Cô đơn trên mạng - Chương 05 phần 1

Jacek, trung tâm máy tính, Viện Max Planck, Hamburg:

Đúng là anh đã bỏ ra ngoài, khi chuông điện thoại reo.

Hôm ấy là thứ bảy, ngay trước nửa đêm, trong trung tâm máy
tính vắng ngắt, chỉ có thể là vợ anh gọi đến. Anh không muốn nhấc máy. Anh mệt
kinh khủng, phải theo dõi cả ba máy tính nên nước mắt cứ chảy ra, anh cảm thấy
trong lòng hồi hộp, cảm giác bao giờ cũng xuất hiện khi anh uống trên mười ly
cà phê và hút hết hai bao thuốc lá. Anh ở trong tâm trạng hoàn toàn không muốn
nghe hai lần những lời ca cẩm của vợ, bây giờ qua điện thoại và sau đó là ở
nhà, ngay khi anh bước vào nhà. Lại thêm một lần anh biết, nào là "anh
không bao giờ ở nhà", nào là "Ania từ lâu nay đã quên không biết
trông mình như thế nào", rồi " lẽ ra anh nên cưới mấy cái máy tính
thổ tả ấy mới phải" và "đằng nào thì bọn họ cũng chẳng đánh giá đúng
mức công sức của anh". Còn anh đương nhiên là không nói với cô ấy rằng anh
phải đến đây vì đang có một dự án quan trọng, vì anh đã hứa với sếp, vì mọi
người ở California đang đợi và họ cần phải biết rằng, ở đây, ở Hamburg này họ
bị cắt Internet hai ngày, vì vậy mà anh bị tách biệt với thế giới như thể người
Eskimo trên một tảng băng trôi và ngày hôm qua anh không thể hoàn thành việc
này được.

Anh bỗng thấy bực mình kinh khủng.

Về nguyên tắc thì tại sao anh lại không thể, dù chỉ một lần,
nói cho cô ấy biết chuyện này? – anh nghĩ.

Mình ở đây làm việc chết thôi, còn cô ấy… Anh đột ngột quay
lại chỗ điện thoại, anh muốn hét to lên hết cả để cô ấy nghe. Anh nhấc máy. Đó
là Jakub.

- Jacek, ông lấy hộ tôi một cái e-mail từ máy chủ của Poznan. Chuyện này với cô
ấy rất quan trọng – hắn nói với cái giọng nhỏ nhẹ, bao giờ cũng buồn buồn và
khàn khàn của mình.

Nếu hắn gọi vào trước mười hai giờ đêm thứ bảy, sau năm năm
và nói một kiểu câu như thế này ngay sau "chào ông", thì chắc chắn
đây là việc cực kỳ quan trọng đối với hắn. Anh không hỏi gì, chỉ lấy địa chỉ
máy chủ, địa chỉ người nhận e-mail và xác định anh có bao nhiêu thời gian cho
"điều sai bảo" của hắn.

- Đến thứ hai, sáu giờ sáng. Ông có thể gởi tin nhắn cho tôi
nếu lấy được hoặc không?

- Jakub, ông phải tin là sẽ được. Cho tôi số nhắn tin của
ông đi.

- Ania thế nào? – hắn hỏi.

Chỉ cần nghe thấy là rất tốt và vẫn hỏi thăm hắn thường
xuyên, là hắn cúp máy luôn.

Hắn luôn luôn xuất hiện rất nhanh, khuấy động mọi thứ rồi
biến mất.

Phần lớn là vào mùa hè.

Mọi cái lại trở về với anh như một giấc mơ giữa ban ngày,
gần đây anh hay bị như thế sau mỗi lần uống rượu vang.

Nhưng đây không phải là giấc mơ.

Jakub là một mảng khác thường của quá khứ anh.

Họ biết nhau từ hồi học trung học kỹ thuật. Ngay từ đầu anh
đã thán phục hắn, vì bộ óc của hắn và sức chịu đựng của hắn. Thực ra thì đứa
nào cũng thán phục hắn, nhưng đương nhiên là chưa bao giờ có ai nói với hắn
điều đó. Trong ngôi trường kia, bộ óc của hắn không phải loại cơ bắp đáng để
kính nể, chí ít thì cũng công khai, mà hắn thì không có loại cơ bắp khác, thêm
vào đó hắn còn nhỏ con nhất trường. Bao giờ cũng đăm chiêu, buồn buồn thế nào
ấy. Và liên tục nhận được thư mẹ. Hàng ngày.

Chỉ riêng chuyện ấy cũng đủ để bọn chúng bày ra những trò
hèn mạt đối với hắn. Thỉnh thoảng bọn chúng lại lấy cắp những bức thư kia, mở
ra và đọc to.

Còn có thể là gì nữa, trong những bức thư của một người mẹ
đang nhớ?

Những lúc ấy hắn đứng đờ người ra, khổ sở vô tận, không nói
gì, chỉ nắm chặt hai tay và nhìn bọn chúng đầy căm giận với ánh mắt bất lực.

Hắn không thể làm gì được bọn chúng, bởi hắn không có cơ bắp
nào khác ngoài bộ óc và bọn chúng biết điều đó.

Nhưng sau năm thứ ba, nghỉ hè xong, hắn đến trường hoàn toàn
thay đổi. Hắn lớn lên trông thấy. Hắn đột nhiên to cao như tất cả bọn khác.

Anh nhớ rất rõ sự kiện này.

Một đứa nào đó trong lúc ăn trưa ở nhà ăn ký túc xá đã cá
cược oang oang lên rằng có phải mẹ Jakub đã vay bưu điện số tiền mua tất cả số
tem thư gửi cho hắn. Mọi người bắt đầu cười. Jakub từ tốn đứng dậy – có những
tia lửa trong mắt và nụ cười quái dị - đi đến chỗ cái thằng vừa nói, xin lỗi
những đứa ngồi cùng bàn và dùng hết sức đập đĩa súp vào đầu thằng kia. Cho tới
tận bây giờ anh vẫn còn nhớ chỗ súp còn lại trong đĩa đã chuyển sang màu máu
như thế nào.

Tất cả im lặng nhìn, còn hắn kéo cái đầu đầy súp ra và để hạ
nhục kẻ bất hạnh hơn nữa, lấy giấy ăn chùi khuôn mặt dính máu của nó rồi lặng
lẽ đi ra.

Chuyên xảy ra thật đẹp…

Anh không nhớ sau đấy có còn ai dám bình luận về những bức
thư kia nữa không.

Sau tai hoạ trên, Jakub bỗng nhiên bắt đầu tồn tại, khi hắn
nói điều gì đấy, bọn chúng nghe hắn như nghe tất cả những đứa khác, khi chúng
hút thuốc, hắn cũng được mời (điều mà cho đến lúc ấy chưa từng xảy ra), khi bọn
chúng đi khiêu vũ với bọn con gái trường kỹ thuật y khoa, chúng đưa hắn theo.

Hắn đi cùng bọn chúng mặc dù không bao giờ nhảy. Bao giờ hắn
cũng ngồi đúng cái góc tối ấy, không nói gì, chỉ tư lự nhìn.

Song có một lần, trong một buổi khiêu vũ đã xảy ra một điều
rất không bình thường.

Một trong số các cô dạy Văn kỳ quặc của trường kỹ thuật y
khoa muốn làm cho trò chơi hoá trang phong phú hơn (thực ra thì là để tách
những đôi bắt đầu ôm nhau chặt hơn khi khiêu vũ), đã tổ chức festival thơ. Trên
một cái bục giống như sân khấu, mọi người đọc thơ. Không khí giống như một cuộc
thi, mà mục đích là chọn ra những người thuộc lòng những đoạn thơ dài nhất.

Một ý tưởng rất phản động, vì với bọn con trai ở trung học
kỹ thuật, thì thơ xa lạ giống như một tủ lạnh đối với người Eskimo. Thậm chí
không đứa nào trong số bọn chúng bước lên sân khấu. Sau vài phút thì thấy rõ là
chỉ có tụi con trai của trường phổ thông là đua tài với nhau, mà chủ yếu là để
thể hiện với bọn con gái trường kỹ thuật y. Cuộc thi kết thúc, hàng tràng vỗ
tay tán thưởng của quí cô dành cho người đọc thơ đang từ sân khấu đi xuống đầy
kiêu hãnh sau mười bốn phút thể hiện một đoạn trong Balladyna của Slowacki,
đúng lúc ấy Jakub bỗng nhiên xuất hiện. Hắn yêu cầu đưa micrô và khi tất cả im
lặng, hắn tự giải thích rằng đây sẽ không liên quan gì đến các bài học ở trường
và hắn sẽ chỉ chú trọng tới… tình ái. Không đợi cho tiếng xì xào vì ngạc nhiên
lắng hẳn, bằng một giọng khẽ khàng hắn bắt đầu đọc.

Asnyk, Pawlikowska–Jasnorzewska, Jastrun, Przerwa–Tetmajer,
Osiecka, Galczynski, Illakowiczowna, Lesman, Baczinski, Norvid, Staff,
Czechowicz…

Không một lần dừng lại, suốt nửa tiếng trong tiếng vỗ tay,
không nhìn xuống khán giả, chỉ tập trung vào một điểm trên sàn, hắn đọc tên các
nhà thơ, tên các tập thơ và đọc thơ.

Thỉnh thoảng hắn dùng tay nhẹ nhàng minh hoạ, thỉnh thoảng
hắn trầm ngâm trong vài giây như muốn dành cho người nghe một khoảng thời gian
cho thư giãn, cho thay đổi tâm trạng hoặc đơn giản là tìm bài thơ lại trong trí
nhớ.

Tại một thời điểm, giữa bài thơ của Pawlikowska –
Jasnorzewska, hắn từ sân khấu đi xuống và ngồi vào góc của mình. Im lặng kéo
dài khoảng hơn chục giây, bọn con gái bên trường phổ thông nhìn hắn với ánh mắt
đầy ngưỡng mộ, còn đám con trai bọn chúng, đám con trai của trường kỹ thuật thì
nở nang vì kiêu hãnh. Jakub nhỏ con của chúng…. .

Ngoài ra Jakub còn hoàn toàn bình thường.

Hắn uống rượu với bọn chúng, cũng chửi thề như chúng và là một
người trong số chúng. Ngoài việc hắn có bộ óc ấy, những bức thư mà mẹ hắn hàng
ngày gửi đến và hắn thuộc ngần ấy bài thơ, hắn là "từ cùng một cuốn
sách".

Tất cả đều biết rằng hắn sẽ học đại học.

Các giáo viên hơi sợ hắn kể từ cái lần trước cả lớp mà lại
đang trong buổi dự giờ, hắn đã cho thầy dạy Lý một bài giảng về đề tài sự giãn
nở của vũ trụ, còn khi thầy này được hắn tha, đã thú nhận rằng mình không biết
Hubble là ai, hắn đã gọi ông ta là "kẻ dốt nát tỉnh lẻ" và là
"đại diện được đào tạo của cơ quan thanh tra giáo dục". Hình như
những vị dự giờ có tuổi của cả tỉnh cho tới tận bây giờ vẫn còn kể về chuyện
này.

Hắn bị tước quyền học sinh một tuần, khi ông bố hắn đến theo
giấy mời của ban giám hiệu, thậm chí không cần hỏi đầu đuôi câu chuyện thế nào,
đã làm một trận lôi đình trong phòng hiệu trưởng, đến nỗi mọi người buộc phải
gọi công an đến.

Bố của Jakub không có một căn cứ nào khác, chỉ duy nhất một
cái đó.

Jakub của ông.

Ông tự hào về hắn đến mức gần như bay khỏi mặt đất.

Cho đến bây giờ vẫn không ai biết mọi chuyện đã diễn ra như
thế nào, nhưng ngày hôm sau hiệu trưởng đã chính thức xin lỗi Jakub vào giờ
điểm danh, còn thầy dạy Lý thì chuyển trường hai tuần sau đó.

Những con đường của họ tách ra sau ngày ra trường, anh ở lại
Gdansk, còn Jakub tốt nghiệp đại học toán và
đồng thời triết học ở Wroclaw.

Thỉnh thoảng anh lại nghe được những thông tin ít ỏi về hắn:
rằng hắn giành huy chương Olimpic tiếng Anh toàn Ba Lan, rằng hắn học cùng lúc
hai khoa, rằng hắn làm tiến sĩ ở Mỹ.

Một ai đó đã có lần nói với anh là hắn bị gạch tên ở trường
đại học. Nhưng anh không tin.

Sau đấy thì con gái của vợ chồng anh bị ốm và thế giới như
sụp đổ.

Nó tên là Ania, mới lên tám, là tình yêu lớn nhất và duy
nhất của anh, nó bị bệnh máu trắng và chỉ sau vài tháng nó sẽ chết.

Anh bắt đầu uống, để có thể chịu đựng.

Anh khóc và uống, càng uống nhiều, càng khóc nhiều. Nhưng
không hao giờ anh khóc trước mặt Ania.

Anh không còn tin vào Chúa nữa.

Không thể có Chúa. Bởi nếu có, thì có nghĩa là Người hoặc
rất xấu, hoặc bất lực, hoặc đồng thời cả xấu cả bất lực. Thậm chí ngay lúc này
anh cũng không thể tin vào điều này, vậy thì anh loại trừ khả năng tồn tại của
Người.

Họ đưa con bé đi tất cả các bệnh viện ở Ba Lan. Ania bị mắc
bệnh ngừng phát triển, tủy sống mất đần. Cứu cánh duy nhất là ghép tủy, nhưng
thời đó ở Ba Lan chưa có ai làm việc này. Một lần, do tình cờ, khi đặc biệt
tỉnh táo, anh được biết rằng ở Mỹ người ta làm được việc đó. Anh biết rằng việc
phẫu thuật sẽ tốn kém không thể tưởng tượng nổi, mặc dầu vậy anh vẫn bắt đầu
tìm kiếm. Anh được biết là Jakub đang làm tiến sĩ ở New
Orleans và thông qua trường của hắn ở Wroclaw anh đã có được số điện thoại của hắn.
Hai tuần liền anh đắn đo, gọi hay không gọi.

Một lần, say và can đảm, anh đăng ký cuộc gọi. Mãi ngày hôm
sau mới được kết nối, khi anh đã tỉnh táo và nói chung là không nhớ đêm qua
mình lại can đảm đến thế.

Tuy nhiên anh nhớ lại là mình muốn nói với Jakub về Ania.

Jakub nghe rất nghiêm túc. Hắn đột ngột yêu cầu tất cả các
thông số của Ania, các thông tin về tuỷ sống, về quá trình hóa trị liệu, về
tình trạng của mạch bạch huyết. Có vẻ như hắn biết hết về bệnh máu trắng và
ghép tủy.

Điều này làm anh ngạc nhiên. Nhưng chỉ thoáng qua. Anh nhớ
lại là bao giờ Jakub cũng biết hầu như tất cả.

Hắn hỏi không chút cảm xúc. Thậm chí không cả nói mình rất
buồn về bệnh tình của Ania. Hắn xin số điện thoại của anh và bảo sẽ gợi điện
sau hai tuần, và cúp máy không một lời tạm biệt.

Anh thậm chí không chờ đợi cú điện thoại này.

Trong vô vàn những lời hứa suông mà họ đã vấp phải, và những
hy vọng hão mà mọi người đã tạo nên cho họ, thì thêm một hy vọng này nữa đâu có
nghĩa lý gì. Đơn giản vì khi đó Jakub là địa chỉ duy nhất ở Mỹ mà anh biết và
anh nghĩ rằng riêng việc đã nhờ hắn giúp đỡ cũng đủ để anh thấy lương tâm thanh
thản.

Khi hắn gọi điện là gần trưa chủ nhật.

Jakub.

Không bao giờ anh quên được cuộc nói chuyện ấy:

- Ông đã uống rồi cơ à? - hắn hỏi.

- Chưa... vì hôm nay tôi phải vào bệnh viện với Ania – anh
trả lời.

- Thế thì tốt rồi. Bây giờ thì ông nghe thật kỹ nhé. Ông lên
ôtô và đến sân bay Warszawa. 20 giờ 30 máy bay của LOT từ New York sẽ hạ cánh,
trong đó có một người, người này sẽ đưa cho ông một thư bảo lãnh viết tay, nhận
Ania vào Đại học Tổng hợp Tulane ở New Orleans để làm phẫu thuật ghép tủy, một
giấy hẹn cấp viza cho Ania ở đại sứ quán Mỹ tại Warszawa và số đặt chỗ chuyến
bay cho Ania đến New York vào thứ sáu. Tôi đã đặt cho con bé hai chỗ hạng
business. Ông sẽ nhận tất cả những thứ này từ người kia và vé tại LOT ở Warszawa vào sáng thứ hai. Thứ ba, ông phải
bán ôtô, đưa một ít hối lộ cho phòng hộ chiếu để giải quyết sao cho con bé có
được hộ chiếu vào thứ tư. Thứ năm ông đến sứ quán lấy viza, còn thứ sáu thì đưa
Ania lên máy bay. Tôi sẽ đón nó ở New York
và đưa về chỗ tôi ở New Orleans.
Đã có người cho tuỷ. Tôi đã giải quyết xong mọi chi phí cho cuộc mổ này, vậy
ông đừng có làm hỏng việc đấy. Tối thứ ba tôi sẽ gọi cho ông - hắn nói và cúp
máy.

Còn anh thì đứng như trời trồng và cứ giữ cái ống nghe ấy
rất lâu và kiểm tra lại xem mình có nhớ hết không, nước mắt chảy xuống má cho
dù anh hoàn toàn chưa say...

Tất cả đã diễn ra đúng như Jakub nói. Duy có hộ chiếu là do
vợ anh khóc lóc mà có được chứ không cần phải hối lộ gì hết.

Tuy nhiên đằng nào họ vẫn phải bán ôtô. Để trả một khoản
tiêu cực khác: giải quyết việc chở Ania bằng máy bay lên thẳng từ bệnh viện ra
sân bay Warszawa. Sáng thứ sáu, họ đứng trên sân thượng của Okecie, nắm tay
nhau và nhìn cái máy bay ấy cất cánh.

Jakub gọi điện từ New York thông báo rằng Ania đã đến nơi
may mắn và con bé rất dũng cảm. Sau đấy thì hắn gọi hàng ngày.

Vợ anh gần như phát điên lên. Cô ấy xin nghỉ phép để lúc nào
cũng ở gần điện thoại. Cô ấy cấm mọi người gọi đến vì sẽ "chiếm đường
dây". Còn khi điện thoại yên lặng quá lâu thì cứ chốc chốc cô ấy lại nhấc
máy lên để xem nó có bị hỏng không. Hầu như cô ấy không ra khỏi nhà, không ngủ
vì sợ rằng mình sẽ không nghe thấy tiếng chuông điện thoại.

Anh uống liên tục.

Sau năm tuần thì họ đi Warszawa để đón Ania. Họ đã biết là
Ania sẽ sống.

Tối hôm ấy họ về nhà mệt mỏi sau chuyến đi, và Ania lại ngủ
trong căn phòng của nó, hai vợ chồng vào phòng con bé, quỳ xuống bên giường, ôm
nhau nhìn con và khóc.

Anh biết rất rõ rằng trong giây phút ấy, cả hai đều cảm thấy
cùng một điều: lòng biết ơn trọn vẹn và lớn lao vô hạn. Lòng biết ơn giành cho
một người khác.

Anh chợt nghĩ rằng, dù sao Chúa vẫn tồn tại. Người chỉ đi
vắng trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi.

Anh không thể hình dung được, lòng biết ơn không bày tỏ được
có thể trở thành một gánh nặng như thế nào. Tối hôm ấy họ chờ điện thoại của
hắn, họ muốn nói với hắn một điều gì đất. Cái gì cũng được, miễn là chứa trong
nó lời cám ơn.

Nhưng hắn không gọi.

Cả tối hôm ấy, cả suốt hai năm sau đó hắn không gọi. Hắn vốn
vậy.

Và khi đó tối hôm ấy, anh thử gọi cho hắn. Anh đăng ký cuộc
gọi và nói rằng anh muốn được kết nối ngay lập tức, phải trả bao nhiêu cũng
được. Họ nói rằng đây là ở Mỹ, rằng anh cần phải hiểu, rằng họ sẽ kết nối cho
anh, nhưng nhanh nhất cũng phải sau mười tám tiếng.

Tối hôm ấy họ đã quyết định phải đi khỏi đất nước này.

Và giờ đây khi mọi người hỏi tại sao họ lại rời Ba Lan thì
anh nói rằng anh đi vì anh đã không thế bày tỏ được lòng biết ơn, còn mọi người
thì cười và không tin anh.

Nhưng đấy là sự thật, toàn bộ sự thật.

Chuông điện thoại bứt anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Lần này thì
là bà xã.

- Anh có biết rằng, đồ quỉ quái, ở Hamburg bây giờ đã là chủ nhật? - cô ấy
bắt đầu.

Anh không để cho cô ta nói hết.

- Jakub vừa gọi, hắn cần anh giúp - anh nói.

- Jakub... ?

Im lặng mấy giây, cô ấy hỏi:

- Em có phải đến để giúp anh không?

Anh cười, chợt ngạc nhiên vì câu hỏi ấy.

Không, em không thể giúp được anh đâu. Đừng khóa cửa nhé để
lúc về anh không làm Ania thức giấc.

- Tất nhiên rồi. Với lại đằng nào thì cho đến lúc anh về em
cũng không ngủ được. Jacek, anh phải cố giúp anh ấy đấy nhé.

Đương nhiên là anh sẽ giúp! Anh sẽ giải quyết cái máy chủ
này sao cho không phải đứng dậy!

Kể cả lúc này anh phải đi Poznan và lấy búa đập tan nó ra hoặc là phải
lấy dao cạo mà nạo cái e-mail ấy ra khỏi mấy cái ổ cứng.

Anh biết là mình sẽ không phải đi đâu hết. Anh chợt cảm nhận
được thách thức này. Giống như cái lần vừa mới đến Đức vẫn còn đang là sinh
viên ở Frankfurt trên Men, cùng với các hacker giống như anh họ đã giải quyết
những cái máy tính của IBM ở Heiderberg hoặc là họ đã thử đột nhập vào trung
tâm Commerzbank. Sáng hôm sau anh cười khúc khích đầy tự hào khi đọc báo về
"một cuộc thử đột nhập không thành vào trung tâm máy tính ở... " và ở
chỗ này họ đưa ra tên một viện quan trọng nào đấy: Anh biết là đến tối anh sẽ
phải giải thích cho người yêu rằng cuộc thử không thành công có nghĩa là máy
tính vẫn còn đó, còn cuộc thử thành công thì sẽ có nghĩa là nó đã cháy trụi.

Đó là cool và nó tác động giống như heroin. Chỉ còn lại rất
ít từ cái thời xa xưa ấy: một vài tình bạn được sống lại bằng những tấm bưu
thiếp nhân dịp lễ tết, một vài mẩu báo đã ố vàng, những kỷ niệm.

Nhưng cũng có cả những cuốn sổ ghi mật khẩu, những mật khẩu
giúp anh có thể thâm nhập vào hầu như tất cả các máy tính ở Đức.

Anh pha một cốc cà phê nữa rồi bật máy tính.

Đầu tiên, anh làm quen với máy chủ ở Poznan.

Ngay lập tức anh nhận ra rằng nó được bảo vệ trước những
cuộc tấn công từ bên ngoài bằng firewall, một chương trình bảo vệ chọn lọc, có
vai trò như một người lính canh điện tử đặc biệt, và... anh phấn khởi. Anh sẽ
không cảm nhận được thành công, nếu mọi việc quá dễ dàng.

Sau đấy anh tìm trong sổ những mật khẩu mà bạn bè đã cho để
vào được cray của các trường Đại học Tổng hợp ở Munich, Berlinvà Stuttgat. Không có loại
máy tính nào nhanh hơn cray. Cái đất nước giàu có này chỉ có bốn cái như thế kể
cả cái ở đây ở Hamburgmà anh vẫn làm việc với nó.

Anh đồng thời nhập hệ trên ba cái trong số đó.

Anh khởi động viên ngọc của mình cùng lúc trên tất cả các
máy. Đây là chương trình do anh tự viết và nó đã làm một việc tuyệt hảo: anh
viết ẩn danh. Đơn giản là anh thay đổi địa chỉ phiên của mình ở Berlin, Munich và
ở Hamburg này
thành không hiện hành. Kể cả nếu cái firewall thông minh của họ ở Poznan có
nhận ra cuộc tấn công khởi nguồn từ đâu thì đằng nào họ cũng chỉ nhận được một
cái địa chỉ có phố không tồn tại trong một thành phố không tồn tại ở một nước
không tồn tại.

Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, và anh đã sẵn sàng.

Anh châm thuốc, ra bếp lấy bia trong tủ lạnh, nhìn đồng hồ
và phải nói rằng đã muốn làm "nổ tung" luôn cả ba chương trình: ở Hamburg này, ở Berlin và Munich. Anh biết rằng
ngay cả máy chủ ở Pentagon cũng không thể chịu nổi một vụ tân công như thế này.
Kế hoạch rất đơn giản. Anh tấn công từ đây, từ Hamburg,
hoàn tất trên cái cray ở Munich, còn sửa
từ Berlin.

Bởi nó gần Poznan nhất
- anh cười thầm.

Trong khoảnh khắc ấy, anh hiểu rằng mình thanh toán cả cái
máy tính chỉ cất để hủy một cái mail duy nhất. Bỗng nhiên anh nảy ra một ý muốn
không thể cưỡng nổi là thử xem trong đó là cái gì. Đây hẳn phải là một cái gì
đó rất khác thường.

Anh quyết định, với lương tâm của mình, rằng vì điều tốt cho
vấn đề, vì điều tốt cho khoa học, anh có quyền xem bức mail đó trước khi hủy.

Anh dừng việc tấn công, khởi động chương trình bẻ khóa hộp
thư, và mail là của hắn.

Anh uống một ngụm bia rồi bắt đầu đọc.

Anh đọc và cảm thấy cả người mình run lên.

Anh đã không linh cảm được rằng lại có một khi nào đó anh
được đọc một bức thư đẹp đến vậy về tình yêu, nỗi nhớ, sự thất lạc, lòng ghen,
sự không chung thủy và sự trừng phạt vì tội …

Cô ấy phải là một hiện tượng khác thường, không lặp lại như
thế nào đấy một khi Jakub đã viết một bức thư như thế.

Anh ghen với hắn.

Anh lại nhớ về trường. Sự kiện từ cái thuở Jakub vẫn còn là
một "thằng nhỏ".

Bọn chúng phải viết một bài về đề tài Tạm biệt Maria của
Borowski. Còn mười lăm phút nữa thì hết tiết học, bỗng nhiên cô giáo nhớ ra là
mình vẫn chưa kiểm tra các bài làm đó. Cô gọi Jakub. Tất cả thở phào nhẹ nhõm,
còn hắn bắt đầu đọc. Hắn viết về cái chết, về nỗi đau khổ, về sự tồn tại, về sự
qua đi về phẩm giá con người hay và xúc động đến nỗi cô giáo đã phải khóc.
Không tự chủ nổi, cô phải bỏ ra ngoài khi hắn chưa kết thúc, còn hắn, không để
ý đến điều đó, vẫn đọc tiếp. Tất cả đờ người ra nghe trong một sự im lặng như
thể cô giáo chưa từng bao giờ có mặt trong lớp.

Và cả sau đấy nữa, không bao giờ.

Chuông hết giờ đột ngột vang lên, nhưng không ai đứng dậy.
Jakub đọc xong và lặng lẽ ngồi xuống, trong khi tất cả những đứa khác ra khỏi
lớp trong khoảng thời gian giải lao còn lại và không đứa nào dám nhìn vào mắt
hắn, vì đứa nào cũng xấu hổ với sự mềm yếu mà mình vừa tỏ ra.

Bởi hắn lúc nào cũng vẫn là cái thằng Jakub nhỏ nhất hướng
ấy.

Chỉ có anh, Jacek là ngồi xuống cạnh hắn một lúc, vỗ vai hắn
và nói:

- Iakub, đừng ngại. Không chỉ có cô giáo đâu. Cả tớ cũng
khóc đấy

Đã đến lúc.

Đầu tiên anh khởi động chương trình ở chỗ mình, sau đó ở Munich và cuối cùng là ở Berlin.

Anh chờ mất mấy phút và thử kết nối với máy chủ ở Poznan. Anh cười mãn
nguyện.

Máy chủ ở Poznan đã
không còn.

Có nghĩa là vẫn còn, nhưng chỉ là một đống silic vụn.

Anh chọn số nhắn tin của Jakub trên trang web cho phép gửi thẳng tin nhắn từ Internet,
và viết:

Poznan không
còn nữa. Chắc chắn cô ấy sẽ không bao giờ đọc được cái mail ấy. Jacek.

Anh gửi tin nhắn và nghĩ rằng tuy nhiên Jakub không phải từ
cùng một cuốn sách ấy.

Anh tắt máy tính, uống nốt chỗ bia và chậm rãi ra thang máy.

ANH: Từ hơn chục giờ đồng hồ nay anh ngồi trong phòng làm
việc ở Munich.
Chi có tiếng gõ bàn phím máy anh làm xáo động sự yên tĩnh. Đã bước sang ngày
chủ nhật.

Anh đợi.

Cố tập trung vào bài mà anh vừa tìm được trên mạng. Anh cho
rằng điều đó sẽ xua đi nỗi lo âu trong mình.

Song nỗi lo âu không mất đi. Nó chuyển thành nỗi sợ hãi.

Anh sợ rằng sẽ mất cô vĩnh viễn khi cô đọc cái e-mail mà anh
gửi cho cô. Anh viết nó ở tâm điểm bùng nổ của ghen tuông, thất vọng và nhớ.

Cho tới lúc ấy anh vờ như không ghen hoặc giấu đi sự có mặt
của nó. Anh học điều này rất lâu, và việc họ không gặp nhau đã giúp anh. Những
cái kiểu như nét mặt, ánh mắt nhìn, tâm trạng, giọng nói, về bối rối hoặc sốt
ruột không bị cô thu nhận. Cảm xúc chỉ được biểu lộ duy nhất qua những dòng
chữ, mà trong trường hợp của họ thì như vậy dễ kiểm soát hơn.

Đôi khi anh phân vân, phải chăng chính khả năng chỉ sử dụng
duy nhất chữ viết này là điều làm người ta hài lòng, trong những mối quan hệ
trên mạng như thế này. Một số người nghĩ ra những điều dối trá đầy tính thuyết
phục, nhưng họ biết rằng họ không bao giờ nói ra những điều ấy, bởi chỉ cần
giọng nói run run hay khuôn mặt ửng đỏ cũng khiến chúng trở thành không thể tin
được. Cả các tác giả ẩn danh cũng biết rất rõ về điều này.

Cô có thể thu nhận được tất cả những gì anh viết, và nhiều
nhất thì cũng chỉ có thể khuyếch đại chúng bằng trí tưởng tượng của mình. Thậm
chí cả khi cô cảm nhận được nhiều hơn là anh mong muốn, thì cũng không thể nhận
ra sự ghen tuông trong những con chữ của anh.

Báo cáo nội dung xấu