Biển quái vật - Chương 08 - Phần 1

8. Chúng tôi lên con tàu có tên Công chúa Andromeda

Tôi đang ngắm những con sóng nhấp nhô khi Annabeth và Tyson
tìm thấy tôi.

“Có chuyện gì thế?” Annabeth hỏi. “Tớ nghe thấy cậu gọi kêu
cứu.”

“Tớ cũng nghe thấy!” Tyson nói. “Nghe cậu kêu to, “Có chuyện
tồi tệ đang tấn công!’”

“Tớ không gọi các cậu!” tôi đáp. “Tớ ổn.”

“Thế nhưng ai…” Annabeth chợt nhận ra ba chiếc túi vải dùng
để đi du lịch màu vàng, rồi cả cái bình và cái lọ vitamin mà tôi đang cầm. “Cái
gì thế…?”

“Nghe này,” tôi nói. “Chúng ta không có nhiều thời gian
đâu.”

Tôi kể cho họ về cuộc trò chuyện của tôi với thần Hermes. Và
khi tôi vừa kể xong, tôi có thể nghe thấy tiếng rít từ đằng xa – các nữ yêu
quái mình người cánh chim thuộc đội tuần tra đã ngửi thấy mùi của chúng tôi.

“Percy này,” Annabeth nói, “chúng ta phải thực hiện cuộc tìm
kiếm này.”

“Chúng ta sẽ bị trục xuất ra khỏi trại, cậu biết đấy. Hãy
tin tớ. Tớ là một chuyên gia bị đuổi mà.”

“Thì sao nào? Nếu chúng ta thất bại cũng chẳng còn trại nào
để quay về cả.”

“Ừ, nhưng cậu đã hứa với bác Chiron rằng…”

“Tớ hứa sẽ giúp cậu khỏi nguy hiểm. Tớ chỉ có thể làm được
điều đó nếu đi cùng cậu. Tyson có thể ở lại và nói với họ…”

“Tớ muốn đi,” Tyson phản đối.

“Không được!” Giọng của Annabeth gần như hoảng sợ. “Ý tớ là…
Percy, thôi nào. Cậu biết chuyện này không thể mà.”

Tôi lại tự hỏi tại sao cô ấy lại có mối hận thù đối với
người Cyclops tới vậy. Có điều gì đó cô ấy không kể cho tôi.

Cả Annabeth và Tyson đều nhìn tôi, chờ đợi câu trả lời. Lúc
này, con tàu biển đang tiến ngày càng xa hơn.

Vấn đề là, một phần trong tôi không hề muốn cho Tyson đi
cùng. Tôi đã có ba ngày qua quá gần gũi với cậu ấy, để rồi bị các trại viên
chòng ghẹo và xấu hổ tới hàng triệu lần trong một ngày. Điều này nhắc nhở tôi
rằng tôi có quan hệ họ hàng với Tyson. Tôi cần có một không gian riêng.

Hơn nữa, tôi không biết cậu ấy có thể giúp tôi đến mức nào
hoặc làm thế nào để giúp cậu ấy được an toàn. Chắc chắn rằng Tyson rất khỏe
mạnh nhưng cậu ấy vẫn chỉ là một đứa con nít theo ngôn ngữ của người Cyclops,
có lẽ cậu ấy chỉ như đứa trẻ bày, tám tuổi. Tôi có thể thấy được hình ảnh cậu
ta hoảng sợ và bắt đầu òa khóc khi chúng tôi đang cố để thoát khỏi một con quái
vật hay cái gì đó tương tự. Cậu ấy sẽ làm tất cả chúng tôi bị giết mất.

Mặt khác, tiếng của các nữ yêu quái mình người cánh chim
đang vọng tới ngày càng gần hơn…

“Chúng ta không thể để cậu ấy lại,” tôi quyết định.
“Tantalus sẽ trừng phạt cậu ấy vì đã để chúng ta đi.”

“Percy,” Annabeth nói, cố gắng giữ điềm tĩnh, “Chúng ta đang
tới đảo của Polyphemus. Polyphemus là một… S-i-k… một C-y-k…” Cô ấy dậm chân
với vẻ thất vọng. Thông minh như Annabeth mà giờ cũng như người mắc bệnh khó
đọc. Chúng tôi không thể ở đây cả đêm để chờ cô ấy đánh vần chữ Cyclops. “Cậu
biết tớ có ý gì rồi đấy!”

“Tyson có thể đi cùng,” tôi khăng khăng, “nếu cậu ấy muốn.”

Tyson vỗ tay reo lên. “Muốn đi mà!”

Annabeth liếc tôi bằng con mắt khó chịu nhưng tôi đoán rằng
cô ấy có thể khẳng định rằng tôi sẽ không đổi ý. Hoặc có thể cô ấy biết rằng
chúng tôi không có thời gian để cãi nhau.

“Được thôi,” cô ấy nói. “Giờ làm thế nào chúng ta lên được
con tàu đó?”

“Thần Hermes nói rằng cha tớ sẽ giúp.”

“Vậy thì Óc Tảo Biển, cậu còn chờ gì nữa?”

Tôi luôn thấy khó khăn khi gọi cha mình hoặc cầu xin ông,
hoặc bất cứ thứ gì mà các bạn muốn gọi, nhưng tôi tiến thẳng vào các con sóng.

“Ừm, cha ơi,” tôi cất tiếng. “Cha khỏe không?”

“Percy!” Annabeth thầm thì. “Chúng ta vội lắm đấy!”

“Chúng con cần cha giúp!” Tôi nói to hơn. “chúng con cần lên
con tàu trước khi chúng con bị ăn thịt hay thứ gì tương tự như thế, nên…”

Thoạt đầu, không có gì diễn ra. Những con sóng vẫn vỗ bờ như
bình thường. Âm thanh từ đám nữ yêu quái mình người cánh chim vọng tới như thể
họ đã ở ngay sau đụn cát. Rồi khoảng một trăm mét trên mặt biển xuất hiện ba
dòng nước trắng. Chúng di chuyển rất nhanh về phía bờ, như thể những bộ vuốt xé
rách đại dương.

Khi chúng tới gần bờ, những con sóng nổ tung và đầu của ba
con ngựa trắng nhô ra khỏi những con sóng.

Tyson nín thở, thầm thì “Ngựa cá kìa!”

Cậu ấy đã nói đúng. Khi những sinh vật đó tiến lên nãi cát,
tôi nhận thấy thân trước chúng mang hình ngựa, còn nửa thân phía sau lại là
mình cá màu bạc với những chiếc vảy óng ánh và vây hình cầu vồng.

“Cá ngựa!” Annabeth reo lên. “Chúng mới đẹp làm sao!”

Con gần nhất hí vang tán thưởng và dụi mõm vào Annabeth.

“Chúng ta sẽ thưởng thức chúng sau,” tôi nói. “Giờ đi thôi.”

“Chúng đây rồi! Một tiếng rít chói tai vang lên phia sau
chúng tôi. “Lũ trẻ hư trốn khỏi nhà kìa. Tới giờ ăn điểm tâm cho các nữ quái
mình người cánh chim may mắn rồi!”

Năm người trong số họ vẫy cánh đầy kích động trên đỉnh những
đụn cát. Chúng là lũ phù thuỷ béo mẫm lùn dí với những gương mặt nhăn nhó, đầy
móng vuốt và những đôi cánh lông vũ quá nhỏ so với thân hình. Chúng nhắc tôi
nhớ tới những quý bà trong các quán ăn tự phục vụ được thu nhỏ - những người
được lai giống với lũ chim  cưu. Ơn trời, họ không được nhanh nhẹn
cho lắm nhưng họ sẽ rất nguy hiểm nếu tóm được chúng tôi.

“Tyson!” tôi giục. “Cầm lấy chiếc túi đi”.

Cậu ấy vẫn đang há hốc mồm ngắm nghía không chán lũ ngựa
biển.

“Tyson!”

“Gì thế?”

“Đi nào!”

Được Annabeth giúp đỡ, tôi cũng thúc cậu ấy chịu đi. Chúng
tôi nhặt các mũi tên và cưỡi lên lũ ngựa. Thần Poseidon hẳn phải biết có Tyson
đi cùng vì một con ngựa biển lớn hơn hai con kia rất nhiều – rất phù hợp để chở
một Cyclops.

“Đi nào!” Tôi hét vang. Con ngựa của tôi xoay người lại và lao
thẳng vào những con sóng. Ngựa của Annabeth và của Tyson cũng theo ngay sau
tôi.

Các nữ yêu quái mình người cánh chim nguyền rủa chúng tôi,
rền rĩ kêu món điểm tâm của chúng quay trở lại. Nhưng lũ ngựa biển đã phi băng
băng trên mặt nước với tốc độ của những chiếc moto nước. Lũ yêu quái mình người
cánh chim bị bỏ lại phía sau và chẳng mấy chốc bờ biển của Trại Con Lai chỉ còn
là một đường mờ tối. Tôi tự hỏi liệu mình còn cỏ thể nhìn thấy nơi này nữa
không. Nhưng ngay lúc này tôi lại có những vấn đề khác.

Con tàu du lịch giờ đây đang hiện ra sừng sững trước mặt
chúng tôi – chuyến đi của chúng tôi về hướng Florida và Biển Quái Vật.

Cưỡi ngựa biển thậm chí còn dễ hơn cưỡi thần mã Pegasus.
Chúng tôi lao vun vút với gió sượt qua mặt, êm ái và vững vàng lướt nhanh qua
những con sóng khiến tôi hầu như không cần ôm chặt lấy nó.

Khi chúng tôi tiến sát gần con tàu, tôi nhận ra nó mới to
lớn làm sao. Tôi có cảm giác như mình đang ngắm một toà nhà ở Manhattan vậy. Thân tàu màu trắng cao ít nhất
mười tầng, phía trên đó lại có tới một tá tầng khác với những chiếc ban công và
ô cửa sổ được chiếu sáng. Tên con tàu được sơn màu đen ngay trên mũi tàu và
được chiếu sáng bằng các ngọn đèn pha. Tôi phải mất vài giây mới có thể giải mã
được nó:

CÔNG CHÚA ANDROMEDA

Đỉnh ở mũi tàu là một cột buồm khổng lồ - một phụ nữ cao ba
tầng với áo mặc trong của người Hy Lạp màu trắng, được chạm trổ như thể bị xích
vào phía trước con tàu. Cô ta nom rất trẻ và đẹp với mái tóc đen rủ xuống nhưng
vẻ mặt lại đầy khiếp sợ. Tôi thật không thể hiểu tại sao người ta lại muốn một
công chúa đang la hét được gắn vào phía trước con tàu nghỉ mát của họ?

Tôi nhớ lại thần thoại về Andromeda(26) và việc cô bị xích
vào một tảng đá bởi bố mẹ mình như một vật hiến tế cho một con thuỷ quái như
thế nào. Có thể cô ta có quá nhiều điểm F trong bảng điểm, hoặc điều gì đó. Dù
thế nào đi chăng nữa thì người trùng tên với tôi, Perseus, cũng đã kịp cứu cô
ta và biến thuỷ quái thành đá bằng đầu của Medusa.

Anh chàng Persius đó luôn chiến thắng. Đó
là dý do tại sao mẹ tôi đã đặt tên tôi giống tên anh ta, mặc dù anh ta là con
trai thần Zeus và tôi là con trai thần Poseidon. Perseus thứ thiệt là vị anh
hùng duy nhất trong thần thoại Hy Lap có cái kết có hậu. Những ngừơi khác đều
chết do bị phản bội, thương tật, bị đầu độc hoặc bị nguyền rủa bởi các vị thần.
Mẹ tôi hy vọng rằng tôi được thừa hưởng may mắn của Perseus. Xét thấy cuộc đời
mình diễn ra từ trước đến nay, tôi thật chẳng lạc quan chút nào.

“Làm thế nào lên được thuyền?” Annabeth gào to hơn cả tiếng
sóng ì ầm, nhưng lũ ngựa biển như hiểu chúng tôi cần gì. Chúng bay sát mạn phải
của con tàu, nhẹ nhàng đi xuyên qua đường rẽ nước khổng lồ của nó, và dừng lại
kế bên chiếc thang được gắn cố định ở một bên thân tàu.

“Cậu lên trước đi!” tôi giục Annabeth.

Cô ấy đeo chiếc túi vải trên vai và chộp vội lấy thanh ngang
bên dưới của chiếc thang. Khi cô ấy đã nhấc được người lên trên cái thang, con
ngựa biển mà cô ấy cưỡi đã hí vang tạm biệt và lặn xuống mặt nước. Annabeth bắt
đẩu trèo. Tôi chờ cô ấy chèo lên trên được vài bậc liền theo sát.

Cuối cùng chỉ còn Tyson đang ở dứoi nước. Con ngựa biển của
cậu ấy đang thực hiện những cú xoay trên không một vòng 360 độ và cú nhảy giật
lùi. Tyson đang cừơi đầy vui vẻ, tiếng cừơi vang cả một mạng tàu.

“Tyson, suỵt!” Tôi giục giã. “Đi nào, anh bạn to lớn!”

“Chúng ta không thể mang Cầu vồng theo sao?” cậu ấy hỏi, nụ
cười mất dần.

Tôi nhìn cậu ấy chằm chằm. “Cầu vồng ư?”

Con ngựa biển hí vang như thể nó thích cái tên mới của mình.

“Ừm, chúng ta phải đi thôi,” tôi nói. “Cầu vồng… ừm, nó
không thể trèo cẩu thang được.”

Tyson sụt sịt. Cậu ấy giấu mặt trong bộ bờm ngựa. “Tao sẽ
nhớ mày lắm, Cầu vồng à!”

Con ngựa biển hí lên một tiếng mà tôi có thể thề đó là tiếng
khóc của nó.

“Có lẽ sau này chúng ta sẽ gặp lại nó,” tôi gợi ý.

“Ôi, xin cậu đấy!” Tyson nói và phấn khởi ngay lập tức:
“Ngày mai!”

Tôi không đưa ra lời hứa hẹn gì cả nhưng cuối cùng tôi cúng
thuyết phục được Tyson nói lời từ giã với con ngựa và nắm lấy cái thang. Với
một tiếng hí buồn rẩu cuối cùng, con ngựa Cầu vồng thực hiện một củ lộn ngược và
lao vụt xuống mặt biển.

Cái thang dẫn tới tầng bảo dưỡng chứa đầy những chiếc thuyền
cứu sinh màu vàng. Có cửa hai cánh bị khóa mà Annabeth đang thử mở bằng con dao
của mình và một số lời nguyền rủa bằng tiếng Hy Lạp cổ.

Tôi đoán chúng tôi phải lén lút đi vòng quanh, trở thành
những kẻ đi lậu vé. Nhưng sau khi kiểm tra vài hành lang và nhìn chăm chú từ
một ban công vào boong tàu dạo mát khổng lồ ở khu vực trung tâm với các cửa
tiệm đóng kính, tôi nhận ra rằng trên tàu không có ai để chúng tôi phải lẩn trốn.
Ý tôi là, hẳn bây giờ đang là nửa đêm và chúng tôi đi được nửa chiều dài con
tàu và chẳng gặp một ai. Chúng tôi băng qua bốn mươi hoặc năm mươi cánh cửa của
các buồng trên tàu và không hề nghe thấy bất kỳ tiếng động gì đằng sau chúng.

“Đây là con tàu ma!” tôi thì thầm.

“Không phải,” Tyson cãi và nghịch vớ vẩn với vai chiếc túi
của cậu ấy. “Mùi rất tệ.”

Annabeth cau mày. “Tớ chả ngửi thấy mùi gì cả.”

“Cyclops cũng như các thần rừng ấy,” tôi giải thích. “Họ có
thể ngửi thấy mùi quái vật. Đúng không, Tyson!”

Cậu ấy gật đầu đầy lo lắng. Bây giờ, chúng tôi đã ra khỏi
Trại Con Lai và Màn Sương Mù lại bóp méo gương mặt cậu ấy. Trừ phi tôi phải rất
tập trung, nếu không thì dường như cậu ấy đã có hai mắt, thay cho một mắt.

“Được rồi,” Annabeth nói. “Vậy chính xác là cậu ngửi thấy
mùi gì?”

“Thứ gì đó rất tệ,” Tyson đáp.

“Tuyệt,” Annabeth cằn nhằn, “Nó làm sáng tỏ nhiều điều đấy.”

Chúng tôi ra ngoài về phía khu bể bơi. Có rất nhiều dãy ghế
xếp trống và một quán bar được đóng bởi một tấm màn làm bằng xích. Nước trong bể
rực sáng một cách kỳ lạ, chuyển động lên xuống theo chuyển động của con tàu.

Ở phía trên bọn tớ, suốt chiều con tàu là một bức tường tập
leo núi trong nhà, một sân golf pitch-and-putt (27), một nhà hàng xoay nhưng nó
không hể có bất cứ dấu hiệu nào của sự sống.

Và giờ… tôi lại cảm nhận được điều gì đó quen thuộc. Một
điều gì đó rất nguy hiểm. Tôi có cảm giác rằng nếu tôi không quá mệt và đã đốt
cháy hết chất adrenalin trong suốt đêm dài, tôi có thể đặt tên cho mối nguy
hiểm đó là gì.

 “Chúng ta cần một nơi để trốn,” tôi nói. “Nơi nào đó
an toàn để ngủ.”

“Ngủ.” Annabeth mệt mỏi đồng ý.

Chúng tôi thăm dò thêm một vài hành lang cho tới khi tìm
được một buồng trống ở tầng chín. Cánh cửa mở sẵn khiến tôi thấy khó hiểu. Trên
bàn để sẵn một giỏ bánh kẹo socôla, một chai rượu táo ướp lạnh được đặt trên
bàn đầu giường và một nhánh bạc hà trên gối kèm theo một tờ giấy viết tay có
dòng chữ: Hãy tận hưởng chuyến du hành của các bạn!

Chúng tôi mở túi du lịch ra trước và nhận ra rằng thần
Hermes đã thực sự suy nghĩ hết mọi việc – quần áo để thay, các vật dụng dùng
khi tắm rửa, khẩu phần ăn của trại, một túi đầy tiền mặt, một bao da nhỏ đầy
những đồng tiền vàng. Thậm chí thần Hermes còn bỏ vào cho Tyson chiếc túi chứa
tấm vải dầu đựng các dụng cụ và những mảnh kim loại của cậu ấy và chiếc mũ tàng
hình cho Annabeth, điều đó giúp họ thấy dễ chịu hơn.

“Tớ sẽ ở ngay kế bên,” Annabeth nói. “Đám các cậu đừng ăn
uống bất cứ thứ gì nhé!”

“Cậu nghĩ rằng nơi này bị bỏ bùa sao?”

Cô ấy cau mày. “Tớ không biết. Có thứ gì đó không ổn. Chỉ
là… nên cẩn thận.”

Chúng tôi khóa cửa lại.

Tyson đổ sầm xuống đi văng. Cậu ấy ngó ngoáy một vài phút
với mô hình kim loại của mình - thứ mà cậu ấy vẫn chưa muốn cho tôi xem - nhưng
chẳng mấy chốc, cậu ấy đã ngáp ngắn ngáp dài. Tyson gói túi dầu lại và ngủ say
như chết.

Tôi nằm trên giường và nhìn ra ô cửa sổ. Tôi nghĩ mình vừa
nghe thấy tiếng động gì đó ở hành lang, giống như tiếng ai đó thì thầm. Tôi
biết điều này là không thể. Chúng tôi đã đi khắp con tàu và không hề thấy ai.
Nhưng những âm thanh này khiến tôi hoàn toàn tỉnh táo. Chúng nhắc tôi về chuyển
đi xuống Âm phủ - cách các linh hồn đã chết phát ra tiếng khi họ bị cuốn đi.

Cuối cùng cơn mệt mỏi cũng chiến thắng tôi. Tôi ngủ thiếp
đi… và mơ một giấc mơ tồi tệ nhất chưa từng có.

Tôi đang đứng ở gở của một chiếc hố khổng lồ trong một hang
động. Tôi biết rất rõ chỗ này. Đường vào Tartarus. Và tôi nhận ra tiếng cười
lạnh lẽo vọng lên từ bóng tối bên dưới.

Đây chẳng phải là người anh hùng trẻ tuổi. Giọng nói
như một lưỡi dao bén cứa qua cứa lại trên phiến đá. Đang trên đường tới
một chiến thắng vĩ đại khác.

Tôi muốn gào lên với Kronos rằng hãy để tôi được yên. Tôi
muốn rút cây Thủy Triều và hạ gục ông ta. Nhưng tôi không thể nhúc nhích. Và
thậm chí tôi có thể chăng nữa, làm thế nào tôi có thể giết được thứ đã bị phá
hủy – bị cắt thành nhiều mảnh và bị ném vào bóng đêm vĩnh viễn không?

Đừng để ta chặn ngươi lại, người khổng lồ Titan
nói. Có thể lần này, khi ngươi bị thất bại, ngươi sẽ muốn biết liệu
việc làm nô lệ cho các vị thần có đáng không. Chính xác thì gần đây cha ngươi
đã thể hiện sự cảm kích đó như thế nào?

Tiếng cười của ông vang khắp hang, và khung cảnh biến đổi.

Đây là một cái hang khác – phòng ngủ ngục tù của Grover nằm
trong hang của người Cyclops.

Grover đang nằm ngồi chỗ khung cửi trong bộ đầm cưới dính
đầy bùn đất, điên cuồng tháo gỡ những đường chỉ của phần đuôi chiếc đầm cưới
chưa hoàn tất.

“Bánh mật ong của anh ơi!” Con quái vật gào lên từ phía sau
tảng đá.

Grover kêu ầm lên và bắt đầu dệt lại các đường chỉ.

Căn phòng rung dữ dội khi tảng đá được đẩy sang một bên.
Hiện ra lờ mờ trên lối ra là một Cyslops to tợn tới mức Tyson cũng chẳng bõ bèn
gì. Hắn có bộ răng vàng khè lởm chởm, đôi tay xương xẩu to bằng cả người tôi.
Hắn mặc chiếc áo phông màu đỏ tía đã bạc màu có dòng chữ TRIỄN LÃM CỪU THẾ GIỚI
2001. Hắn phải cao tới ít nhất năm mét. Nhưng thứ khiến người ta phải sửng sốt
lại chính là con mắt khổng lồ màu trằng đục, bị sẹo và phủ một lớp màng bên
ngoài như chứng đục nhãn mắt. Nếu hắn không hoàn toàn bị mù, ắt hẳn hắn sẽ nhìn
tốt ở cự ly gần.

“Cưng đang làm gì thế?” con quái vật cất tiếng.

“Chả làm gì!” Grover đáp bằng giọng the thé. “Chỉ đang dệt
cái đuôi chiếc đầm cưới như anh có thể nhìn thấy.”

Gã Cyclops thọc một tay vào căn phòng và sờ soạng tìm xung
quanh cho đến khi hán tìm được khung cửi. Hắn mân mê chỗ vải. “Chẳng dài hơn tí
nào cả!”

“Ôi không, có chứ, anh yêu. Có nhìn thấy không? Em đã may
thêm được ít nhất ba centimét rồi đấy!”

“Quá nhiều sự trì hoãn!” con quái vật kêu rống lên. Rồi hắn
ngửi ngửi trong khòng khí. “Mùi của cưng thật tuyệt! Y như lũ dê vậy!”

“Ồ!” Grover gắng cười khúc khích đầy yếu ớt. “Anh có thích
không? Đó là loại nước hoa mùi dê đấy. Em dùng nó chỉ vì anh
thôi.”

“Ừm!” Gã Cyclops phô cả hàm răng nhọn. “Đủ ngon để xơi đấy!”

“Ôi, anh thật biết đùa!”

“Không được trì hoãn nữa!”

“Nhưng cưng ơi, em vẫn chưa làm xong mà!”

“Ngày mai!”

“Không, không. Mất thêm mười ngày nữa cơ.”

“Năm ngày!”

“Ôi thôi, được rồi, bảy ngày nhé. Nếu anh cứ khăng khăng như
thế!”

“Bảy ít hơn năm phải không?”

“Tất nhiên rồi. Đúng vậy.”

Con quái vật cằn nhằn, vẫn không chịu hài lòng với thỏa
thuận của hắn. Nhưng rồi hắn cũng chịu để Grover ở lại với đồ đang làm dở và
lăn tảng đá lại chỗ cũ.

Grover nhắm chặt mắt và run run thở, cố gắng giữ cho mình
được bình tĩnh.

“Nhanh kên, Percy,” cậu ấy nói thầm. “Xin cậu đấy, xin cậu
đấy. Xin cậu!”

Tôi tỉnh dậy bởi tiếng còi tàu và một giọng nói được phát ra
từ hệ thống liên lạc – mấy gã nào đó với giọng Úc nghe rất hạnh phúc.

“Chào buổi sáng, các quý khách! Chúng ta sẽ ở trên biển cả
ngày hôm nay. Thời tiết thật tuyệt vời cho bữa tiệc mambo cạnh bể bơi. Đừng
quên trò bingo trị giá triệu đôla trong Sảnh Kraken vào lúc một giờ. Và đối với
những vị khách đặc biệt của chúng ta, hãy thực tập
trò mổ bụng ở Promenade!”

Tôi ngồi bật dậy trên giường. “Anh ta nói gì thế nhỉ?”

Tyson lầm bầm, nửa thức nửa tỉnh. Cậu ấy úp mặt xuống đi
văng. Chân cậu ấy dài đến nỗi được đặt trong phòng tắm. “Người đàn ông hạnh
phúc nói… thực tập chơi bowling phải không?”

Tôi hy vọng cậu ấy nói đúng. Nhưng tiếp theo đó là tiếng gõ
cửa gấp gáp từ cánh cửa nội bộ trong căn buồng lớn này. Annabeth thò đầu vào…
mái tóc vàng của cô ấy như cái ổ chuột. “Thực hành mổ bụng phải
không?”

Báo cáo nội dung xấu