốc liệt
lại nổi lên nhã hứng như thế?
“Nam nhi thà chết trong chiến trận, cần chi uất ức dựng
Trường Thành!”
Quân Hán luồn đi trong đêm phát ra những tiếng sột soạt, mái
tóc Liễu Duệ bị gió đêm thổi tung, trong khoảnh khắc đã rối bời, thì thầm từng
từ một.
Trong phút chốc, Vệ Thanh thất thần.
Nam nhi - thà chết trong chiến trận, cần chi - uất ức dựng
Trường Thành!
“Vệ Thanh chính là một người đàn ông chân chính”, Liễu Duệ
quay đầu lại, vung roi thúc ngựa xông về phía trước, thầm nghĩ.
Mùa xuân năm Nguyên Sóc thứ năm. Người đế đô Trường An nhiều
năm về sau vẫn còn nhớ rằng đây là thời điểm Tứ Dạ y quán[5] nổi
tiếng cả nước bắt đầu khai trương. Nhưng vào lúc đó, nó mới chỉ là một y quán
nhỏ tầm thường trên phố phía tây Trường An không thu hút quá nhiều chú ý.
[5] Phòng khám nửa đêm.
Nói y quán này nhỏ thì cũng không phải là oan uổng, vì nó
chỉ là một y quán nhỏ có mặt tiền hẹp nằm ở khu phố có cửa hàng san sát kinh
doanh sầm uất phía tây Trường An, gồm một gian ngoại đường và một gian nội
thất. Vị đại phu ngồi ở ngoại đường, phần lớn thời gian không phải là xem bệnh
mà là xem sách với vẻ khoan khoái. Phía ngoài y quán có treo một tấm biển hiệu
đề: “Ngày khám mười người, bắt mạch hai mươi tiền, sau giờ Ngọ ngừng khám.”
“Chim sẻ tuy nhỏ nhưng vẫn phải đủ ngũ tạng”, Hàn Nhạn Thanh
cắn một miếng táo, giọng hờ hững. “Ta không thích phòng trống rỗng. Như thế này…”,
nàng thoáng nhìn quanh Tứ Dạ y quán, hài lòng, “…cảm giác như ở nhà vậy.”
Y quán do chính Hàn Nhạn Thanh thiết kế, không cần xa hoa mà
chỉ cần vật dụng thật tiện lợi gồm một chiếc ghế trúc có tay vịn và một tủ
thuốc nhiều ngăn màu sắc cổ kính chỉ thấy được trong phim truyền hình. Nàng
nhắm mắt, tưởng tượng rằng mình đang ở trong nhà, nếu không phải thì cũng là ở
bên cạnh sư phụ.
“Ký Giang, muội nhớ Mạch Nhi và Sơ Nhi quá!” Nàng buồn rười
rượi nhìn vào bóng cô gái đang giúp mình thu dọn dược liệu, giọng ai oán.
“Khi trận đại chiến Mạc Nam kết thúc thì Liễu đại nhân nhất
định sẽ đến Đường Cổ Lạp Sơn đón bọn trẻ”, cô gái lấy vị cam thảo bỏ vào ngăn
kéo tương ứng rồi quay lại nói. Nàng ta có gương mặt thanh tú, chính là Mai Ký
Giang hát bài Tây Châu khúc cho vợ chồng Tư Mã Tương Như nghe hồi tháng trước.
“Mai tỷ tỷ!”, Hàn Nhạn Thanh nhìn nàng ta đầy thâm ý, “Không
chừng đến lúc đó thì Quách sư huynh cũng sẽ trở về. Tỷ tỷ có nhớ huynh ấy hay
không?”
“Muội muốn chết hả”, Mai Ký Giang đỏ mặt lên. Nàng ta là con gái của danh y đương thời Mai
Lương. Phụ thân nàng ta bị giặc cướp giết chết, còn nàng ta được Du hiệp Quách
Giải cứu rồi giao cho Hàn Nhạn Thanh chiếu cố. Hàn Nhạn Thanh thấy nàng ta
thông minh sáng láng, từ nhỏ đã thừa hưởng học vấn của gia đình nên để cho nàng
ta được di chuyển làm việc tùy thích trong các cơ sở kinh doanh của bọn họ.
“Hỏi thật nhé
Nhạn Thanh, muội ít tuổi hơn ta à?”, Mai Ký Giang tò mò, “Rốt cuộc năm nay muội
bao nhiêu tuổi?”
Hàn Nhạn Thanh
cúi đầu xuống. Nàng cũng không biết mình lớn bé thế nào. Những năm qua nàng gọi
người này là ca ca, người kia tỷ tỷ chẳng qua vì mình có vóc dáng khá nhỏ. Tất
nhiên khi đó Hàn Nhạn Thanh cũng ít tuổi.
“Tỷ cảm thấy thế
nào?”, nàng hỏi lại.
“À”, Mai Ký Giang
lui lại mấy bước, đánh giá, “Không đoán được, vừa giống như hai mốt hai hai,
vừa giống như hai sáu, hai bảy.”
“Suỵt! Coi như
chưa nói gì nhé!”, Hàn Nhạn Thanh toát mồ hôi.
Mai Ký Giang cũng
nhanh chóng bỏ ngoài tai câu chuyện này, “Y quán làm ăn kém như vậy mà muội
không có ý kiến gì sao? Hay là gỡ tấm bảng kia xuống?”
“Muội cũng không
thiếu chút tiền đó.” Hàn Nhạn Thanh không buồn quan tâm, “Cái này gọi là
‘Khương thái công câu cá, muốn người tự mắc câu’[6]. Không có người
hữu duyên thì muội có biện pháp gì được.” Nàng trông thấy Mai Ký Giang có vẻ lo
lắng bèn an ủi, “Yên tâm đi. Chờ một ngày nào đó có người tới thì tự nhiên công
việc sẽ tốt. Hiện giờ…”, nàng bỗng nhiên phấn chấn, “Không có việc gì, dược
liệu cũng đã đủ, chúng ta nghiên cứu làm hương đi.”
[6] Khương
Thái Công tức Khương Thượng thời đầu Xuân Thu, còn gọi là Khương Tử Nha. Khương
Thái Công thủa xưa dùng lưỡi câu thẳng và không có mồi để câu cá, con cá nào
cắn câu là tự muốn mắc câu. Ông làm như vậy là để chờ đợi minh quân.
Trận chiến tại
Mạc Nam cực kỳ khốc liệt, mãi về sau Liễu Duệ hồi tưởng lại vẫn còn chấn động.
Cho dù hắn vô cùng anh dũng, có kiến thức hơn người thường cả ngàn năm, nhưng
dù sao thì đây vẫn là lần đầu tiên hắn chứng kiến tận mắt nhiều người chết như
vậy, người Hung Nô có, người mình cũng có.
“Liễu Duệ”, hắn
vừa thúc ngựa vừa tự hỏi, tự cười nhạo mình, “Ngươi không phải tự xưng là cảnh
sát đặc nhiệm đệ nhất Trung Quốc sao, nhận ra rõ ràng giới hạn của dân tộc từ
lúc nào vậy? Tất cả đều là những sinh mạng đấy.”
Hắn nhớ như in
cái chết của Phương Dụ Hàn và Dương Triết, lại tận mắt nhìn thấy hết thảy những
sinh mạng quen thuộc hoặc xa lạ lớp này ngã xuống, lớp khác thay lên xông vào
cõi chết. Lúc này hắn vẫn còn cảm giác kinh hoàng nhưng khi đó lại bình tĩnh
chỉ huy những đợt tiến công, tỉnh táo nhìn chằm chằm vào đám người Hung Nô
trong vương đình, lạnh lùng quan sát hướng chạy của Hữu Hiền vương Hung Nô để
ra lệnh chặn bắt.
Lịch sử ghi lại
rằng mùa xuân năm Nguyên Sóc thứ năm, Vệ Thanh dẫn quân ra Sóc Phương, cấp tốc
hành quân đường dài tập kích vương đình của Hữu Hiền vương, đánh cho hắn trở
tay không kịp, chật vật chạy trốn về phương bắc. Vì bắt giữ được Ngạc La Đa,
đứa con yêu của Tả Hiền vương, hơn nữa Lý Tức ở mặt kia cũng điều binh khiển
tướng thỏa đáng nên Tả Hiền vương và thiền vu đã không phái binh trợ giúp Hữu
Hiền vương Lạc Cổ Tư. Tuy nhiên Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư vẫn trốn thoát.
Liễu Duệ cười
lạnh, gọi Tiết Thực đến hạ lệnh: “Ngươi dẫn năm mươi người lên phía bắc, tùy cơ
phán đoán mà lập một chốt chặn phía sau Công Tôn Hạ, nếu Lạc Cổ Tư trốn ra thì
phải bắt sống. Nhớ kỹ là không được để người khác thấy.”
“Tuân lệnh!”,
Tiết Thực lĩnh mệnh rời đi.
“Tiểu Hổ Tử!”,
Liễu Duệ gọi.
Thân Hổ thúc ngựa
tới.
“Đệ… cẩn thận một
chút. Phải nhớ rằng mẫu thân đệ và tỷ tỷ còn đang ở Trường An chờ đệ.” Liễu Duệ
chẳng biết phải nói gì, không thể làm gì khác hơn là vỗ vỗ vai Thân Hổ. Hắn
biết Hàn Nhạn Thanh không muốn Thân Hổ bị tổn thương nhưng đối với những người
đã trải qua khóa huấn luyện cảnh sát đặc nhiệm như bọn họ thì, muốn trưởng
thành nhất định phải kinh qua bão táp. Thân Hổ đã mười sáu tuổi, luyện võ mấy
năm nên cũng lớn rồi. Chiến dịch lần này chỉ đơn thuần là đóng cửa đánh chó,
hẳn là không chuyện gì xảy ra. Thân Hổ gật đầu, thúc ngựa đi.
“Quân Hán đánh
tới rồi!
Vương đình Hung
Nô rộng lớn, những tiếng la hét bằng ngôn ngữ Hung Nô ầm ĩ vang dội đêm khuya,
cả một vùng hoàn toàn náo loạn. Quý tộc Hung Nô vừa uống rượu hoan ca giật mình
tỉnh giấc nhưng vẫn không tin. Lạc Cổ Tư túm lấy tên vệ binh vừa vào trướng báo
tin, hung hăng giáng cho một tát, giận giữ gầm lên, “Nói bậy bạ gì đó? Quân Hán
làm sao có thể đến được nơi đây. Chẳng lẽ bọn chúng biết bay…”
Hắn chưa quát
tháo xong thì mặt đã dần dần biến sắc. Từ xa vọng lại tiếng ngựa hí vang, tiếng
la hét chém giết ngất trời trong doanh trại khiến hắn hiểu rằng không phải là
hạ cấp nói ngoa, vội vàng mặc chiến giáp, xách đao lao ra khỏi lều.
Trong màn đêm,
quân Hán như thiên thần giáng trần thúc ngựa xông tới, vung kiếm nhất tề chém
giết người Hung Nô bất kể trẻ già trai gái. Lạc Cổ Tư giận dữ gầm lên: “Những
đứa con của Sói, hãy vung loan đao của các ngươi lên. Người Hung Nô chúng ta là
con dân của Trường Sinh Thiên[7], không thể thua kẻ khác.”
[7] Người Hung
Nô coi trời xanh là vị thần tối cao đời đời vĩnh hằng, thời cổ họ gọi vị thần
của mình là “Trường Sinh Thiên.”
Được Hữu Hiền
vương hiệu triệu, binh lính Hung Nô dần bình tĩnh lại, ai nấy khôi phục dũng
mãnh, tức thì chém giết quân Hán, khó phân thắng bại. Trung Hành Thuyết vội vã
từ trong trướng khách xông ra, thấy tình hình như vậy chẳng kịp kinh ngạc, hét
lên: “Chém chân ngựa của quân Hán.”
Liễu Duệ từ ngoài
chiến trường trông thấy bèn hỏi: “Người đó là ai vậy?” Không ai trả lời, người
bên cạnh hắn cũng không biết rõ lắm.
“La Sĩ Vĩ, ngươi
bám theo người kia, bắt sống hắn!” Liễu Duệ hạ lệnh. La Sĩ Vĩ là một trong mấy
người còn sống trong trận ác chiến Nhất Tuyến Thiên ngày trước.
“Rõ!” La Sĩ Vĩ
nhận lệnh, xông thẳng vào chiến trường trong vương đình.
“Mọi người cố
gắng lên, giữ vững bên này không cho bọn Hung Nô bỏ chạy.”
“Rõ!” Quân Khâu
Trạch lớn tiếng đáp, tất cả đều đã chém giết đến đỏ rực cả mắt.
“Không cầu có
công, chỉ cầu không tội”, Liễu Duệ nghĩ thầm trong lòng.
Phía bắc doanh
trại xuất hiện ánh lửa ngất trời, ngựa chiến Hung Nô kinh hãi lao ra, xông loạn
vào đám người. Trong cuộc chiến tranh Hán Hung bao nhiêu năm qua, người Hung Nô
luôn giữ thế chủ động tấn công, tuy bị bại trận ở Long Thành, Hà Tây nhưng
người Hung Nô ở Mạc Nam chưa thay đổi tập quán này. Vì vậy, khi quân Hán mới
bắt đầu tập kích thì chúng luống cuống chẳng biết làm gì, giờ được Trung Hành
Thuyết nhắc nhở liền tỉnh ngộ, tập trung sức chém ngựa của quân Hán. Ngựa Quân
Hán hoảng sợ, thế công nhất thời hơi rối loạn.
Vệ Thanh dẫn quân
vào vương đình, thấy tình hình đó bèn hô lớn ra lệnh: “Xuống ngựa!” Hắn đang ở
trong trận tuyến của mình nên nhất thời người Hung Nô không thể tấn công tới.
Con tuấn mã hắn cưỡi thuộc loại tuyển chọn trăm con lấy một nên không hề sợ
hãi.
Nhờ ánh lửa, Vệ
Thanh thấy rõ mặt Hữu Hiền vương ở đằng xa bèn rút từ sau lưng ra một mũi tên,
ngắm nghía thật chính xác rồi bắn. Tình thế hỗn loạn đã giấu đi tiếng mũi tên
xé gió. Khi Lạc Cổ Tư phát hiện thì mũi tên đã bắn tới sát người. Hắn kinh hãi
toát mồ hôi, vung đại đao chém bay mũi tên nhưng chưa kịp thu đao về thì mũi
tên thứ hai đã bắn vào vai.
Lúc này quân Hán
đã dần dần khống chế được tình thế. Quân Hung Nô tuy hung hãn nhưng không có
ngựa, phải đánh giáp lá cà theo kiểu bộ binh, trong khi đó quân Hán quá nhiều,
lại dũng mãnh, giết người như rác. Cả vương đình chìm trong biển máu, thi thể
ngổn ngang khắp nơi.
“Vương gia!” Thị
vệ A Sính xông về phía Hữu Hiền vương, “Ngài hãy chạy trước đi!” Nước mắt bi
khái chảy tràn trên gương mặt người lính trong một giây, không ai nói gì.
Lạc Cổ Tư đưa tay
nhổ mũi tên trên vai ra, hít sâu một hơi, “Người Hung Nô chỉ có hảo hán chết
trên chiến trường, không có kẻ hèn nhát chết khi bỏ chạy.”
“Nhưng vương gia
đã bị thương, tạm thời rút lui để ngày sau trở lại”, quân Hung Nô đứng quanh
cùng khuyên nhủ. Lạc Cổ Tư thê lương nhìn qua vương đình, con dân trong bộ lạc
của hắn đã ngã xuống non nửa. Hắn thở dài, nhảy lên con ngựa chiến do thủ hạ
dẫn tới.
Vệ Thanh! Trước
khi lao đi hắn thầm nhắc trong lòng cái tên này, quay đầu nhìn về phía viên Xa
kỵ tướng quân trẻ tuổi, có khuôn mặt đặc trưng của người Hán, “Ta sẽ trở lại!”
Trời dần sáng.
“Tướng quân!”
Thám báo quân Hán báo lên, “Đã đánh hạ vương đình, bắt được hơn mười tiểu
vương, tỳ tướng thuộc hạ của Hữu Hiền vương, hơn vạn dân chúng trong bộ lạc và
rất nhiều súc vật. Hữu Hiền vương Hung Nô tháo chạy, quân Hung Nô liều chết bảo
vệ nên chúng ta không ngăn cản được.”
Vệ Thanh ngồi trong trướng. Vị Xa kỵ tướng quân trẻ tuổi
giành được thắng lợi như thế này thì trong lòng rất hưng phấn. “Đáng tiếc là
không bắt được Lạc Cổ Tư”, hắn thở dài nói.
“Vệ tướng quân, mạt tướng biết tội”, Liễu Duệ bước ra khỏi
hàng, cúi đầu quỳ lạy.
“Liễu giáo úy anh dũng giết địch, có tội gì?”, Vệ Thanh kinh
ngạc, mỉm cười định đỡ hắn dậy.
“Vào lúc trước khi tấn công vương đình, mạt tướng lo lắng có
nhân vật trọng yếu của Hung Nô chạy thoát nên cố ý phái thủ hạ Tiết Thực mai
phục sẵn ở phía tây bắc vương đình, bắt được Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư đang định
chạy trốn về phương bắc”, Liễu Duệ tránh không để Vệ Thanh đỡ dậy, bẩm báo.
Trong trướng tức thì bàn tán om sòm.
Công Tôn Hạ có vẻ tức giận, “Liễu Duệ, ngươi lén điều binh
thì có còn quân pháp không?”
Liễu Duệ ngẩng đầu liếc nhìn Công Tôn Hạ rồi lại cúi xuống,
“Mạt tướng tình nguyện nhận tội.”
“Thôi được!”, Vệ Thanh cuối cùng cũng mỉm cười, lần nữa nâng
Liễu Duệ đứng lên, “Liễu giáo úy đúng là có sai nhưng cũng vì lo lắng việc
quân, lần này lập được công lớn, khi khải hoàn về triều Vệ Thanh ta sẽ bẩm báo
lên Hoàng thượng.”
“Đa tạ tướng quân!”, Liễu Duệ ôm quyền nói, nhưng trong lòng
lại khẽ thở dài.
Liễu Duệ trở lại doanh trướng, trông thấy Thân Hổ mặt mày
tái nhợt.
“Không phải sợ!” Hắn an ủi, đây là lần đầu tiên cậu bé chứng
kiến cảnh chiến trường máu chảy thành sông. Ngay cả hắn cũng không thể thích
ứng, huống chi là cậu. “Hãy nghĩ rằng những người Hung Nô này giết đồng bào của
ta, làm nhục phụ nữ của ta, đệ giết bọn họ cũng không ai trách. Ngay cả người
Hung Nô chết dưới đao của đệ cũng sẽ không trách. Người ra chiến trường vốn đã
phải giác ngộ điều này.”
“Dạ!”, Thân Hổ gật đầu, vẻ mặt đã dễ coi hơn, “À, Liễu đại
ca, La Sĩ Vĩ đã bắt được cái người huynh muốn bắt rồi đấy.”
“Tốt! Giải hắn vào đây!”
Thân Hổ gật đầu, vén rèm bước ra ngoài. Liễu Duệ mặt trầm
xuống. Những lời hắn vừa nói để thuyết phục Thân Hổ nhưng cũng chính là để
thuyết phục chính bản thân mình. Mấy người lính áp giải Trung Hành Thuyết vào,
hành lễ rồi đi ra ngoài. Liễu Duệ nhìn Trung Hành Thuyết một lát, “Người là
ai?”
“Đại trượng phu đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, tại hạ
là Trung Hành Thuyết.”
“Hả? Phản gia bán nước mà là đại trượng phu sao?”, Liễu Duệ
lạnh nhạt nói.
“Ngươi…”, Trung Hành Thuyết bị Liễu Duệ chọc vào nỗi đau,
giận dữ đáp: “Nếu không phải nhà Hán làm hại gia đình ta, giết chết vợ con ta
thì ta đâu phải đi đến bước đường này?”
“Triều đình có lỗi với ngươi, ngươi lại muốn lấy đồng bào
khắp thiên hạ bồi táng[8] ư?”, Liễu Duệ lạnh lùng hỏi, trong
lòng băn khoăn, tại sao lại có tình tiết thực như thế này? Chắc không phải là
trong bộ phim truyền hình nào chứ? Nói đến phim truyền hình, Trung Hành Thuyết
dường như có trong một bộ phim truyền hình, có một đoạn tình duyên với Long Lự
công chúa Lưu San, người tỷ tỷ mà Hán Vũ Đế gả sang tận Hung Nô. Liễu Duệ toát
mồ hôi, không biết hắn bị lây bệnh của hai cô bé Hàn Nhạn Thanh và Quý Đan Tạp
từ lúc nào, chú ý đến cả những chuyện tạp nham này.
[8] Bồi táng: Chôn đồ vật, của cải theo người chết.

