Gái công xưởng - Phần II - Chương 11 phần 3

Theo gia phả Trung Quốc truyền thống, một gia tộc truy nguyên dòng dõi của mình đến vị shiqiamu (thủy thiên tổ), “vị tổ tiên đầu tiên di cư đến nơi đây”, người đến từ đâu đó và kiến lập cơ đồ nơi các con cháu của người ấy hiện đang sinh sống. Các gia đình mong muốn có được địa vị có thể sẽ đòi được chứng nhận mối liên hệ với một người nổi tiếng ở trong quá khứ xa xôi, nhưng các mối liên hệ giả mạo đó sẽ tự phản lại chính nó trong những trang phả hệ. Chỉ có những ghi chép sau vị tổ tiên đầu tiên được coi là đáng tin cậy. Việc di cư ấn định người ta vào một vị trí trong không gian và thời gian, lịch sử của một gia tộc bắt đầu khi có một người rời nhà ra đi.

Gia phả của người Trung Quốc, bắt đầu xuất hiện rộng rãi từ đời Tống cách đây hơn một nghìn năm, là một văn bản Nho giáo rất cứng nhắc. Mục đích của nó là để ghi chép lại những thành tựu và đạo đức của các thành viên trong gia tộc, tựa như tài liệu tuyên truyền của Đảng Cộng sản, người ta thích nhấn mạnh vào sự tích cực hơn. Các góa phụ tái hôn sau khi chồng chết - vi phạm vào khuôn phép của đạo Khổng - thường bị bỏ qua trong các trang gia phả, cũng như những người thiếp không có con và những người con trai đi tu. Danh sách các tội ác dẫn tới việc bị trục xuất tên ra khỏi gia phả rất dài. Theo một bộ luật được ban hành trong thời nhà Thanh, các tội này bao gồm: xúc phạm phần mộ tổ tiên, lập gia thất không môn đăng hộ đôi, có các hành vi bạo lực, làm đĩ, tham gia quân phiến loạn có vũ trang, phản quốc hoặc dị giáo, giấu giếm sự thật trước hoàng đế, bóp cổ đến chết một người mà không có lý do, hoặc lấy kỹ nữ, ca kỹ, nô lệ, hoặc người hầu làm vợ. Gia phả phản ánh quan điểm truyền thống của người Trung Quốc rằng mục đích của lịch sử không phải là để thuật lại các sự kiện hoặc ghi chép các câu chuyện, mà là để thiết lập một chuẩn mực đạo đức để hướng dẫn những người đang còn sống. Lịch sử không đơn giản chỉ là những gì đã xảy ra, mà là những gì lẽ ra đã xảy ra nếu con người cư xử như họ nên làm.

Ông tổ đầu tiên di cư đến nơi này Hoa Long

Thành thân với Lưu thị, cùng được chôn cất tại nghĩa địa huyện Khai Nguyên, Phụng Thiên

Hai con trai Dịch Quân, Dịch Chấn

Trong cuốn Phả hệ gia tộc họ Trương ở Cát Lâm mà Đồng Hiến đưa cho tôi, bản ghi về ông tổ đầu tiên di cư đến vùng đất này của chúng tôi, Trương Hoa Long, chỉ dài có năm dòng. Hầu hết các bản ghi tiếp theo cũng chỉ ngắn gọn như vậy. Một người đàn ông được xác định bởi tên của ông ta, họ của người vợ, tên của các con trai, và nơi chôn cất. Đó là những sự kiện duy nhất đáng để biết: liệu anh ta có tiếp tục dòng giống gia tộc hay không, và được chôn cất ở đâu để con cháu đời sau tỏ lòng tôn kính. Các bản ghi sau cung cấp thêm ngày sinh và ngày mất, thỉnh thoảng có một bản ghi liệt kê thành tựu, mặc dầu các bản ghi này cũng chỉ tuân theo một tiêu chuẩn hạn hẹp - bằng cấp, chức vụ, và các giải thưởng. Hầu hết các bản ghi chỉ tiếp tục liệt kê tên của người đàn ông, vợ, các con trai, nơi chôn cất. Việc thiếu vắng các chi tiết khác chỉ ra rằng người đàn ông này đã không đạt được điều gì đáng kể trong cuộc đời: ông ta là một người nông dân.

Bản ghi dài nhất trong cuốn gia phả thuộc về ông nội tôi.

Xuân Ân

Tên thường gọi Hạnh Phu, sau đổi thành Sân Phu

Đại học Quốc gia Bắc Kinh

Tốt nghiệp khoa Kinh tế

Sang Mỹ

Tốt nghiệp khoa kinh tế Đại học Chicago

Tốt nghiệp khoa Mỏ Đại học Michigan

Sau đó trở về Trung Quốc nhậm chức giám đốc kỹ thuật tại Cục Công nghiệp tỉnh Cát Lâm (một chức vụ cao hơn chuyên gia cao cấp)

Giám đốc và kỹ sư trưởng mỏ than Mục Lăng

Kỹ sư trưởng mỏ than Tiêu Tác

Dạy học tại Học viện Kỹ thuật Đường Sơn

Để chống lại quân Nhật, đứng đầu kế hoạch chiến lược sản xuất thủy ngân, thiếc và vonfram

Sinh năm 1899 Mất năm 1946

Vợ Lý Hương Hành

Tốt nghiệp trường cao đẳng Sư phạm Nữ Bắc Kinh

Các con trai Lập Dự, Lập Cương

Trong thế hệ của cha tôi, chỉ có một bản ghi duy nhất trong các chi phả hệ của gia đình: Lập Giao. Sinh năm 1917. Cả phần còn lại của trang giấy để trống.

Nhưng cuốn gia phả không mô tả nhiều về từng thành viên trong gia đình bằng việc xóa đi tất cả những điều khiến họ trở nên khác biệt. Đọc Phả hệ của gia tộc họ Trương ở Cát Lâm giống như việc đọc nhật ký của ông nội tôi. Các mô tả về ông bị khuyết ở cả những nơi mà tôi hy vọng sẽ tìm thấy. Bản ghi chép về ông nội tôi - mất năm 1946 - có thể đã đề cập đến vị trí chính xác trong hệ thống cấp bậc của chính phủ của ông - một vị trí cao hơn chuyên gia cao cấp - nhưng không nói gì về việc ông bị ám sát khi quay lại Mãn Châu, việc người vợ góa của ông phải một mình nuôi nấng năm đứa con, hay những đứa trẻ đó sẽ lớn lên và đi tới Đài Loan và Mỹ nhưng trong lòng luôn luôn hướng về quê hương, giống như bác Nellie của tôi:

Con trẻ lang bạt nơi hải đảo

Một lòng vẫn hướng về quê hương

Bản ghi về ông trẻ của tôi, Trương Phượng Ân - mất năm 1969- cũng không nói gì về việc tại sao ông chết, tự tử vào một đêm mùa hè trong làng sau khi bị đánh dập và lăng mạ bởi những người thân trong chính gia tộc của mình. Gia phả cũng không đề cập đến việc Trương Lập Cách - thuộc thế hệ thứ mười, được nêu tên trong trang năm mươi lăm của cuốn gia phả - là kẻ cầm đầu đám người hành hạ ông. Gia phả cũng không ghi chép rằng Trương Đồng Hiến - thuộc thế hệ thứ mười một, ghi chép ở trang ba mươi bảy - đã chứng kiến vụ việc đó khi còn là một đứa trẻ.

Nhưng có lẽ đó là bí mật của cuốn gia phả, lý do của truyền thống không ghi chép các vấn đề riêng tư của từng cá nhân đã tồn tại hàng nghìn năm qua. Bằng cách chỉ bám vào các thông tin thiết yếu - tên, vợ, con trai, nơi chôn cất - gia phả áp đặt nền nếp trật tự và sự hài hòa lên sự tồn tại của con người. Gia phả tô hồng những sự thật về một thế giới đã không cư xử như lẽ ra nó phải làm, và có lẽ là sẽ không bao giờ làm. Ý nghĩa của việc tiếp tục truyền thống này cũng thật là kỳ lạ. Mười bốn thế hệ sau khi tổ tiên của chúng tôi tới Mãn Châu, phần lớn các con cháu trong gia tộc vẫn được đặt tên theo thứ tự được đặt bởi ông cổ của tôi vào sáu thế hệ trước.

Cuốn gia phả còn chứa một sự bất ngờ bị che giấu. Ông tổ đầu tiên của gia tộc tôi đã rời huyện Uyển Bình ở tỉnh Hà Bắc để tới Mãn Châu. Khi tra cứu tài liệu, tôi phát hiện ra rằng Uyển Bình là một phần của Bắc Kinh ngày nay. Ông nội tôi đã rời Bắc Kinh năm 1920 để du học tại Mỹ, để có thể giúp đỡ đất nước. Cha tôi rời Bắc Kinh năm 1948 trên một trong những chuyến bay cuối cùng rời khỏi thành phố, khi phe Dân quốc gần như đã thua trận. Và từ Mỹ tôi quay trở lại sống ở Bắc Kinh, nơi mà ông tổ đầu tiên của gia tộc đã rời khỏi cách đây ba trăm năm.

***

Vào mùa đông năm 2005, tôi tới Thẩm Dương để gặp người đàn ông đã thề sẽ trả thù gia đình tôi. Trương Hồng hẹn gặp tôi ở cổng trường Đại học Kỹ thuật Thẩm Dương, nơi ông ta dạy môn vi tính. Ông ta có gương mặt dài nhợt nhạt, mũi cao cùng các nếp nhăn hằn sâu hai bên khóe miệng - gương mặt giống cha tôi, mặc dầu các đường nét sâu hơn khiến ông ta trông buồn bã hơn. Ông ta có mái tóc gợn sóng lòa xòa kiểu các ca sĩ thần tượng thiếu niên, mặc chiếc quần sẫm màu và chiếc áo len dài tay kiểu polo có hình con cá sấu trên ngực đang quay đầu ngược hướng so với hình trên áo chính hãng. Trương Hồng bắt tay tôi không hề mỉm cười, đôi mắt đen nhìn tôi chăm chú một cách điềm tĩnh sau cặp kính đầy trí thức. Tôi có cảm giác rằng ông ta hiếm khi mỉm cười.

Ông ta dẫn tôi đi qua khu học xá đến một tòa nhà vắng vẻ và leo lên các cầu thang tối đen như mực. Văn phòng của ông ta rất đơn sơ, với hai chiếc bàn gỗ kê sát đối diện nhau.

Ông dửng dưng trước nỗi thống khổ của chúng tôi và hả hê trước sự bất hạnh của chúng tôi.

Tôi không bao giờ nghĩ rằng cha tôi cuối cùng lại bị trừng phạt vì các ông, những người anh em ruột thịt!

Trương Hồng lấy ra một máy ghi âm cầm tay. “Cô có bằng lòng cho tôi ghi âm cuộc trò chuyện ta không?” Ông ta hỏi. “Trí nhớ của tôi rất tệ.” Chắc là trông tôi có vẻ sửng sốt lắm, nên ông ta nhanh chóng cất cái máy ghi âm đi.

“Cô đang viết cuốn sách này theo quan điểm nào?” Trương Hồng tiếp tục hỏi. “Quan điểm của nhân dân Trung Quốc?”

Tôi suy nghĩ về câu hỏi này, một câu hỏi thật là mang tính đặc trưng Trung Quốc. “Cháu viết cuốn sách này theo quan điểm của bản thân cháu,” cuối cùng tôi nói. Ông ta kể rằng mình cũng đang viết sách, về lịch sử của gia tộc chúng tôi. Cuốn sách bao gồm ba phần: Hưng thịnh, Suy tàn, Phục hưng. Ông ta đã nghiền ngẫm về nó trong vòng mười lăm năm.

Trong hai ngày tôi gặp Trương Hồng, ông ta luôn tỏ ra lịch sự. Ông ta đưa tôi về nhà gặp vợ và con trai, ông mời tôi ăn tối và ăn bữa trưa vào ngày kế tiếp. Ông ta nói rằng cuộc trò chuyện của chúng tôi là một trong những điều quan trọng nhất mà ông đã trải nghiệm trong cả năm nay. Ông ta không đả động gì đến bức thư đầy hằn học đã gửi cho cha tôi nhiều năm về trước, tôi cũng không đề cập tới việc này.

TRƯƠNG HỒNG MỚI BA TUỔI khi cha ông ta bị gán cho tội danh là phần tử cánh hữu, thậm chí khi đó dù mới chỉ là một đứa trẻ ông ta đã cảm thấy hổ thẹn vì thân phận chính trị đó. Nếu một người lớn nói chuyện với ông ta, ông ta lập tức sẽ thú nhận tội lỗi của gia đình: Cha cháu là phần tử phái hữu. Nhưng khi không có ai ở xung quanh ông ta sẽ hét lên những lời nguyền rủa. Đả đảo Đảng Cộng sản! Cuộc cách mạng của Trung Quốc đã thất bại! “Tôi cho rằng có hai mặt tồn tại trong con người tôi,” Trương Hồng nói. “Một mặt hét lên những lời nguyền rủa đó và một mặt nói với mọi người “Cha cháu là phần tử phái hữu”. Thật khó mà giải thích được điều gì nảy sinh ở trong trí óc một đứa trẻ.”

Cha Trương Hồng bị buộc thôi việc giảng dạy ở trường đại học và bị đưa xuống nông thôn lao động chân tay. Mẹ ông bị đưa tới bệnh viện tâm thán với lời chẩn đoán của bác sĩ là mắc chứng tâm thần phân liệt. “Tình trạng chính trị của cha tôi đã dẫn đến điều đó,” Trương Hồng nói sau đó cha ông ta cũng bị đưa vào bệnh viện. Nhìn lại quá khứ, Trương Hồng không thể nhớ nổi ai đã trông nom ông và người em trai trong suốt thời gian dài đó. Vào một học kỳ, hai anh em nội trú tại trường để nhờ các thầy cô giáo chăm sóc, và trong những kỳ nghỉ thì hai anh em được đưa đến sống cùng với các bác bảo vệ ở trường đại học. Khi Trương Hồng lên tám tuổi, cha mẹ ông ta ly dị, rồi ba năm sau bà mẹ bỏ đi biệt tích.

Cách mạng Văn hóa đã triển khai ở các trường học rõ rệt hơn bất kỳ nơi nào. Nạn nhân bị đánh đập trong các lớp học và bị bắt đi diễu quanh các sân chơi thể thao, bị các giáo viên đồng nghiệp đấu tố và bị học sinh cũ hành hạ. Văn hóa truyền thống Trung Quốc luôn coi trọng hàng đầu việc dạy và học. Việc trường học trở thành địa điểm của sự lăng mạ và tra tấn là một trong những điều làm cho cuộc Cách mạng Văn hóa trở nên quá đỗi khủng khiếp.

Giờ đây thỉnh thoảng trong khuôn viên của trường, Trương Hồng vẫn chạm trán những người đã từng tấn công cha mình; giống như ông, họ vẫn ở lại nơi này. Một người đàn ông khi còn là sinh viên đã nổi tiếng vì ra những đòn đánh tàn bạo. Sau Cách mạng Văn hóa, anh ta đến gặp cha Trương Hồng nói lời xin lỗi.

BUỔI TỐI HÔM ĐÓ, tôi đi ăn lẩu cùng gia đình Trương Hồng. Vợ ông ta có gương mặt béo tròn và mái tóc uốn quăn. Bà ta làm ở phòng kế toán của một công ty bất động sản. Con trai ông là sinh viên năm thứ hai, đang học ngành kế toán. Trong bữa ăn, Trương Hồng nói chuyện với tôi hai tiếng đồng hồ về Đảng Cộng sản và đạo Khổng, sử dụng các câu tục ngữ và những lời trích dẫn mà tôi không hiểu. Shakespeare được nhắc đến, rồi cả Tolstoy và Beethoven nữa. Tôi nhớ rằng Trương Hồng chỉ mới tốt nghiệp lớp bảy.

Mao Trạch Đông đã nói: Nếu đội quân của bạn chỉ còn một chiến sĩ, hãy để cho chiến sĩ đó tấn công.

Beethoven đã nói: Có hàng nghìn hoàng tử, nhưng chỉ có một Beethoven.

Vợ con Trương Hồng không tham gia vào cuộc trò chuyện. Họ chỉ lặng lẽ nhìn vào khoảng trống trước mặt, giống như mọi người quen với tình trạng người họ hàng đang ở trong tình trạng bệnh tật đáng xấu hổ. Vợ Trương Hồng chỉ nói một lần. Khi chồng bà hỏi tôi có biết một câu nói nổi tiếng của Khổng Tử hay không - tôi nói là không biết - thì bà lặng lẽ nói: “Ai cũng học theo nền văn hóa của nơi người ấy trưởng thành.”

Con trai của Trương Hồng cũng không nói gì. Cậu ta là một thanh niên đẹp trai với đôi mắt tròn sẫm màu và mái tóc ngắn lởm chởm. Mỗi lần tôi nhìn cậu ta, cậu ta lại nở nụ cười chân thành nhưng đầy ranh mãnh, tựa như cậu ta hiểu rằng mọi thứ mà cha cậu ta và tôi đang nói là vô nghĩa nhưng cậu ta hiền lành nên không thốt lên điều đó. Sau đó tôi hỏi Trương Hồng liệu ông có nghĩ rằng con trai ông ta một ngày nào đó sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu giành lại sự trong sạch cho thanh danh của cha ông hay không. Ông ta đáp rằng không, và ông kể lại một cuộc trò chuyện giữa hai cha con. “Bây giờ là thời đại kinh tế,” con trai Trương Hồng đã nói với ông, “Đảng chỉ quan tâm đến kinh doanh thôi, vấn đề của cha là vấn đề chính trị. Nếu cha tìm kiếm ở Đảng một câu trả lời, cha sẽ chẳng bao giờ nhận được đâu.”

NHỮNG GÌ MÀ TRƯƠNG HồNG ĐÃ PHẢI CHỊU ĐỰNG suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa chẳng có gì là khác thường so với mọi người. Thậm chí những chi tiết kỳ lạ của lịch sử gia đình ông - vụ ly dị, chứng bệnh tâm thần phân liệt - cũng chỉ là bình thường trong một thời đại mà nhiều cá nhân, và gia đình tan vỡ dưới áp lực của truy bức. Trong hầu hết các trường hợp, những trải nghiêm của Trương Hồng phản ánh những trường hợp tương tự của gia đình bác Lập Giao - mang danh phần tử phái hữu, mất việc làm ở trường đại học, cả thập kỷ lao động ở nông thôn. Thậm chí, gia đình bác Lập Giao còn tổn thất nặng nề hơn: cả bố mẹ bác đều chết tức tưởi ở quê hương, trong khi đó bố mẹ Trương Hồng đều sống sót.

Gia đình Trương Hồng bất bình thường ở một khía cạnh: họ phản kháng lại. Khi cha ông ta bị gọi là phần tử phái hữu trong những phiên đấu tố, ông đáp trả: “Cứt!” Nếu một Hồng vệ binh đấm vào mặt ông, ông đấm trả. Ông đã viết những lá thư cam đoan về sự vô tội của mình, bắt đầu bằng việc gửi tới Đảng ủy Thẩm Dương và gửi tới các cấp cao hơn. Đầu những năm 1970, cha của Trương Hồng đã gửi thư cho Mao Chủ tịch và vợ ông là Giang Thanh, thậm chí ông còn tới Bắc Kinh để đưa đơn kiến nghị rửa sạch thanh danh cho mình.

Vào năm 1978, Đảng Cộng sản lập ra các ủy ban để rà soát và sửa sai cho hàng trăm nghìn nạn nhân của hai thập kỷ đấu tố chính trị. Theo nhận định của Đảng Cộng sản, phong trào chống phái hữu đã “mở rộng không cần thiết”, với nhiều người bị buộc tội là phần tử phái hữu “một cách lầm lẫn”. Việc này đi theo hướng tiếp cận từng mẩu cụ thể với lịch sử do Đặng Tiểu Bình sắp đặt, cho phép sửa sai cho từng cá nhân mà không nêu cụ thể liệu có phải bản thân phong trào là sai hay không. Nhưng con số nạn nhân lại nói lên điều đó. Trên khắp đất nước Trung Quốc, hơn nửa triệu người bị buộc tội là phần tử phái hữu - không phải tất cả nhưng cũng phải đến chín mươi sáu phần trăm cuối cùng đã được kết luận là bị buộc tội oan.

Cha của Trương Hồng đòi bồi thường cho khoản tiền lương ông đã bị mất, trường đại học trả cho ông mười một nghìn nhân dân tệ - hơn 1.300 đô la Mỹ, một khoản tiền lớn vào giữa những năm 1990. Trường còn nhận Trương Hồng vào học một khóa hai năm về máy tính và xếp cho ông một công việc giảng dạy sau khi tốt nghiệp. Trường học còn cố gắng bỏ đi danh hiệu phần tử phái hữu của ông ta, nhưng cha Trương Hồng không đồng ý. Ông mong muốn trường phải nói là ông chưa bao giờ là phần tử cánh hữu - một lời tuyên bố triệt để mà không quan chức nào muốn nói ra cả.

Thái độ duy lý của gia đình Trương Hồng có phần kỳ lạ. Khi ai đó bị quy chụp là phần tử phái hữu trong những năm 1950, điều này phải được xác nhận bởi một đảng ủy Đảng Cộng sản của thành phố. Ở Trung Quốc, đến cả việc săn lùng phù thủy cũng phải tuân theo các thủ tục mang tính quan liêu. Nhưng trong trường hợp của cha Trương Hồng, cái mác này đã không được chính thức thông qua. Lý lẽ của ông ta là không phải phán quyết đó là sai lầm, mà là nó không tuân thủ đúng quy trình. Đối đầu với một trong những thời kỳ hỗn loạn nhất trong lịch sử Trung Quốc, cha của Trương Hồng đã lựa chọn việc tranh cãi theo hướng chuyên môn.

Trong một chuyến đi tới Bắc Kinh, em trai của Trương Hồng đã chết đuối trên một con kênh ở vùng ngoại vi phía Bắc thành phố, rõ ràng là một vụ tự tử. Sau khi cha mất vào năm 2001, Trương Hồng tiếp tục theo đuổi vụ kiện của cha mình. Ông viết thư gửi tới nhà trường và chính quyền thành phố, tới Ban Lịch sử của Đảng Cộng sản, tới tòa án, tới cả văn phòng của Thủ tướng. Ông nói với tất cả họ rằng cha mình chưa bao giờ là phần tử phái hữu, bởi vì ông đã bị gán tội không theo đúng quy định. Một vài nơi gửi thư trả lời rằng họ không thể xử lý trường hợp này vì lý do này lý do kia, còn hầu hết không trả lời. Trương Hồng giống như một tù nhân tiếp tục chứng minh sự vô tội của mình một thời gian dài sau khi cửa phòng giam đã mở và những người cai ngục đã cuốn gói cao chạy xa bay.

TRƯỚC KHI RỜI THẨM DƯƠNG, tôi ăn trưa cùng Trương Hồng và một người bạn của ông hiện làm việc ở phòng kỹ thuật của Tân Hoa xã. Người bạn này chuẩn bị đi công tác tại Ai Cập theo nhiệm kỳ ba năm. Hầu hết những người được Tân Hoa xã cử đi công tác ở nước ngoài nghe nói là điệp viên của chính phủ, nhưng tôi quyết định rằng bây giờ không phải là thời điểm tốt nhất để khám phá vấn đề đó. Tôi hỏi Trương Hồng cuốn sách của ông viết tới đâu rồi.

“Tôi đã viết sáu vạn từ, nhưng tôi chỉ mới viết đến giai đoạn Đại Nhảy Vọt,” ông nói. “Cả cuốn sách phải cỡ sáu mươi vạn từ.”

“Đại Nhảy Vọt,” tôi nhắc lại, mà thâm tâm đột nhiên cảm thấy rất mệt mỏi.

Người đàn ông làm ở Tân Hoa xã nói với vẻ ngạc nhiên: “Chị cũng biết về Đại Nhảy Vọt à?”

Tôi hỏi Trương Hồng: “Tại sao chú chưa viết xong sách?”

“Sức khỏe tôi kém,” ông nói, “vì vậy tôi chỉ viết sách khi nào có thể viết thôi.” Ông ngừng lời. “Nói thật là, tôi không biết nên tiếp cận lịch sử từ góc độ nào. Tôi nên nhìn nhận về quá khứ như thế nào? Tôi có nên nói mọi việc đã xảy ra là sai? Hay tôi nên chấp nhận điều đó?”

“Chú không thấy tiếc về tất cả những điều tồi tệ đã xảy ra à?” Tôi hỏi.

“Trong suốt thời gian đó cũng có rất nhiều người đối xử tốt với chúng tôi,” Trương Hồng đáp. “Tôi phải quyết định quan điểm của mình về việc nhìn nhận thời kỳ đó. Hoặc là tôi có thể kết hợp cả hai quan điểm, nhưng điều này không được thú vị lắm.”

Sau bữa trưa, Trương Hồng đưa tôi quay trở lại căn hộ của ông. Ông có một số tài liệu về ông nội tôi mà ông muốn đưa cho tôi. Trong phòng ngủ tù túng rộng gấp đôi văn phòng của ông, Trương Hồng lấy ra hai túi ni lông và đổ các thứ bên trong túi ra: những bản photocopy sờn rách, các bài xã luận, thư từ. Giấy, giấy, cơ man là giấy. Ngay khi tôi nhìn thấy hệ thống lưu trữ tài liệu của Trương Hồng, tôi nhận ra rằng ông sẽ không bao giờ viết xong cuốn sách của mình.

Chồng tài liệu bao gồm các lá thư mà cha ông đã viết để gửi cho nhiều cơ quan chính quyền, một văn bản xác nhận cha ông nhập viện tâm thần vào giữa những năm 1960, một lá thư gửi từ đơn vị làm việc của em trai ông sau khi người em này tự tử, xác nhận rằng người đã khuất là một công nhân chăm chỉ, và một tờ giấy xác nhận được ký bởi một viên chức tám mươi mốt tuổi đã về hưu, người không thể nhớ liệu cha của Trương Hồng có bị gán là phần tử phái hữu hay không. Giấy tờ của vụ ly dị, tiền cấp dưỡng cho vợ sau khi ly dị, các thẻ báo cáo. Liên quan đến ông nội tôi, Trương Hồng có một vài bài báo cắt ra - mà tôi cũng đã có rồi - và hai bài báo lấy từ mạng Internet với những suy luận vô tích sự về vụ giết ông nội tôi.

Trương Hồng ghi bản kiểm kê mỗi lần ông gửi thư hoặc lời yêu cầu thay mặt cho cha mình. Từ năm 1993 đến năm 2005, có năm mươi mốt lần, năm 2002 có mười một lần, và mười hai lần trong năm 2003. Lá thư gần đây nhất, gửi Tòa án Nhân dân tối cao, được viết năm ngày trước chuyến thăm của tôi.

CHO TỚI KHI TÔI GẶP TRƯƠNG HỒNG, thật không thể nào tưởng tượng được ông ta giống như một vị anh hùng. Trong một thế giới mà hầu hết mọi người chọn cách im lặng và quên lãng, thì ông dám đứng lên và nói ra. Trong suốt lịch sử Trung Quốc, đã có những người như vậy - những nhà chép sử cá nhân, viết những ghi chép của riêng mình về các sự kiện trong khi chính sử lại quá ngắn gọn. Trương Hồng tin tưởng vào tầm quan trọng của câu chuyện của ông, và ông nói điều này với bất kỳ ai chịu lắng nghe.

Nhưng nỗ lực của ông không dẫn tới một sự rõ ràng sáng sủa nào - thay vào đó, nó đã bóp méo suy nghĩ của ông đến mức không thể cứu chữa được. Ông khẳng định rằng cha mình không phải là phần tử phái hữu, nhưng không nhận ra rằng toàn bộ phong trào chống các phần tử phái hữu đã là vô nghĩa. Ông có bản năng của chủ nghĩa cá nhân - chỉ có một Beethoven và chỉ có một Trương Hồng, ông khẳng định - nhưng những ý tưởng thì lại lẫn lộn một cách tuyệt vọng. Tôi nên nhìn nhận về quá khứ như thế nào? Ông đã hỏi tôi, tựa như tôi có thể cho ông câu trả lời.

Trong các thành phố nhà máy phía Nam, tôi đã gặp những cô gái trẻ và xem cách họ học trở thành những con người độc lập như thế nào. Họ đã tìm được việc làm, họ đương đầu với các ông chủ, họ cố gắng học các kỹ năng mới. Hầu hết trong số họ bắt đầu tin rằng mình đã trở thành người quan trọng, mặc dầu có xuất thân thấp kém. Đừng cảm thấy xấu hổ vì chúng ta chỉ là những công nhân di trú bình thường, Xuân Minh đã viết như vậy trong nhật ký của cô. Chúng ta không có lý do gì phải cảm thấy thấp kém cả. Còn trong thế giới của Trương Hồng, mọi thứ vẫn đang là năm 1957. Ông ta yêu bản thân mình, ông cũng ghét bản thân mình. Ông ghét Mao, nhưng lại thường xuyên trích dẫn lời của Mao. Ông khinh miệt Đảng Cộng sản, nhưng lại ở trong hàng ngũ đảng viên. Cuộc Cách mạng Trung Quốc đã thất bại! Cha tôi là phần tử cánh hữu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3